Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂMTNDS CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA Ở CÔNG TY BẢO HIỂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.09 KB, 36 trang )

THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂMTNDS CỦA CHỦ
XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA Ở CÔNG TY BẢO HIỂM THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH.
I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY BẢO HIỂM THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH.
1. Sự hình thành và phát triển.
Ngày 28/11/1994 công ty bảo hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh)
được thành lập và hoạt động, trên cơ sở một chi nhánh lớn nhất của tổng công ty
bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt). Bảo Minh là doanh nghiệp nhà nước, có chức năng
thực hiện các hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm trên phạm vi cả
nước.
Từ khi thành lập công ty đã không ngừng đa dạng hoá sản phẩm. Hiện nay
công ty đã triển khai được hầu như tất cả các sản phẩm bảo hiểm chủ yếu trên thị
trường bảo hiểm Việt Nam. Đồng thời công ty đã hoạt động kinh doanh ở 37 tỉnh
thành trong cả nước, với 23 chi nhánh, 13 văn phòng đại diện, 6 phòng bảo hiểm
khu vực tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Để thúc đẩy sự phát triển công ty còn tiến
hành thành lập công ty liên doanh bảo hiểm liên hiệp (UIC) (năm 1997), Thành lập
công ty liên doanh bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh – CMG (1999), tham gia hiệp hội
bảo hiểm Việt Nam (1999), ngoài ra công ty còn ký hợp tác bảo hiểm, tái bảo hiểm
với rất nhiều công ty.
Về cơ cấu tổ chức, công ty cũng không ngừng thay đổi và hoàn thiện để phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế, Cụ thể:
-Từ tháng 12/1994 – 1998 cơ cấu tổ chức gồm có Ban giám đốc công ty, các
phòng tại văn phòng công ty, các phòng quản lý và các phòng khai thác, các chi
nhánh địa phương, phòng bảo hiểm khu vực Thành Phố Hồ Chí Minh, văn phòng
đại diện ở một số tỉnh, ngoài ra còn có hệ thống đại lý cộng tác viên.
-Năm 1998-2000 cơ cấu tổ chức giữ nguyên như trên, ngoài ra có thành lập
một số phòng quản lý tại văn phòng công ty, thành lập các công ty liên doanh bảo
hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Phát triển các chi nhánh đều khắp các tỉnh trong cả
nước (22 chi nhánh, 7 văn phòng đại diên).
-Năm 2000-2001 ban giám đốc chủ trương tách khối quản lý và khối khai thác


trên văn phòng công ty thành hai bộ phận riêng biệt. Đặc biệt năm 2001 sát nhập
các phòng khai thác ở văn phòng công ty và các phòng bảo hiểm khu vực thành
phố hồ chí minh thành sở giao dịch để tăng thêm sức mạnh và tập trung chỉ đạo.
Thành lập các văn phòng đại diện để quản lý đại lý ở các tỉnh không có chi nhánh.
Đối với các tỉnh có đủ điều kiện để thành lập chi nhánh thì có thể thành lập mới
hoặc chuyển văn phòng đại diện thành chi nhánh tại địa bàn.
Mặc dù sự chuyển đổi cơ cấu tổ chức như trên đã từng bước phù hợp với nhu
cầu của từng thời kỳ, nó đã phát huy được tác dụng là tăng doanh thu, mở rộng thị
phần và phủ tương đối kín địa bàn. Bên cạnh đó nó có những nhược điểm như:
Giao quyền quản lý cho một số chi nhánh lớn trong khi khả năng cán bộ quản lý
hạn chế, phát triển tổ chức không đồng đều, phía bắc còn mỏng, tổ chức còn cồng
kềnh, nhiều cấp trung gian, chưa thống nhất, trách nhiệm, quyền hạn chưa rõ
ràng...Để khắc phục những nhược điểm trên trong thời gian tới công ty sẽ chuyển
cơ cấu tổ chức từ dọc sang ngang, mà nội dung chủ yếu là: Chuyển từ cơ cấu tổ
chức nhiều cấp sang cơ cấu ít cấp ( 3 cấp – cấp công ty;cấp chi nhánh, sở giao
dịch, văn phòng đại diện; cấp phòng nghiệp vụ khu vực ); tập trung củng cố khối
văn phòng công ty; bố trí hợp lý lực lượng khai thác khách hàng, hợp tác với các
công ty dịch vụ, cung cấp dịch vụ tốt, ổn địnhvà vì lợi ích lâu dài của hai bên; định
hướng vào khách hàng và thị trường; thành lập thêm các chi nhánh để tăng thị phần
và tăng khả năng phục vụ khách hàng; thành lập các đội quá trình nhóm, tổ theo
dõi thực hiện các quy trìnhvà kịp thời phát hiện lỗi để khắc phục.
Về tình hình doanh thu phí bảo hiểm gốc nghiệp vụ bảo hiểm gốc của một số
nghiệp vụ bảo hiểm chủ yếu của công ty được tóm tắt trong bảng sau:
Bảng 3: Doanh thu phí bảo hiểm gốc của một số nghiệp vụ bảo hiểm chính.
Năm
Chỉ tiêu Đơn vị 1998 1999 2000 2001
Tai nạn con người Tr.đ 37235 46321 53521 70260
tài sản và thiệt hại Tr.đ 38762 28463 25354 27914
Hàng hóa vận chuyển Tr.đ 47565 37470 49211 51126
Thân tàu và TNDS chủ

