Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Tải Em hãy viết đoạn văn làm rõ nhận định Chết vinh còn hơn sống nhục qua bài Văn tế nghĩa sĩ Gần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu - Bài văn mẫu lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.22 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Em hãy viết đoạn văn làm rõ nhận định Chết vinh còn hơn sống</b>
<b>nhục qua bài Văn tế nghĩa sĩ Gần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu</b>


<b>Bài làm 1</b>


“Chết là hết”, người đời thường nói vậy. Và cuối cùng ai cũng phải chết.
Nhưng có những cái chết “khơng một tiếng vang”; lại có những cái chết để
“tiếng thơm muôn thuở”. Người nghĩa sĩ cần Giuộc năm xưa đứng dậy chống
Pháp đã lựa chọn cái chết thật đẹp: “Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm
đồn sáu tỉnh chúng đều khen; Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải
mn đời ai cũng mộ”. Có thế nói tồn bộ bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là
“khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang” (Phạm Văn Đồng).
Thế là đã hơn một thế kỉ trôi qua. Cuộc khởi nghĩa của những người nông dân
Cần Giuộc đã thất bại. Họ phải ngã xuống giữa chiến trường trong cảnh “da
ngựa bọc thây", “xác phàm vội bỏ”. Họ là những người thất thế, đúng như vậy.
Nhưng bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu đã làm họ “sống
lại” trong những hình tượng đầy khí phách hiên ngang. Những tấm gương đại
nghĩa vằng vặc như trăng sao ấy đã tạo cho bài Văn tế âm hưởng của một khúc
ca bi tráng. Người nghĩa quân cần Giuộc vốn chỉ là những nông dân hiền lành,
quanh năm: “Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, chưa quen cung ngựa đâu tới
trường nhung...”. Ấy thế mà khi giặc đến, họ liền trở thành những dũng sĩ. Ở
họ, nhà thơ nhấn mạnh tinh thần hoàn toàn tự nguyện, tự giác:


<i>Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;</i>
<i>Chẳng thèm trốn ngược, trốn xi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.</i>


Trong khi triều đình khiếp nhược, chỉ tính bài nhượng bộ, đầu hàng thì họ đã tự
động đứng dậy. Tinh thần: “Mến nghĩa làm quân chiêu mộ” của những người
dân cày này thật đáng khâm phục. Cuộc chiến đấu của họ tất nhiên là đầy khó
khăn: Lực lượng địch, ta quá chênh lệch, thiếu kĩ thuật qn sự, thiếu qn
trang, vũ khí. Đồn nghĩa qn nông dân chân đất nghèo khổ, lam lũ này gần


như đi thẳng đến chiến trường từ những túp lều rách nát và những luống cày
của họ, không cờ reo, trống giục, khơng mũ nón, khơng giáp trụ, cũng chẳng
gươm giáo, cung tên...


<i>Ngồi cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu bầu ngòi</i>
<i>Trong tay cầm một ngọn tầm vơng, chi nài sắm dao tu, nón gõ</i>
Hỏa mai đành bằng rơm con cúi”, “gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay.


Thế mà họ đã làm cho kẻ thù thất điên bát đảo, khiến cho “mã tà ma ní hồn
kinh”. Sức mạnh của họ khơng có gì khác ngồi sức mạnh tinh thần. Họ đã lấy
gan vàng đọ với đạn sắt, lấy lòng căm hờn chống lại “tàu thiếc, tàu đồng.
Nguyễn Đình Chiểu khơng qn họ là những nơng dân: “Mùi tinh chiên vấy vá
đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ“. Người dân cày vốn hiền lành,
nhưng một khi lòng yêu nước ở họ được khơi dậy thì sức mạnh căm thù trở nên
thật dữ dội:


<i>Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;</i>
<i>Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Nguyễn Đình Chiểu đã ca ngợi những nghĩa sĩ nơng dân bằng những hình
tượng thật chói lọi và những lời văn thật trang trọng, đẹp dẽ. Nhưng ông không
che giấu sự thật đau lòng. Bài văn còn là lời ai điếu, là tiếng khóc của Đồ Chiểu
trước sự thất thế và cái chết của nghĩa quân cần Giuộc. Cái chết của họ khiến
cho con người, đất trời, cây cỏ cũng phải động lịng:


<i>Đối sơng Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng.</i>
<i>Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.</i>


Lắng nghe trong lời văn của Đồ Chiểu như có tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn
ngào:



Ơi thơi thơi!


Chùa Tơng Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lịng son gửi lạt bóng trăng
rằm; đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trơi theo dịng nước đổ.
Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trễ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; Não nùng
thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.


Cái bi bao trùm lên cả đoạn thơ, nhưng cái bi ở đây không phải là cái bi thảm
mà là bi tráng. Đây là nỗi đau lớn vì Tổ quốc, vì nhân dân. Đau mà khơng
khiến người ta nản lịng, thối chí, bi mà giục giã mọi người đứng dậy hiên
ngang. Cuộc khởi nghĩa đã thất bại. Nhiều nghĩa quân đã phải ngã xuống.
Nhưng chết vinh còn hơn sống nhục:


Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu
chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.


Chết như thế thì chết cũng như cịn, vì “danh thơm đến sáu tỉnh chúng đều
khen”, “tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ”. Chết như thế là để lại tấm gương
chói lọi, có sức động viên lớn đối với cuộc chiến đấu sẽ còn tiếp tục:


Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo qiúp cơ binh...


Ca ngợi người anh hùng chống Mĩ, Nguyễn Văn Trỗi, nhà thơ Tố Hữu viết:
<i>Có những phút làm nên lịch sử</i>


<i>Có cái chết hóa thành bất tử.</i>


(Hãy nhớ lấy lời tơi)
Đó cũng là cái chết của những nghĩa sĩ Cần Giuộc, những con người “thất thế


nhưng vẫn hiên ngang” được phản ánh trong bài Văn tế bi tráng của Nguyễn
Đình Chiểu. Cảm ơn nhà thơ mù Đồ Chiểu đã bằng tấm lòng và tài năng nghệ
thuật làm sống dậy cả một thời bi thương mà oanh liệt. Ơng đã bất tử hóa
những người đã khuất, tạc dựng họ thành một cụm tượng đài bền vững và cao
đẹp trong thơ cũng như trong lòng người đọc mãi mãi về sau.


<b>Bài làm 2</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

đầu kháng chiến chống Pháp – một nét vẽ không thể thiếu khi Nguyễn Đình
Chiểu tạc nên bức tượng đài bất hủ ấy.


Quan niệm về cái sống, Giáo sư Trần Văn Giàu đã viết: "Cái sống được cha
ông ta quan niệm là không thể tách rời với hai chữ nhục, vinh. Mà nhục hay
vinh là sự đánh giá theo thái độ chính trị đối với cuộc xâm lược của Tây: đánh
Tây là vinh, theo Tây là nhục". Như vậy, người nghĩa sĩ nông dân không thể
sống mà mang nỗi nhục, và theo Tây sẽ càng "buồn", càng "hổ" thêm mà thôi.
Những con người ấy luôn "sống vinh", sống với một tinh thần yêu nước cao cả,
với một lí tưởng xả thân giết giặc, tinh thần, ý chí chống kẻ thù, để rồi trở thành
những người anh hùng dũng cảm sẵn sàng chiến đấu hy sinh về Tổ quốc. Và
quan niệm về cái chết của họ cũng hết sức cao cả: cái chết để lại tiếng thơm
mn đời là cái chết vì đất nước, khi người nghĩa sĩ đã trả được gánh nợ nước
non.


</div>

<!--links-->

×