TÌNH HÌNH TIÊU THỤ Ở CÔNG TY DA GIẦY HÀ NỘI.
I/ Tình hình và đặc điểm hoạt động kinh doanh ở Công ty Da giầy Hà
nội:
1/ Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty Da giầy Hà nội:
1.1/ Lịch sử hình thành phát triển:
Công ty Da giầy Hà nội ngày nay tiền thân là nhà máy da Thụy Khuê do một
nhà tư bản Pháp đầu tư xây dựng năm 1912 theo thiết kế của Pháp với nhiệm vụ
sản xuất da thuộc, các sản phẩm chế biến từ da phục vụ cho các ngành công nghiệp
đặc biệt là phục vụ cho cuộc chiến tranh của thực dân Pháp.
Từ khi thành lập cho đến nay nhà máy đã trải qua quá trình hình thành phát
triển khá dài có một số thay đổi trong nhiệm vụ sản xuất kinh doanh cũng như tên
gọi và cơ quan chủ quản.
-Từ năm 1912-1954, một tư bản đã đầu tư vào ngành thuộc da và thành lập
công ty thuộc da Đông Dương- một công ty thuộc da lớn nhất Đông Dương thời
đó. Nhiệm vụ sản xuất thời kỳ này là sản xuất ra sản phẩm phục vụ cho chiến tranh
như bao súng, bao đạn, thắt lưng...Lúc này quy mô hoạt động của công ty còn nhỏ,
lao động thủ công là chủ yếu. Máy móc được đưa từ Pháp sang, điều kiện lao động
thì ẩm ướt, độc hạị...Sản lượng đạt khoảng 5000 -> 6000 da /1năm.
-Giai đoạn từ 1954 ->1960, Công ty thuộc da Đông dương nhượng lại cho tư
sản Việt Nam. Sau đó Nhà nước quốc hữu hoá một phần chuyển thành xí nghiệp
công ty hợp doanh lấy tên là “ Công ty thuộc da VN “.
-Giai đoạn từ 1960 -> 1987, Công ty thuộc da Việt Nam từ một công ty hợp
doanh mang tên mới “ Nhà máy da Thụy Khuê “ trực thuộc công ty tạp phẩm của
Bộ công nghiệp nhẹ. Trong giai đoạn này Công ty đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
cung cấp da công nghiệp phục vụ các ngành công nghiệp trong nước. Đây là giai
đoạn phát triển nhất của công ty. Số lượng công nhân lúc này lên tới 600 người,
sản lượng tăng vọt từ 5,3 tỷ năm 1986 lên tới 6,7 tỷ năm 1987, tỷ lệ tăng trung bình
25%. Công ty luôn hoàn thành kế hoạch từ 5%- 31% /năm.
- Giai đoạn từ 1989 -> 1990, khi nhận thấy ngành da giầy có những nét đặc
trưng riêng và có triển vọng, Nhà nước đã cho phép nhà máy da Thụy Khuê được
tách khỏi công ty tạp phẩm và thành lập liên hiệp da giầy với nhiệm vụ tập trung
vào công nghiệp da giầy, cung cấp đầy đủ NVL cho các công ty giầy, sản xuất
thêm các mặt hàng tiêu dùng bán ra thị trường.
- Giai đoạn từ 1990-> 1992, cùng với sự thay đổi của cơ chế quản lý Nhà nước
mô hình liên hiệp không còn thích hợp nữa, Nhà nước cho phép tất cả các doanh
nghiệp thuộc liên hiệp tách ra hoạt động độc lập. Nhà máy da Thụy Khuê tách ra
khỏi Liên hiệp da giầy trực thuộc Bộ công nghiệp nhẹ và xuất nhập khẩu trực tiếp.
- Đến tháng 12 /1992 Nhà máy da Thuỵ Khuê được đổi tên thành Công ty da
giầy Hà nội theo QĐ số 1310 /CNN- TC ngày 17/12/1992 của Bộ trưởng Bộ công
nghiệp nhẹ kèm theo điều lệ của Công ty.