tàu Tr.đ 46533 43435 48617 53468
Trách nhiệm chung Tr.đ 9201 7436 10395 11256
Hàng không Tr.đ 57394 73480 80558 158309
Xe cơ giới Tr.đ 95229 90927
10300
9 129510
Cháy Tr.đ 74545 48775 54740 55966
(Nguồn: Công ty Bảo Hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh)
Ta thấy doanh thu phí bảo hiểm gốc của các nghiệp vụ trên nói chung là đều
tăng qua các năm. Nghiệp vụ bảo hiểm nạn con người năm 1998 doanh thu đạt
37235 (triệu đồng), năm 1999 đạt 46321 (triệu đồng), tăng 24,40% so với năm
trước, năm 2000 đạt 53521 (triệu đồng), tăng 15,54% so với năm 1999, năm 2001
đạt tới 70206 (triệu đồng), tăng 31,28% so với năm 1999. Nghiệp vụ tai nạn con
người, đây là nghiệp vụ duy nhất mà doanh thu liên tục giảm qua 2 năm liên tiếp,
năm 1998 đạt 38762 (triệu đồng), năm 1999 đạt 28463 (triệu đồng), giảm tới
26,57%, năm 2000 lại tiếp tục giảm và chỉ đạt 25354 (triệu đồng), giảm 10,92%, so
với năm 1999, năm 2001 tăng lên nhưng chỉ đạt 27914 (triệu đồng), tăng 10,10%
so với năm 2000. Nghiệp vụ hàng hoá vận chuyển, năm 1998 đạt 47565 (triệu
đồng), năm 1999 đạt 37470 (triệu đồng), giảm 21,22% so với năm 1998, năm 2000
đạt 49211 (triệu đồng), tăng 31,33% so với năm 1999, năm 2001 đạt 51126 (triệu
đồng), tăng 3,89% so với năm 2000. Nghiệp vụ thân tàu và TNDS của chủ tàu,
năm 1998 đạt 46533 (triệu đồng), năm 1999 đạt 43435 (triệu đồng), giảm 6,66% so
với năm 1998, năm 2000 đạt 48617 (triệu đồng), tăng 11,93% so với năm 1999,
năm 2001 đạt 53468 (triệu đồng), tăng 9,98% so với năm 2000. Nghiệp vụ Trách
nhiệm chung, năm 1998 đạt 9201 (triệu đồng), năm 1999 đạt 7436 (triệu đồng),
giảm 19,18% so với năm 1998, năm 2000 tăng mạnh và đạt 10395 (triệu đồng),
tăng tới 39,79% so với năm 1999, năm 2001 đạt 11256 (triệu đồng), tăng 8,28% so
với năm 2000. Nghiệp vụ hàng không, năm 1998 đạt 57394 (triệu đồng), năm 1999
đạt 73480 (triệu đồng), tăng 28,03% so với năm 1998, năm 2000 đạt 80558 (triệu
đồng), tăng 9,63% so với năm 1999, năm 2001 đạt mức rất cao (158309 (triệu

