VAI TRÒ CỦA CẠNH TRANH TRONG TIẾN TRÌNH HOẠT ĐỘNG
MARKETING TẠI CÁC DOANH NGHIỆP
I-/ KHÁI QUÁT VỀ CẠNH TRANH
1. Khái niệm:
Cạnh tranh là một hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp, nó được thể hiện
trong các biện pháp kinh doanh, có thể hiểu cạnh tranh của các doanh nghiệp là
việc sử dụng hệ thống cá chính sách, các công cụ của các doanh nghiệp để đối phó
và phản ứng với các doanh nghiệp khác nhằm mục đính tồn tại và phát triển trên
thị trường và để thu lợi nhuận dự kiến hoặc lợi nhuận tối đa.
Cạnh tranh ngày một sâu rộng va trở nên gay gắt, nó là yếu tố nội tại của
hàng hoá và tiếp cận thị trường không thể tránh được. Cạnh tranh buộc doanh
nghiệp phải xuất sắc và cung cấp những sản phẩm mà thị trường cần để đáp ứng
nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của người tiêu dùng.
Cạnh tranh giúp cho doanh nghiệp hoàn thiện chính sách Marketing-Mix của
mình để đạt mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Trong quá trình cạnh tranh
doanh nghiệp sẽ dần dần khẳng định được vị trí và uy tín của mình trên thị trường.
Về mặt xã hội, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế vàc là công
cụ điều tiết thị trường. Cạnh tranh trên thị trường được phân loại theo nhiều cách
khác nhau, nhưng xét theo phậm vi kinh tế cạnh tranh được chia thành 2 loại:
* Cạnh tranh giữa các nghành
* Cạnh tranh trong nội bộ nghành
Cạnh tranh giữa các nghành là sự cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp mua
bán hàng hoá dịch vụ khác nghành với nhau nhằm thu lợi nhuận và có tỉ xuất lợi
nhuận cao hơn so với vốn đã bỏ ra. Trong quá trình cạn tranh này các chủ doanh
nghiệp luôn đầu tư các nghành có lợi hất nên đã chuyển vốn từ nghành ít lợi nhuận
sang nghành có nhiều lợi nhuận.
Cạnh tranh trọng nội bộ nghành là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng
kinh doanh một loại hàng hoá hay dịch vụ nhằm giành lấy các điều kiện có lợi nhất
trong việc sản xuất, tiêu thụ hàng hoá dịch vụ đó. Mục đích là đạt được lợi nhuận
siêu nghạch
2. Các quan điểm cạnh tranh:
1* Quan điểm I: Cạnh tranh là sử dụng các biện pháp để chiến thắng trên thị
trường.
2* Quan điểm II: Cạnh tranh là sử dụng các biện pháp chính sách và nghệ thuật
để doanh nghiệp tạo ra nhiều lợi thế tồn tại trên thị trường. Cạnh tranh
không nhất thiết là phải làm cho doanh nghiệp mình thắng.
3* Quan điểm III: Cạnh tranh là sử dụng các chính sách biện pháp và nghệ thuật
để thực hiện các chiến lược cạnh tranh đặc biệt là chiến lược về tài chính và
lợi nhuận.
Có rất nhiều những quan điểm về cạnh tranh khác nhau, nhưng thực chất của
cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp là đưa ra những chiến lược, chiến thuật phù
hợp với tiềm lực của doanh nghiệp, ứng sử tốt với các chiến lược và chiến thuật
của đối thủ cạnh tranh nhằm giành lợi thế trong sản xuất tiêu thụ hàng hoá và dịch
vụ nhằm tối đa hoá lợi nhuận.
Kinh tế thị trường luôn có xu hướng ra tăng nhiều hãng cùng tham gia voà
một lĩnh vực do đó cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt.Quy luật cạnh tranh sẽ lần
lượt gạt khỏi thị trường những doanh nghiệp không có khả năng phân bố nguồn lực
tới các hãng hoạt động có hiệu quả hơn. Đồng thời nó buộc các doanh nghiệp phải
tự vận động tạo ra cho mình một lợi thế so với đối thủ để tồn tại và phát triển.
3. Các hình thức cạnh tranh:
Cạnh tranh là đặc trưng cơ bản của thị trường và thị trường là vũ đài cạnh
tranh, là nơi gặp gỡ các đối thủ để cạnh tranh. Trên thị trường các doanh nhgiệp sử
dụng rất nhiều các hình thức khác nhau để cạnh tranh, đó là:
3.1. Cạnh tranh về sản phẩm:
Đây là một trong những hình thức cạnh tranh quan trọng nhất, chữ tín của
doanh nghiệp va tạo ra lợi thế có tính quyế định cho cạnh tranh.
Nhu cầu của người ngày càng có xu thế đi lên do vậy cuộc đời của mỗi mẫu
hàng ngắn dần. Sự sống còn của mỗi công ty phụ thuộc vào khả năng thay đổi mẫu
mã kiểu dáng nhanh. Sản xuất hàng loạt kết hợp với những mặt hàng đơn chiếc
phục vụ cho từng đối tượng người tiêu dùng sẽ nâng cao sức cạnh tranh cho công
ty. Thời kỳ “chất lượng ăn đứt hình thức” đã qua, khách hàng đòi hỏi cả nội dung
lẫn hình thức. Bao bì đẹp thể hiện sự tôn trọng đối với người tiêu dùng.
Cạnh tranh thông qua việc xác định và đưa ra thị trường những sản phẩm có
chất lượng cao hơn, những sản phẩm này có ưu thế trên thương trường tuy nhiên
cần chú ý mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng và giá bán để đảm bảo lợi thế của
sản phẩm có chất lượng cao.