- Giai đoạn 1993 -> nay: theo quyết định số 338 /CNN – TC ngày 29/4 1993
Bộ trưởng Bộ công nghiệp nhẹ ra quyết định thành lập lại Công ty lấy tên:
Tên doanh nghiệp: “ Công ty da giầy Hà Nội “.
Tên giao dịch quốc tế: HALEXIM (viết tắt của Ha Noi Leather products and
foot wear production and export import company.)
Từ tháng 6/1996 Công ty trở thành thành viên của Tổng Công ty da giầy
Việt Nam. Để đáp ứng nhu cầu sản xuất cũng như tăng sản lượng năm 1997
công ty đã đưa vào một dây chuyền thuộc da hoàn chỉnh và một số thiết bị nhập
từ Italia vào lắp đặt. Lúc này sản lượng của công ty đã tăng lên: - Sản lượng da
cứng 25-> 32 tấn/năm.
- Sản lượng da mềm 450.000 ha/năm.
- Keo CN 25 tấn /năm.
Một số chỉ tiêu công ty đã đạt được trong những năm gần đây:
STT CHỈ TIÊU ĐVT 1999 2000 2001
1
2
3
4
5
6
Giá trị tổng sản lượng
Doanh thu
Nộp ngân sách
Lợi nhuận thực hiện
Vốn kinh doanh :
Vốn cố định
Vốn lưu động
Thu nhập bình quân
CNV
tỷ
-
-
-
-
-
-
1000
đ
9,2
8,76
0,788
2,012
15,324
11,035
4,289
500
11,9
10,1235
0,912499
2,105
19,005
12,018
6,987
550
15,3
11,019
0,93758
3,623
21,712071
14,320
7,39
580
1.2 / Đặc điểm tổ chức quản lý, quy trình công nghệ của Công ty
a/ Đặc điểm quy trình công nghệ:
Hiện nay công ty đang tập trung vào 2 mặt hàng truyền thống đó là da cứng, da
mềm và sản phẩm mới, sản phẩm giầy vải. Mỗi một loại sản phẩm đều có một quy
trình công nghệ riêng. Quy trình công nghệ giầy vải ở Công ty Da giầy Hà Nội là
một quy trình công nghệ sản xuất kiểu đơn giản. Sản phẩm giầy vải là kết quả của
nhiều công đoạn. Nguyên vật liệu chính để sản xuất giầy vải là vải và cao su. Thời
gian đưa nguyên vật liệu vào sản xuất nhanh hơn, nhập kho hàng ngày.
CÁC BƯỚC QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ GIẦY VẢI
b/ Đặc điểm tổ chức sản xuất:
Để phù hợp với quy trình công nghệ sản xuất 3 loại sản phẩm Công ty tổ chức
4 phân xưởng và 1 xưởng giầy vải với những nhiệm vụ cụ thể:
- Phân xưởng da keo: Đây là phân xưởng sản xuất chính. Nguyên vật liệu
chính đưa vào sản xuất là các loại da trâu, bò tươi hoặc da muối, vật liệu sử dụng là
các hoá chất. Sản phẩm của phân xưởng là các loại da cứng, da mềm, keo công
nghiệp.
Cao su
May
Vải
Cách luyệnChặt mảnh
Chuẩn bị gò
Gò ráp
Hấp
Cắt riềm, dán
kín, sỏ dây
Ho n tà ất sản
phẩm
Nhập
kho
Sản phẩm
giầy
Kiểm
nghiệm
- Phân xưởng chế biến I: Chế biến các mặt hàng đồ da phục vụ công nghiệp
dệt như gông, takê, dây cu roa...và một số khác phục vụ cho quốc phòng như dây
đeo, bao súng, bao đạn... Nguyên vật liệu chính của phân xưởng này là da cứng, da
mềm lấy từ phân xưởng da keo.
- Phân xưởng chế biến II: Từ nguyên liệu là da mềm, da cứng do phân xưởng
da keo cung cấp.Phân xưởng chế biến ra các sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng dân
dụng và quốc phòng: đóng giầy, máy găng.