đồng) ), tăng tới 96,52% so với năm 2000. Nghiệp vụ xe cơ giới, năm 1998 đạt
95229 (triệu đồng), năm 1999 giảm một chút và đạt 90927 (triệu đồng), giảm
4,52% so với năm 1998, năm 2000 đạt 103009 (triệu đồng), tăng 13,29% so với
năm 1999, năm 2001 đạt 129510 (triệu đồng), tăng 25,73% so với năm 2000.
Nghiệp vụ cháy, năm 1998 đạt 74545 (triệu đồng), năm 1999 đạt 48775 (triệu
đồng), giảm tới 34,57% so với năm 1998, năm 2000 đạt 54740 (triệu đồng), tăng
12,23% so với năm 1999, năm 2001 đạt 55966 (triệu đồng), tăng 2,24% so với năm
2000.
Doanh thu phí bảo hiểm gốc tăng đã làm cho thị phần của Bảo Minh không
ngừng tăng hiện nay thị phần của Bảo Minh là 26.3% tăng 70% so với lúc mới
thành lập công ty và tăng 7,3% so với năm 2000.
Trong các năm trên thì chỉ có năm 1999 là doanh thu phí bảo của hầu hết các
nghiệp vụ bị giảm sút. Điều này chủ yếu là do: Đây là năm tình hình đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam giảm mạnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm so với các năm
trước(chỉ đạt 4,8%). Chính vì vậy đã có tác động to lớn làm cho doanh thu lĩnh vực
phi nhân thọ trên toàn thị trường nói chung và Bảo Minh nói riêng bị giảm; cùng
với sự phát triển chậm của nền kinh tế là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị
trường bảo hiểm làm thị phần bị xé nhỏ, doanh thu phí bảo hiểm gốc bị giảm; một
nguyên nhân nữa là năm 1999 áp dụng luật thuế mới( 4% thuế doanh thu được thay
bằng 10% thuế VAT) nên doanh thu phí bảo hiểm phải tách riêng thuế vì vậy làm
cho việc so sánh doanh thu phí năm nay với năm trước sẽ thay đổi theo khuynh
hướng giảm.
Tóm lại ,công ty đã đạt được doanh thu khá tốt với các nghiệp vụ chủ yếu của
mình. Điều đó đạt được một phần là do các yếu tố bên ngoài, như: sự tăng trưởng
kinh tế, sự giúp đỡ của Nhà nước, nhưng phần lơn những kết quả đó là do công ty
luôn cải thiện bộ máy quản lý, không ngừng mở rộng các chi nhánh, văn phòng đại
diện ra các tỉnh và thành phố, tăng cường tuyên truyền quảng cáo, không ngừng cải
tiến, hoàn thiện sản phẩm,có chính sách hoa hồng hợp lý, tăng cường lòng tin đối
với khách hàng thông qua các công tác: Giám định, bồi thường...
Để đánh giá các nghiệp vụ trên ta còn cần xem xét tình hình bồi thường của

nó.

Bảng 4: Tình hình bồi thường của các nghiệp vụ bảo hiểm chủ yếu
Năm
Chỉ tiêu Đơn vị 1998 1999 2000 2001
Tai nạn con người Tr.đ 19811 25622 32581 40092
tài sản và thiệt hại Tr.đ 4705 2815 19389 4546
Hàng hóa vận chuyển Tr.đ 16410 45628 27551 11478
Thân tàu và TNDS chủ tàu Tr.đ 18703 32876 42445 29972
Trách nhiệm chung Tr.đ 1365 809 1129 700
Hàng không Tr.đ 4866 115559 73366 80226
Xe cơ giới Tr.đ 51304 54540 58227 79942
Cháy Tr.đ 3597 8648 24278 40139
(Nguồn: Công ty Bảo Hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh)
Mặc dù bồi thường của các nghiệp vụ biến động khách nhau qua các năm tuy
nhiên nhìn chung cũng gia tăng qua các năm. Nghiệp vụ tai nạn con người, năm
1998 bồi thường 19811 (triệu đồng), năm 1999 đã lên đến 25622 (triệu đồng), tăng
29,33 so với năm 1998, năm 2000 tăng lên 32581 (triệu đồng), tăng 27,16% so với
năm 1999, năm 2001 tiếp tục tăng lên 40092 (triệu đồng), tăng 23,05% so với năm
2000. Nghiệp vụ tài sản và thiệt hại, năm 1998 bồi thường 4705 (triệu đồng), năm
1999 chỉ bồi thường 2815 (triệu đồng), giảm 40,17% so với năm 1998, năm 2000
đột biến lên đến 19389 (triệu đồng), tăng 588,77% so với năm 1999, năm 2001 lại
giảm mạnh và chỉ còn 4546 (triệu đồng), giảm 76,55% so với năm 2000. Nghiệp
vụ hàng hoá vận chuyển, năm 1998 bồi thường 16410 (triệu đồng), năm 1999 tăng
mạnh, lên đến 45628 (triệu đồng), tăng 178,05% so với năm 1998, năm 2000 giảm
xuống chỉ còn 27551 (triệu đồng), giảm 39,62 % so với năm 1999, năm 2001 lại
tiếp tục giảm xuống còn 11478 (triệu đồng), giảm 58,34% so với năm 2000.
Nghiệp vụ thân tàu và TNDS của chủ tàu, năm 1998 bồi thường 18703 (triệu
đồng), năm 1999 tăng lên đến 32876 (triệu đồng), tăng 75,78% so với năm 1998,
năm 2000 tăng lên 42445 (triệu đồng), tăng 29,11% so với năm 1999, năm 2001,