3.2. Cạnh tranh bằng giá:
Giá cả là công cụ của Marketing và là một trong những công cụ cạnh tranh
quan trọng nhất. Định giá có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng, vì nó là nhân tố quy
định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Định giá trong kinh doanh, đòi hỏi
các doanh nghiệp phải nghiên cứu các yếu tố một cách tỉ mỉđể có thể quy định giá
thích hợp cho sản phẩm của mình một cách phù hợp nhất vào một thời điểm nhất
định nào đó. Đưa ra một chính sách giá cả nào, vào thời điểm nào cho phù hợp sẽ
tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho công ty. Các đối thủ cách tranh sử dụng giá thấp
hoặc gia ưu đãi để bán hàng, với mức giá đó kênh phân phối của doanh nghiệp sẽ
bị rối loạn, người điều khiển kênh không quản lý được lực lượng bán hàng và phần
lớn người bán hàng vì chạy theo lợi ích kinh tế đã đi bán hàng cho đối thủ cạnh
tranh và do đó doanh nghgiệp không có người bán hàng sẽ bị phá sản. Cạnh tranh
bằng giá thực chất là tạo được nghệ thuật sử dụng giá và giá bán tạo ra nhiều lợi
thế trên thương trường. Các biện pháp cạnh tranh về giá mà các công ty đưa ra là
một cơ sở giá linh hoạt. Nó không phải cố định mà thay đổi phù hợp theo tình hình
thị trường, bao gồm:
- Định giá thấp: Với mục đích thâm nhập thị trường hay thu hút được một
khối lượng lớn khách hàng, nhanh chóng thu tiền về các công ty sẽ đưa ra mức giá
thấp.
- Sử dụng hạ giá: Thực chất là chú trọng đến việc quản lý chặt chẽ và chi phí
tiết kiệm chi phí và hạ thấp chi phí do đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự lựa chọn
công nghiệp và thiết bị. Hạ giá để chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm và thực hiện
chiến lược về tài chính. Khi thị trường đã chiếm lĩnh được doanh nghiệp có thể lại
hoàn giá theo mức cũ hoặc tương đương, trong cạnh tranh hạ giá là biện pháp được
sử dụng nhiều nhất.
- Giá ưu đãi: giá ưu đãi thường có mức giá thấp hoặc rất thấp do đó nó trở
thành yếu tố lợi ích rất hấp dẫn đối với người mua và người tiêu dùng. Vì vậy nó
có khả năng lôi kéo nhu cầu xã hội về sản phẩm của doanh nghiệp.
- Giá thị trường: công ty không muốn lôi kéo khách hàng về phía mình bằng
mức giá thấp và đồng thời họ cũng không muốn mất khách hàng nếu họ đánh giá
quá cao thị trường.
- Cố định giá cao: công ty muốn tối đa hoá lợi nhuận khu vực thị trường của
mình thị công ty sẽ tìm cách dễ tăng giá dịch vụ.
3.3. Cạnh tranh về uy tín :
Các hãng tranh nhau bỏ những khoản tiền lớn mua một số nhãn hiệu nổi
tiếng, hay đấu tranh chống bọn làm hàng giả, nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch
vụ, cố gắng tiết kiệm các chi phí để hạ giá thành sản phẩm. .. cũng chỉ đẻ giữ uy tín
của công ty với khách hàng. Để tạo uy tín là vô cùng khó khăn, tốn kém và vô cùng kì
công, trong đó chỉ sơ xuất nhỏ cũng làm mất nó.Tạo được uy tín đã khó, phấn đấu để
duy trì và củng cố nó càng khó hơn.
Trong xã hội tiêu dùng, khi chất lượng hàng hoá của các hãng không chênh
lệch nhau là mấy thì uy tín là vấn đề quyết địnhKhách hàng chỉ tìm đến với các
nhãn mác nổi tiếng chứ không mấy ai bỏ tiền ra mua hàng hoá không rõ nguồn gốc
xuất xứ.
3.4. Cạnh tranh về phục vụ:
Phục vụ là một trong một trong số lĩnh vực có cạnh tranh mãnh liệt nhất, đặc
biệt trong lĩnh vực hiện nay. Nhiều hãng coi đây là địa bàn lợi hại nhất trong việc
trinh phục khách hàng. Chất lượng hàng hoá thì khó phân biệt nhưng trình độ và
chất lượng dịch vụ thì khó qua mắt người tiêu dùng.
Người tiêu dùng hiện đại thường quan tâm nhiều đến dịch vụ hơn là một số
yếu tố như giá cả, thậm chí cả chất lượng của món hàng đã mua. Việc vận chuyển
ra sao, cách bảo hành như thế nào, thời gian bảo dưỡng đinh kỳ có thường xuyên
hay không thái độ bên bán ra sao mỗi khi hàng hóa có vấn đề trục trặc.
Như vậy chất lượng phục vụ là yếu tố hết sức quan trọng, chất lượng phục
vụ thay đổi tuỳ theo người cung cấp thời gian, địa điểm. Vì vậy để cạnh tranh hiệu
quả, nguyên tắc chung của họ là tạo sự tin tưởng đối với khách hàng. Trong kinh
doanh các doanh nghiệp thường phải đối đầu với tính thời vụ có lúc hoạt động dồn
dập, nhưng cũng có lúc không có việc làm. Việc tạo ra một cơ cấu phục vụ sẽ giúp
được doanh nghiệp khắc phục được hạn chế trên và sẽ thoả mãn được nhu cầu
khách hàng, giảm bớt được rủi ro trong kinh doanh.