-Phân xưởng cơ khí: Đây là phân xưởng sản xuất phụ có nhiệm vụ cung cấp
lao vụ cho các phân xưởng chính đồng thời tận dụng các loại phế liệu phế phẩm để
sản xuất ra các sản phẩm cung cấp cho thị trường. Có 3 bộ phận: Bộ phận cơ
khí, bộ phận mộc nề, tổ nồi hơi.
- Xưởng giầy: Bao gồm các bộ phận cắt may, gò ráp và hoàn thiện. Nguyên
vật liệu chủ yếu của xưởng giầy là vải và cao su.
MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC PHÂN XƯỞNG THEO SƠ ĐỒ SAU:
Bộ phận cơ khí
Cơ khí Mộc nề Nồi hơi
c/ Đặc điểm tổ chức quản lý của doanh nghiệp:
Là một đơn vị hạch toán độc lập, có đầy đủ tư cách pháp nhân trực thuộc
Tổng công ty Da giầy Việt Nam, Công ty Da giầy Hà Nội tổ chức theo quy mô
hình trực tuyến chức năng. Ban giám đốc trực tiếp điều hành quản lý, bên cạnh đó
công ty còn thực hiện cơ chế khoán đến từng phân xưởng để giải quyết công ăn
việc làm cho công nhân, các quản đốc phân xưởng phải tự đôn đốc công nhân
trong quá trình sản xuất.
Phân xưởng da
Xưởng gò ráp,
ho n thià ện
Xưởng
cắt may
PX chế
biến II
PX chế
biến I
Với 523 lao động ngoài ban giám đốc hiện nay, công ty có 7 phòng ban và 5
phân xưởng. Mỗi phòng ban có những chức năng nhiệm vụ sau:
- Ban giám đốc: gồm 1 đồng chí giám đốc và 2 đồng chí phó giám đốc. Giám
đốc điều hành chung cả công ty đặc biệt là về mặt kinh tế. Một phó giám đốc
thường trực quản lý về mặt đời sống, đầu tư XDCB. Một phó giám đốc phụ trách
kỹ thuật.
-Văn phòng: gồm 4 bộ phận: Phòng tổ chức, phòng hành chính, phòng bảo
vệ, phòng y tế. Mỗi phòng có nhiệm vụ và chức năng riêng của mình như tổ chức
bộ máy, quản lý lao động, ban hành một số quy chế về công tác tiền lương của cán
bộ công nhân viên trong công ty, công tác bảo vệ an ninh, chăm lo sức khoẻ đời
sống công nhân viên...
- Phòng kế hoạch vật tư: có chức năng xây dựng kế hoạch tháng, quý, năm,
điều hành sản xuất kinh doanh trên cơ sở nhu cầu tiêu thụ của khách hàng.
- Phòng tài chính kế toán: Giúp lãnh đạo trong công ty hạch toán chi phí sản
xuất kinh doanh của công ty và xác định nhu câù về vốn, tình hình hiện có và sự
biến động của các loại tài sản trong công ty.
- Phòng kinh doanh -XNK: Giúp giám đốc trong việc tìm thị trường trong
nước, nước ngoài để tiêu thụ sản phẩm, thực thi kế hoạch bán hàng.
- Phòng kỹ thuật: Có nhiệm vụ xây dựng các quy phạm trong quá trình sản
xuất và xây dựng kế hoạch trung đại tu và sửa chữa máy móc thiết bị đồng thời xây
dựng quy trình sử dụng và quản lý máy móc thiết bị.
- Phòng XDCB: Có nhiệm vụ quản lý, đề nghị và tham mưu do lãnh đạo xây
dựng đề ra kế hoạch và các hạng mục đầu tư, gọi vốn đầu tư. Giám sát quá trình
xây dựng chịu trách nhiệm trước ban giám đốc về chất lượng công trình.
Giám đốc công ty đứng đầu bộ máy quản lý trực tiếp điều hành sản xuất kinh
doanh hoặc gián tiếp thông qua các phó giám đốc. Các phòng ban có một sự độc
lập tương đối nhưng cũng có mối quan hệ gần gũi tương tác, phối hợp nhịp nhàng
để bộ máy của công ty vận hành trôi chảy.