giảm xuống và chỉ còn 29972 (triệu đồng), giảm 29,39% so với năm 2000. Nghiệp
vụ trách nhiệm chung, năm 1998 bồi thường 1365 (triệu đồng), năm 1999 giảm
xuống còn 809 (triệu đồng), giảm 40,73% so với năm 1998, năm 2000 tăng lên
1129 (triệu đồng), tăng 39,56% so với năm 1999, năm 2001 lại giảm xuống chỉ còn
700 (triệu đồng), giảm 38% so với năm 2000. Nghiệp vụ hàng không, năm 1998
bồi thường 4866 (triệu đồng), năm 1999 tăn đột ngột lên tới 115559 (triệu đồng),
tăng 2274,80% so với năm 1998, năm 2000 giảm xuống chỉ còn 73366 (triệu
đồng), giảm 36,51% so với năm 1999, năm 2001 tăng lên 80226 (triệu đồng), tăng
9,35% so với năm 2000. Nghiệp vụ xe cơ giới, năm 1998 bồi thường 51304 (triệu
đồng), năm 1999 tăn lên 54540 (triệu đồng), tăng 6,31% so với năm 1998, năm
2000 tăng lên 58227 (triệu đồng), tăng 6,76% so với năm 1999, năm 2001 tăng lên
79942 (triệu đồng), tăng 37,27% so với năm 2000. Nghiệp vụ cháy, năm 1998 bồi
thường 3597 (triệu đồng), năm 1999 tăng lên đến 8648 (triệu đồng), tăng 140,42%
so với năm 1998, năm 2000 lại tiếp tục tăng lên đến 24278 (triệu đồng), tăng
180,74 (triệu đồng), năm 2001 lại tăng lên 40139 (triệu đồng), tăng 65,33% so với
năm 2000.
Bồi thường nói chung là tăng qua các năm, là điều dễ hiểu. Bởi vì doanh thu
phí bảo hiểm gốc tăng lên đi kèm với số đơn bảo hiểm cấp cũng tăng nên do đó số
vụ rủi ro sẽ nhiều hơn từ đó tất yếu dẫn đến thiệt hại sẽ tăng lên. Để thấy rõ hơn về
tình hình bồi thường ta cần xem xét chỉ tiêu tỉ lệ bồi thường trên doanh thu.
Bảng 5: Tỉ lệ bồi thường trên doanh thu của một số nghiệp vụ chủ yếu của
Bảo Minh .
Năm
Chỉ tiêu Đơn vị 1998 1999 2000 2001
Tai nạn con người Tr.đ 53,21 55,31 60,88 57,06
Tài sản và thiệt hại Tr.đ 12,14 9,89 76,47 16,29
Hàng hóa vận chuyển Tr.đ 34,50 121,77 55,99 22,45
Thân tàu và TNDS chủ tàu Tr.đ 40,19 75,69 87,31 56,06
Trách nhiệm chung Tr.đ 14,84 10,88 10,86 6,22
Hàng không Tr.đ 8,48 157,27 91,07 50,68

