MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. Vài nét về lịnh sử bảo hiểm hoả hoạn
Hiệp hội bảo hiểm hoả hoạn lần đầu tiên ra đời trên thế giới là ở Đức năm
1591 mang tên Feuer Casse. Một thời gian ngắn sau đó xuất hiên thêm vài Công ty
nữa nhưng không để lại dấu ấn gì lớn cho tới giữa thế kỷ 17. Năm 1666 đẫ xẩy ra
một vụ Hoả hoạn khủng khiếp ở Lôn Đôn. Vụ Hoả hoạn kéo dài năm ngày. Thiêu
huỷ gần như toàn bộ thành phố đã kích thích sự ra đời của bảo hiểm hoả hoạn. Một
nhà vật lý người Anh tên là NICHOLAS BARBEN chuyển nghạch sang lĩnh vực
xây dựng trong thời gian xây dựng lại thành phố đã đồng thời cũng bắt đầu bảo
hiểm hoả hoạn cho các ngôi nhà mới xây dựng. Ban đâu ông điều khiển Công ty
theo kiểu Công ty tư nhât nhưng sau đó năm 1680 ông đổi thành Công ty cổ phần
mang tên là “ The Fire Office “. Một số Công ty khác cũng theo đó ra đời trong đó
có Hand in Hand năm 1696 và Sun Fire Office năm 1710.
Công ty bảo hiểm đầu tiên thành công ở Mỹ là Công ty bảo hiểm tương hỗ, do
Benfamir Franklin và một số thành viên khác sáng lập năm 1752, mang tên là The
Philadenphia Contributionship chuyên bảo hiểm Hoả hoạn cho nhà cửa. Công ty
bảo hiểm cổ phần đầu tiên ở Mỹ mang tên là The insurance company of Noth
America được thành lập năm 1792.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế. Bảo hiểm hoả hoạn đã phát triển mạnh mẽ và trở
thành nghiệp vụ truền thống với phí thu hàng năm rất cao. ở Nhật, số phí bảo hiểm
hoả hoạn thu hàng năm 1993 là 1.017.008 triệu yên ( trên 10 tỷ đô la) chiếm 15,5%
doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm phí nhân thọ.
II . Sự cần thiết và vai trò của bảo hiểm hảo hoạn
Hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển thì nhu cầu tập trung vật tư,
hàng hoá rất lớn, quy trình công nghệ ngày càng phức tạp và những loại máy móc
hiện đại sẽ được phổ biến hơn. Trong khi đó, khoa học kỹ thuật an toàn thường đi
sau, nguồn vốn sử dụng cho các biện pháp an toàn thường rất thấp so với vốn đầu
tư phát triển sản xuất thêm vào đó điều kiện tự nhiên ngày càng khắc nghiệt và đã
khiến cho khả năng xảy ra rủi ro tai nạn nhiều hơn so với mức độ thiệt hại về người
và của nghiêm trong hơn.
Chỉ tính riêng hoả hoạn mỗi năm nước ta xẩy ra hàng nghìn vụ Hoả hoạn nổ, làm
chết hoặc bị thương hàng trăm người, thiệt hại về tài sản hàng chục tỷ đồng. Có
những vụ Hoả hoạn làm thiêu huỷ hàng trăm nóc nhà, toàn bộ khu chợ lớn hoặc cả
một cơ sở sản xuất kinh doanh hàng chục tỷ đồng, làm cho hàng nghìn người
không còn nhà ở hàng nghìn hộ kinh doanh phải điêu đứng vi mất hết toàn bộ hàng
hoá, tiền của , không còn chỗ kinh doanh làm cho hàng trăm công nhân không còn
nơi làm việc. Số liệu thống kê về hoả hoạn ở Việt Nam của cục cảnh sát phòng
Hoả hoạn chữa Hoả hoạn trong 5 năm 1998-2003 như sau:
Bảng 1_ Hoả hoạn ở Việt Nam trong năm 1998-2002
Năm Số vụ Địa điểm Nghành kinh tế Thiệt hại
Thành
phố
Nông
thôn
Nhà
nước
Tập
thể
Tư
nhân
Liên
doanh
Chết Thương tật Tài
sản(tỷ
đồng)
1998 949 678 270 273 60 619 4 47 111 40019
1999 941 657 284 238 39 664 7 65 110 43418
2000 1026 670 356 277 44 704 3 127 465 86218
2001 1055 750 305 199 27 825 2 88 215 215102
2002 1091 720 372 226 33 830 5 105 140 92660
Vậy làm thế nào doanh nghiệp trách được tổn thất bảo toàn nguồn vốn kinh
doanh của mình? Thực ra nó còn nhiều biên pháp sử dụng như sử dụng các biện
pháp an toàn, thành lập quỹ dự trữ đề phòng xẩy ra tổn thất...Trước đây chúng ta
có một vài Công ty bảo hiểm hoả hoạn tại miền Nam trong thời kỳ Pháp thuộc
song sang năm 1975 do cơ chế bao cấp, nhà nước đứng ra bù đắp mọi thiệt hại, bảo
đảm tài chính cho các doanh nghiệp khi không may gặp rủi ro nên bảo hiểm nói
chung và bảo hiểm hoả hoạn nói riêng không có mảnh đất phát triển. Trong điều
kiên nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường hiên nay các doanh nghiệp phải tự
chủ về nguồn tài chính, tham gia bảo hiểm tài sản mà cụ thể là bảo hiểm Hoả hoạn
vẫn là phương án tối đa.