SƠ ĐỒ BỘ MÁY QUẢN LÝ CỦA CÔNG TY
Giám đốc
PGĐ phụ trách đời sống,XDCB
PGĐ phụ trách kỹ thuật
Phòng tổ
chức
Văn phòng
Phòng kế hoạch vật tư
Phòng TCKT
Phòng kinh doanh XNK
Phòng kỹ thuật
Phòng XDCB
Quản đốc PX chế biến I
Quản đốc PX da keo
Quản đốc PX chế biến II
Quản đốc PX giầy
Quản đốc PX cơ khí
1.3/ Đặc điểm sản phẩm của Công ty Da giầy Hà nội:
Sản phẩm của Công ty Da giầy Hà nội là giầy vải các loại. Sản phẩm được
sản xuất chủ yếu theo đơn đặt hàng của nước ngoài như Đài Loan, Hồng Kông,
Đức, Ý...và sản xuất để phục vụ nhu cầu trong nước nên đòi hỏi tiêu chuẩn khá
cao, chất lượng phải đảm bảo, mẫu mã đẹp, sản xuất phải theo đúng yêu cầu của
khách hàng. Đặc điểm của loại sản phẩm tiêu dùng này là có thể để lâu, không bị
hao hụt nên cũng dễ dàng trong việc quản lý. Đơn vị tính thường là đôi. Do yêu
cầu của quản lý và theo đơn đặt hàng của khàch hàng nên khi sản xuất xong sản
phẩm thường được đóng thành kiện. Số đôi giầy trong một kiện và kích cỡ giầy,
mầu sắc giầy đóng vào kiện hoàn toàn theo yêu cầu của khách hàng.
Về số lượng: Hàng tháng số lượng sản phẩm sản xuất nhiều hay ít căn cứ vào
các đơn đặt hàng, các hợp đồng kinh tế đã ký kết với khách hàng và tình hình tiêu
thụ sản phẩm trên thị trường, từ đó bộ phận kế hoạch sẽ lên kế hoạch sản xuất giầy
trong tháng. Quá trình vận động của thành phẩm rất ngắn và nhanh kết thúc để có
thể kịp thời gian giao hàng cho khách như hợp đồng đã ký kết.
Về chất lượng: Do Công ty có dây chuyền sản xuất giầy tiên tiến, tương đối
hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế nên sản phẩm sản xuất ra đạt chất lượng khá cao.
Ngoài ra, nhiều loại nguyên vật liệu nhập về từ nước ngoài để phục vụ cho sản
xuất sản phẩm cũng góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm. Công ty đã sản xuất
được rất nhiều loại giầy vải khác nhau. Mỗi loại giầy chia thành nhiều loại giầy
khác nhau. Giầy của Công ty có mẫu mã, hình thức khá đẹp và rất đa dạng. Chính
vì vậy, nhiều loại giầy đã chiếm lĩnh được thị trường trong và ngoài nước. Sản
phẩm của Công ty được bạn hàng tín nhiệm nên số lượng đơn đặt hàng ngày càng
nhiều.
Với đặc điểm sản phẩm của Công ty như vậy nên để thực hiện tốt công tác
tiêu thụ sản phẩm thì nhất thiết cần phải tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm một
cách khoa học, hợp lý, phải có các biện pháp thích hợp, kịp thời đẩy mạnh công tác
tiêu thụ sản phẩm nhằm đảm bảo thu hồi vốn nhanh và thu được nhiều lợi nhuận.
2/ Đặc điểm tiêu thụ sản phẩm của Công ty:
Việc tiêu thụ sản phẩm của Công ty Da giầy Hà nội có đặc điểm rất riêng biệt,
khác với nhiều Công ty trong nước. Sản phẩm sản xuất ra chủ yếu để xuất khẩu
sang các nước khác theo các đơn đặt hàng của khách hàng. Và trong một vài năm
gần đây, sản phẩm của Công ty cũng đã được tiêu thụ rộng rãi ở thị trường trong
nước.