Xe cơ giới Tr.đ 53,87 59,98 56,53 61,73
Cháy Tr.đ 4,83 17,73 44,35 71,72
(Nguồn: Tính toán từ các số liệu ở trên)
Qua bảng trên ta thất tỉ lệ bồi thường trên doanh thu của các nghiệp vụ: Tai
nạn con người, trách nhiệm chung và xe cơ giới biến đông không nhiều qua các
năm, các nghiệp vụ còn lại thì tỉ lệ này biến động lớn qua các năm,
-Đối với các nghiệp vụ biến động nhỏ.
Nghiệp vụ tai nạn con người, tỉ lệ bồi thường trên doanh thu từ 1998 – 2001
ở mức cao và luôn chỉ biến động trong khoảng 53- 61%. Nghiệp vụ trách nhiệm
chung, tỉ lệ này luôn ở mức thấp (dưới 15%) và cũng chỉ biến động trong khoảng
từ 6 – 15%. Nghiệp vụ xe cơ giới, tỉ lệ bồi thường trên doanh thu luôn ở mức khá
cao(hơn 53%) đồng thời tăng đều qua các năm, tuy nhiên tăng không lớn và chỉ
nằm trong khoảng 53-62%.
-Đối với các nghiệp vụ biến động lớn:
Nghiệp vụ tài sản và thiệt hại năm 1998 tỉ lệ bồi thường trên doanh thu là
12,14%, năm 1999 giảm xuống rất thấp, chỉ còn 9,89%, sang năm 2000 đột ngột
tăng lên đến 76,47%, đến năm 2001 lại giảm xuống, chỉ còn 16,29%. Nghiệp vụ
hàng hoá vận chuyển, năm 1998 tỉ lệ này là 34,50%, năm 1999 tăng kỷ lục và đạt
121,77%, sang năm 2000 giảm mạnh xuống còn 55,99%, đến năm 2001 thì chỉ còn
22,45%. Nghiệp vụ thân tàu và TNDS của chủ tàu, năm 1998 là 40,19%, năm 1999
tăng lên đến 75,69%, năm 2000 tiếp tục tăng lên đến 87,31%, đến năm 2001 lại
giảm xuống chỉ còn 56,06%. Nghiệp vụ hàng không, đây là nghiệp vụ mà tỉ lệ bồi
thường trên doanh thu biến động lớn nhất, năm 1998 chỉ có 8,48%, năm 1999 tăng
lên đến 157,27 % đây là tỉ lệ lớn nhất của các nghiệp vụ qua các năm , năm 2000
giảm mạnh nhưng vẫn ở mức rất cao, 91,07%, năm 2001 tiếp tục giảm và chỉ còn
50,68%. Nghiệp vụ cháy, năm 1998 chỉ là 4,83%, năm 1999 tăng lên đến 17,73%,
năm 2000 tăng lên 44,35%, đến năm 2001 đã đạt mức cao 71,72%.
Từ các kết quả trên ta thấy các nghiệp vụ quan trọng của Bảo Minh nói chung
tỷ lệ bồi thường trên doanh thu còn ở mức khá cao, có nhiều nghiệp vụ tỉ lệ bồi
thường trên doanh thu biến động thất thương qua các năm, điều này nói nên rủi ro

mà Bảo Minh gặp phải lớn. Sở dĩ có những tồn tại này là do công ty chưa quản lý
tốt công tác đề phòng hạn chế tổn thất, quá trình thẩm định rủi ro chưa chính xác
nhiều khi còn qua loa, do mải chạy theo doanh thu...
2. Kết quả kinh doanh của công ty giai đoạn (1999-2001).
Kết quả kinh doanh là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả của quá trình thực
hiện hoạt động kinh doanh của công ty trong một khoảng thời gian nhất định,thông
thường là một năm. Kết quả kinh doanh được biểu hiện dưới hai chỉ tiêu chính là
doanh thu và lợi nhuận.
Bảng 6: kết quả kinh doanh của Bảo Minh trong giai đoạn(1998-2001)
Năm
Chỉ tiêu đơn vị 1998 1999 2000 2001
Tổng doanh thu Tr.đ 469400 445642 488991 599102
Tổng chi phí Tr.đ 451778
43400
2
47864
2 586817
1. Chi bồi thường thực trả Tr.đ 100085
10458
5 141731 148369
2. Chi quản lý Tr.đ 46940 44564 48899 59910
3. Chi hoa hồng Tr.đ 23470 22282 24450 29955
4. Chi ĐP&HCTT Tr.đ 21123 20054 22005 26960
5. Phí nhượng tái bảo hiểm Tr.đ 201769 175656
17610
7 259871
7. Chi khác Tr.đ 58391 66861 65451 61752
Lợi nhuận trước thuế Tr.đ 17622 11640 10349 12285
(Nguồn: Công ty Bảo Hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh)
Năm 1998 tổng doanh thu đạt 469400 triệu đồng trong khi đó tổng chi phí chỉ