Theo quy tắc bảo hiểm Hoả hoạn hiện nay vẫn sử dụng ở các Công ty bảo
hiểm trong nước, người tham gia bảo hiểm có thể tham gia đăng ký bảo hiểm cho
những tài sản như nhà của trang thiết bị hàng hoá, nguyên vật liệu của
mình...Ngoài Hoả hoạn là rủi ro chính họ còn đăng ký cho các rủi ro phụ như nổ,
giông bão, động đất nước chảy hay rò rỉ tràn từ bể chứa đường ống hoặc thiết bị
chữa Hoả hoạn, xe cộ hay súc vật đâm vào....Trong trương hợp xẩy ra tổn thất, các
Công ty bảo hiểm bồi thường cho những thiệt hại trực tiếp từ các nguyên nhân kể
trên và cả những chi tiết cần thiết hợp lý nhằm hạn chế tổn thất tài sản được bảo
hiểm trong và ngay khi chấy.
Tuy nhiên Hoả hoạn không chỉ gây thiệt hại trực tiếp đến cho con người và tài
sản mà nó còn để lại những thiệt hại và tổn thât khổng lồ cho các doanh nghiệp.
Trên thực tế sau khi Hoả hoạn hoạt động sản xuất không thể phát triển theo kế
hoạch kinh doanh đặt ra, các doanh nghiệp sẽ mất khoản lợi nhuận do nhà xưởng,
máy móc bị hư hại. Để tránh bị phá sản họ phải tiến hành các biện pháp khôi phục
lại sản xuất. Bên cạch việc duy trì chi trả tiền lương cho nhân công và thanh toán
các chi phí cố định như tiền thuê nhà xưởng, khấu hao, điện nước lãi xuất ngân
hàng các doanh nghiệp còn phải thuê thêm nhân viên làm việc thêm giờ để hoàn tất
đơn đặt hàng tồn đọng...Rõ ràng những khám phá này không được bồi thường theo
đơn bảo hiểm Hoả hoạn.
Để đáp ứng được các khoản chi phí trên, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng các
quỹ dự trữ, hoặc vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức cho vay khác, song các
phương pháp này hoàn toàn thụ động . Một biện pháp hiện nay đang khẳng định
tính ưu việt với các nhà đầu tư nước ngoài đó là tham gia bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh. Với loại hình này, các doanh nghiệp không những được bồi thường tài
chính cho các khoản chi phí nói trên mà còn được bù đắp phần lợi nhuận ròng bị
mất mát mà lẽ ra họ được mà không bị tổn thương. Như vậy có thể nói rằng bảo
hiểm hoả hoạn đã hạn chế tối thiểu mức ảnh hưởng của các rủi ro tới hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Bằng việc đóng góp một khoản phí nhỏ ( thường là một phần ngàn giá trị của
tài sản) người được bảo hiểm có thể đầu tư tối đa và triệt để nguồn vốn nhàn rỗi
cho phát triển hoạt động sản xuất, bởi họ không phải trích lập quỹ dự phòng trường
hợp xẩy ra rủi ro và quan trọng hơn, bên cạnh việc được bồi thường khi xẩy ra tổn
thất họ có một tâm lý an tâm khi tiến hành công việc kinh doanh của mình.
Tham gia bảo hiểm các doanh nghiệp còn được các Công ty tư vấn về các biện
pháp phòng trách tổn thất, tăng cường biện pháp phòng Hoả hoạn chữa Hoả hoạn
và thực hiện chính sách quản lý rủi ro nhằm đảm bảo sự an toàn cao nhất.
Bên cạnh việc mang lại lợi ích trên cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn
cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển nền kinh tế. Bời vì
thông qua việc hướng dẫn các doangh nghiệp thực hiện những biện pháp an toàn,
các Công ty bảo hiểm góp phần hạn chế tổn thất tai nạn giúp khách hàng của họ có
điều kiện thúc đẩy mở rộng sản xuất như mong muốn. Mặt khác, một phần không
nhỏ khoản phí thu được từ loại hình này được Công ty bảo hiểm đóng góp vào
ngân sách nhà nước để chính phủ sử dụng các mục đích xã hội.
III. Việc thực hiện bảo hiểm hoả hoạn ở Việt Nam
ở Việt Nam bảo hiểm hoả hoạn bắt đầu được thực hiện từ năm 1989 sau khi có
quyết định số 06/TCQĐ ngày 17/1/1989 của bộ trưởng bộ tài chính ban hành quy
tắc về bảo hiểm hoả hoạn. Sau một thời gian thực hiện để phù hợp hơn với tình
hình thực tế, Bộ tài chính lại có quyết định số 142/TCQĐ ban hành quy tắc và biểu
phí mới và quyết định số 212/TCQĐ ngày 12/4/1993 ban hành biểu phí và bảo
hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt với các mức phí tối đa thay cho biểu phí bảo
hiểm hoả hoạn theo quyết định số 142/TCQĐ.
Đến nay bảo hiểm hoả hoạn đã được thực hiện trong khắp cả nước. Nếu như
năm 1991 số đơn vị hoả hoạn cấp ra mới chỉ có 413 thì tới năm 1994 con số này đã
lên tới 2000 giá trị tài sản năm 1991 là 1000 tỷ đồng thì năm 1992 trên 4000 tỷ,
năm 1993 là 7000 và năm 1994 trên 14000 tỷ đồ
ng. Số tiền bảo hiểm phí tương ứng của các năm đó là 4,5 tỷ, 10,2 tỷ, 21,3 tỷ và
3902 tỷ. Bảo việt cũng phải chi bồi thường thiệt hại nhiều vụ Hoả hoạn lớn như
Công ty giầy Hiệp Hưng trên 10 tỷ, Công ty dược Đồng Tháp 4,5 tỷ đồng, chợ
đồng xuân trên 8 tỷ đồng, Công ty sản xuất và xuất khẩu sông Bé gần 18 tỷ
đồng...Có thể nói rằng bảo hiểm hoả hoạn đã dần dần đi vào tiềm thức của con
người Việt Nam, đáp ứng đòi hỏi tất yếu của xã hội và ngày càng củng cố vững
chắc vị trí quan trọng của mình trong cơ cấu chung của nghành bảo hiểm Việt
Nam.
Từ khi bắt đầu bảo hiểm hoả hoạn tới nay. Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam
đã tổ chức nhiều đợt tập huấn nghiệp vụ, đã làm nhiều văn bản tài liệu hưỡng dẫn.
Tuy nhiên số người trực tiếp tham gia tập huấn không phải là nhiều, tài liệu hướng
dẫn cũng rải rác, không tập trung hơn nữa theo thời gian bản thân những tài liệu đã
ban hành trở nên lại lạc hậu đòi hỏi phải hoàn thiện bổ xụng thêm.
Ngay cả quan điểm biện pháp thực hiên nghiệp vụ cũng có sự thay đổi căn
bản. Nếu như trước đây chúng ta tiến hành bảo hiểm trong điều kiên độc quyền thì
nay hoàn toàn ngược lại chúng ta phải cạnh tranh với nhiều đối thủ trong và ngoài
nước, hiệu quả kinh doanh đã trở thành thước đo quan trọng cho hoạt động của
Công ty. Điều đó phải đòi hỏi các cán bộ nghiệp vụ, ngoài các phẩm chất khác của
người bán hàng, phải hết sức nhanh nhậy trong việc đưa ra các tỷ lệ phí có sức
cạnh tranh nhưng phải đáp ứng đúng chuẩn mực quy định để đảm bảo kinh doanh
có lãi và đáp ứng yêu cầu của nhà nhận tái bảo hiểm. Đông thời cùng với việc mở