- Đối với xuất khẩu: Việc xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài do phòng kinh
doanh xuất nhập khẩu phụ trách. Công ty sẽ xuất giao hàng dựa trên các hợp đồng
ký kết với nước ngoài. Công ty có quan hệ hợp đồng với một số Công ty khác ở
các nước như: Đài loan, hồng kông, trung quốc. Những Công ty này đóng vai trò
trung gian và Da giầy Hà nội nhận được các đơn đặt hàng của nước ngoài chủ yếu
thông qua các Công ty này. Theo như hợp đồng, Công ty sẽ xuất hàng cho bên
trung gian và bên trung gian sẽ thanh toán tiền hàng cho Công ty sau khi đã nhận
được hàng. Nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm do Công ty mua trong nước
nhưng cũng có trường hợp không mua được trong nước vì không có nên Công ty
phải nhập nguyên liệu từ phía các Công ty trung gian. Có khi nguyên vật liệu dùng
cho sản xuất phải nhập 70% từ phía nước ngoài. Như vậy khi thanh toán tiền hàng,
khách hàng sẽ bù trừ tiền nguyên vật liệu vào tiền hàng của Công ty theo định mức
đã tính. Trong trường hợp Công ty không phải xuất hàng sang các Công ty trung
gian mà xuất thẳng sang nước có đơn đặt hàng thì sau khi đã nhận được tiền hàng
từ phía nước có đơn đặt hàng, Công ty sẽ thanh toán hoa hồng cho bên trung gian
theo phần trăm đã thoả thuận trong hợp đồng. Ngoài ra, Công ty cũng có đơn đặt
hàng trực tiếp từ phía các nước có nhu cầu mà không phải qua trung gian nhưng
trường hợp này không nhiều.
- Đối với thị trường trong nước: Việc sản xuất sản phẩm chủ yếu dựa vào tình
hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty trên thị trường và các hợp đồng với khách
hàng. Việc tiêu thụ sản phẩm trong nước do phòng tiêu thụ phụ trách. Công ty có
các chi nhánh bán hàng, các cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm tại Hà nội và
nhiều tỉnh, thành phố trong nước. Đặc biệt mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của Công
ty đã có mặt ở hầu khắp các tỉnh, thành phố, trung du, miền núi đặc biệt là ở những
nơi dân cư đông đúc và lực lượng công nhân lao động nhiều. Việc thanh toán tiền
hàng giữa các đại lý, chi nhánh, khách hàng với Công ty được thực hiện theo từng
tháng. Riêng đối với các đại lý, khi thanh toán sẽ được tính trừ luôn phần trăm tiền
hoa hồng.
- Việc thanh toán, biên bản thanh toán, hoá đơn bán hàng...giữa Công ty với
khách hàng, nếu là khách hàng hàng nước ngoài sẽ do phòng kinh doanh xuất nhập
khẩu tính trên từng lô hàng xuất đi, nếu là khách hàng trong nước hay chi nhánh
bán hàng, đại lý sẽ do phòng tiêu thụ đảm nhiệm theo từng tháng. Cuối cùng tất cả
các chứng từ biên bản sẽ được chuyển sang phòng Kế toán. Kế toán tiêu thụ và Kế
toán thanh toán sẽ tập hợp các chứng từ, biên bản đó và theo dõi việc thanh toán
giữa khách hàng với Công ty hoặc việc thanh toán của Công ty với khách hàng
theo từng biên bản.
- Thông thường việc thanh toán tiền hàng giữa Công ty với khách thường theo
phương thức giao hàng trước và thanh toán tiền hàng sau. Tất cả các chi phí bán
hàng quy định trong hợp đồng do Công ty chịu trách nhiệm. Khi bán hàng ra nước
ngoài thì tiền hàng của Công ty thường được thanh toán bằng ngoại tệ. Do vậy, khi
khách hàng thanh toán Công ty phải quy đổi ra đồng Việt nam.