là 451778 triệu đồng, sở dĩ chi phí thấp là do tỉ lệ bồi thường thực trả trên tổng
doanh thu thấp (21,32%) do đó làm cho lợi nhuận đạt được cao (17622 triệu đồng).
Năm 1999, Đây là năm công ty gặp rất nhiều khó khăn như đã nói ở trên dẫn
đến lợi nhuận đầu tư thấp, tỉ lệ tổng chi bồi thường thực trả trên tổng doanh thu cao
hơn năm trước (23,47%), về số tuyệt đối là 104585 triệu đồng. Trong khi doanh
thu lại thấp hơn năm trước, chỉ đạt 445642 triệu đồng, giảm 5,1% so với năm
trước... những kết quả đó dẫn đến lợi nhuận của công ty bị sút giảm chỉ còn 11640
triệu đồng (giảm 33,95% so với năm trước).
Năm 2000. Đây là năm đánh dấu sự kết thúc giai đoạn sụt giảm của nền kinh
tế, bắt đầu một chu kỳ phát triển mới. Các hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ
đều tăng khá ( công nghiệp tăng 15,7%, nông lâm ngư nghiệp tăng 4,5%,xuất nhập
khẩu tăng 25%...) từ đó làm cho GDP tăng 6,7%. Chính những thuận lợi về môi
trường kinh doanh kết hợp với những giải pháp đúng đắn của mình, trong năm này
tổng doanh thu của hầu như tất cả các nghiệp vụ của Bảo Minh đều tăng từ 10-
20% so với năm trước, từ đó góp phần to lớn làm cho tổng doanh thu của Bảo
Minh cũng tăng trưởng mạnh mẽ, đạt 488991 triệu đồng, tăng 9,73% so với năm
trước. Tuy doanh thu cao nhưng tổn thất xảy ra lại nhiều, bồi thường thực trả
141731 triệu đồng, tăng 35,52% so với năm trước từ đó dẫn đến lợi nhuận giảm chỉ
còn 10349 triệu đồng, giảm 11,09% so với năm trước.
Năm 2001. Kinh tế vẫn đang trên đà phục hồi và phát triển, Việt Nam trở
thành nước có GDP tăng trưởng cao vào hàng thứ hai trên thế giới: 6,2%, chỉ sao
Trung Quốc, hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết... Đã góp phần làm cho
tổng doanh thu của Bảo Minh tăng nhanh chóng, đạt 599102 triệu đồng, tăng
22,52% so với năm trước. Bồi thường thực trả là 148369 triệu đồng, tăng 4,68% so
với năm trước tuy nhiên vẫn rất nhỏ so với tốc độ tăng doanh thu. Từ các kết quả
đó đã làm cho lợi nhuận đạt 12285 triệu đồng, tăng 18,71% so với năm trước. Kết
quả này tạo ra điều kiện và động lực cho sự phát triển của công ty trong năm sau.
II.THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TNDS CỦA CHỦ XE
CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA Ở CÔNG TY BẢO HIỂM BẢO MINH.
1. Công tác khai thác.

Khai thác bảo hiểm là khâu đầu tiên của quá trình hoạt động kinh doanh bảo
hiểm. Đây là khâu quyết định tới sự thành bại của các Công ty bảo hiểm nói chung
và nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự nói riêng, bởi vì hoạt động kinh doanh
bảo hiểm theo quy luật số đông bù số ít. Chỉ khi số lượng xe đủ lớn tham gia bảo
hiểm thì mới hình thành được một quỹ tiền tệ tập trung chi trả cho chủ xe khi tai
nạn xẩy ra và bù đắp các chi phí. Vì vậy khâu khai thác có ảnh hưởng quyết định
đến doanh thu và lợi nhuận từ đó ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả kinh doanh
của công ty nói chung và từng nghiệp vụ nói riêng.
Nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là nghiệp
vụ bảo hiểm bắt buộc, điều này tạo ra sự thuận lợi cho các công ty trong việc khai
thác. Tuy nhiên không phải vì tính bắt buộc mà việc khai thác trở nên đơn giản.
Bởi vì sản phẩm bảo hiểm vốn đã trừu tượng, thì bảo hiểm trách nhiệm nói chung
và bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba nói riêng lại càng trở
lên trừu tượng hơn, càng khó thấy được tác dụng, lợi ích hơn, vì vậy khách hàng
rất dễ trốn tránh không tham gia. Mặt khác hiện nay trên thị trường lại có rất nhiều
công ty đang triển khai nghiệp vụ này vì vậy tình trạng cạnh tranh rất gay gắt do đó
việc khai thác càng trở lên khó khăn.
Nhận rõ tầm quan trọng và những khó khăn trong khâu khai thác bảo hiểm
TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Bảo Minh đã có những quy định,
những biện pháp tích cực để thúc đẩy khai thác:
-Các quy định:
+Nhân viên khai thác phải nắm vững các văn bản, các quy định của bộ tài
chính và công ty, các điều khoản liên quan đến nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ
xe cơ giới đối với người thứ ba. Lãnh đạo các đơn vị phải có trách nhiệm phổ biến,
hướng dẫn cán bộ khai thác thuộc đơn vị mình về các văn bản, các điều khoản đó.
+Việc khai thác bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
phải được phân công cho tổ, nhóm hoặc phòng trực tiếp theo dõi và quản lý. Mỗi
khai thác viên (KTV) phải tiếp thị khai thác được một số lượng khách hàng phù
hợp với năng suất lao động định mức. Để đạt được và vượt mức năng suất lao động
được giao, ngoài tự khai thác KTV phải có trình độ quản lý và tổ chức hoạt động

của hệ thống cộng tác viên, đại lý theo nguyên tắc quản lý đại lý của công ty. số
lượng khách hàng của từng KTV phải được lập thành danh sách, cuối tháng có báo
cáo cho lãnh đạo phòng. Chi nhánh cập nhật số lượng tăng, giảm và hàng quý phải
có tổng hợp báo cáo công ty.
Những khách hàng có phí bảo hiểm từ 100 triệu đồng hoặc từ 50 xe trở lên là
những khách hàng lớn và phải thường xuyên quan tâm, chăm sóc theo chế độ quy
định về chính sách khách hàng của công ty.
Trên cơ sở khách hàng đanh quản lý, các đơn vị phải giao kế hoạch cụ thể
cho từng KTV, ngoài khách hàng cũ phải có phải có chỉ tiêu khai thác khách hàng
mới. Hàng tháng hoặc hàng quý sơ kết đánh giá tình hình khách hàng mới và
khách hàng bị mất ( lý do ). Việc kiểm tra công việc của KTV sẽ dựa vào số liệu
này theo từng quý, từng năm.
+Quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm do Bộ Tài Chính, công ty ban hành
được áp dụng chung cho các đơn vị thuộc Bảo Minh. Nghiêm cấm các đơn vị tự ý
điều chỉnh, thay đổi quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm khi chưa có ý kiến của
công ty. Trong quá trình khai thác nếu gặp khó khăn phải báo cáo công ty bằng văn
bản để được hướng dẫn.
-Các biện pháp để thúc đấy khai thác.
Để thúc đẩy công tác khai thác công ty đã tiến hành tuyên truyền, quảng cáo
để giúp khách hang hiểu biết về sản phẩm của công ty từ đó thúc đẩy họ mua sản
phẩm của mình; trả hoa hồng thoả đáng để khuyến khích khách hàng tham gia bảo
hiểm tại công ty, đối với những khách hàng lớn, không những được trả hoa hồng
mà còn được giảm phí, thăm hỏi...để tạo niềm tin và sự hài lòng từ đó khách hàng
tham gia bảo hiểm lâu dài tại công ty. Cùng với các biện pháp tác động lên khách
hàng công ty còn có các biện pháp tích cực nhằm khuyến khích, động viên các
KTV và nâng cao chất lượng KTV, như: Khen thưởng những khai thác viên có
thành tích tốt, bằng các hình thức: Thưởng tiền, bằng khen, tăng lương, tăng cấp
bậc...; tuyển chọn KTV cẩn thận kỹ lưỡng, bằng cách đề ra những tiêu chuẩn về
khả năng giao tiếp, về trình độ, về doanh thu...
Bằng những chính sách, những giải pháp của mình kết hợp với những thuận

tiện mà môi trường vĩ mô đem lại, công ty đã đạt được những kết quả khai thác rất
tốt: Số lượng và tốc độ tăng số xe tham gia bảo hiểm , doanh thu phí bảo hiểm gốc
tăng nhanh, đồng thời phí bảo hiểm bình quân trên một đầu xe cũng có tiến triển
hợp lý.

×