- Ta thấy rằng, việc tiêu thụ sản phẩm của Công ty phần lớn là ở thị trường
nước ngoài. Thị trường sản phẩm của Công ty ở trong nước tuy vài năm trở lại đây
đã phát triển khá mạnh nhưng trong điều kiện nền kinh tế thị trường trong nước
ngày càng phát triển thì việc mở rộng thị trường trong nước để tăng khối lượng tiêu
thụ sản phẩm là một vấn đề rất đáng quan tâm đối với Công ty.
3/ Những thuận lợi và khó khăn trong công tác tiêu thụ sản phẩm ở Công ty
Da giầy Hà nội:
3.1/ Thuận lợi:
Những năm qua thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty đã không ngừng
được mở rộng, sản phẩm của Công ty xuất hiện nhiều trên thị trường. Thông qua
chất lượng sản phẩm Công ty đã duy trì được thị trường truyền thống của mình,
sản lượng sản phẩm xuất khẩu ngày càng tăng, đảm bảo ổn định sản xuất và đời
sống cho cán bộ công nhân viên.
- Về lực lượng lao động: Công ty có đội ngũ cán bộ quản lý lãnh đạo nhiệt
tình, giầu kinh nghiệm đã được tôi luyện, thử thách qua nhiều năm đầy khó khăn
trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, sẵn sàng đồng cam cộng khổ cùng Công ty,
tìm ra hướng giải quyết, khắc phục mọi khó khăn để duy trì và phát triển hoạt động
sản xuất kinh doanh của Công ty. Đây là một thuận lợi lớn cho Công ty.
- Về vị trí địa lý: Do vị trí của Công ty nằm ở gần các tuyến đường giao thông
nên giúp cho vận chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá dễ dàng thuận lợi, đẩy mạnh
sản xuất tiêu thụ sản phẩm, giảm chi phí vận chuyển, việc ký kết hợp đồng mua
bán với khách hàng và thanh toán qua ngân hàng cũng thuận lợi hơn.
Công ty có một mạng lưới các cửa hàng bán buôn và bán lẻ hàng hoá nằm ở
những vị trí trung tâm, hết sức thuận lợi cho công tác tiêu thụ nhờ đó khách hàng
có rất nhiều điều kiện để tham quan hàng của Công ty khi tiến hành mua bán các
sản phẩm từ đó kích thích khách hàng nảy sinh nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của
Công ty.
3.2/ Khó khăn :
Bên cạnh những thuận lợi đã nêu trên Công ty còn gặp phải một số khó khăn
sau.
Bởi địa lí nước ta nằm trong vùng nhiệt đới vì vậy thời tiết được phân theo
mùa, do vậy đã tạo nên tính đặc thù của ngành sản xuất da giầy. Điều này đã tạo ra
nhu cầu sử dụng sản phẩm cũng theo mùa của khách hàng, gây nên sự khó khăn
đối với Công ty trong việc đảm bảo kế hoạch sản xuất liên tục trong năm.
Tình hình trang thiết bị công nghệ lạc hậu không đủ khả năng đáp ứng yêu
cầu của khách hàng, các sản phẩm không phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
Khó khăn trong công tác tiêu thụ sản phẩm mà Công ty đang gặp phải đó là số
vốn dành cho hoạt động sản xuất quá ít. Vì vậy việc đầu tư chiều sâu nhằm nâng
cao năng suất và chất lượng sản phẩm bị hạn chế.
Cũng như đối với nhiều doanh nghiệp sản xuất trong nước khác, Công ty Da
giầy Hà nội cũng chịu sự cạnh tranh của thị trường. Sản phẩm của Công ty khi sản
xuất ra phải chịu sự cạnh tranh của nhiều loại giầy trong và ngoài nước cả về chất
lượng lẫn giá cả. Vì vậy đòi hỏi ở Công ty có sự nỗ lực cố gắng cao để giữ vững và
không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ.
Ngoài những khó khăn nêu trên Công ty còn gặp một số trở ngại từ đội ngũ
công nhân sản xuất tay nghề không đồng bộ, chưa theo kịp với sự chuyển đổi thay
thế của dây chuyền công nghệ mới gây ra nhiều ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ
sản phẩm.
II/ Tình hình tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Da giầy Hà nội:
1/ Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm :