Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Tải Cảm nhận về những kiếp người trong Hai đứa trẻ - Thạch Lam - Bài văn mẫu hay lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.35 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận về những kiếp người trong</b>


<b>Hai đứa trẻ - Thạch Lam </b>



Cũng là một đời người, tại sao số phận dành cho mỗi người lại khác nhau tới
vậy? Đứng trước một người nghèo khổ tàn tạ, ai mà chẳng áy náy xót thương?
Nhưng đứng trước cả một tập hợp người nghèo khổ và vơ vọng, đang gắng tìm
kiếm từng miếng cơm hàng ngày, thì người ta có thể nghĩ ra điều gì? Dưới con mắt
sắc sảo của Thạch Lam, khi ông phơi bày một hiện thực buồn của xã hội đương
thời theo cách tinh tế đến thế, bạn đọc có thể chiêm nghiệm ra nhiều điều…


Những người hiểu đạo lý cũng có thể băn khoăn: “Kiếp trước họ đã làm
những gì mà kiếp này họ lại phải cùng nhau chịu khổ nhục như vậy?”. Rồi có khi
họ lại thở dài mà tự trả lời: “Kiếp nhân sinh đúng là một cõi mê, nơi con người
gắng quờ quạng mà đi cho hết phận”.


“Hai đứa trẻ” để lại những ấn tượng, những bâng khuâng trong lòng người
đọc, qua những chân dung gợi cảm về những cuộc đời tàn trong đêm nơi phố
huyện.


Có thể hình dung những thân phận tàn tạ ấy là những hình nhân mờ nhạt,
được gắn vào lồng đèn kéo quân đã khô kiệt những giọt dầu cuối cùng. Cây đèn
kéo quân ấy, lừ đừ, chậm chạp, kéo những hình nhân quẩn quanh, bế tắc, bất
động…


<b>(1) Mẹ con chị Tí</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

nước; chiếc cơi đựng trầu; nào là cái hỏa lò với củi lửa, với ấm nước, với chè xanh;
nào là cái dao để bổ cau và đặc biệt là ngọn đèn dầu leo lét cháy.


Mẹ con chị Tí dường như chui ra từ bóng đêm để đến cái mốc gạch thắp
ngọn đèn dầu le lói giữa đất trời phố huyện mênh mang. Ở đây Thạch Lam đã dùng


cái nhiều để nói về cái ít. Nhiều là số lượng. Cịn ít là ít về chất lượng. Nếu gọi tên
các sự vật thì gia sản của mẹ con chị Tí có rất nhiều. Nhưng tất cả đều phơi bày
một cái nghèo thảm hại xác xơ. Những sự vật liệt kê tài sản mẹ con chị Tí đều là
những thứ nhẹ bỗng và lủn mủn, lặt vặt, vô giá trị.


Cái tên là chị Tí lại xuất hiện cùng với đứa con nhỏ đi tìm kế sinh nhai khi
trời chạng vạng gợi cho người ta một sự động lòng trắc ẩn. Người phụ nữ đơn độc,
nuôi một đứa con côi cút. Cả một ngày mò cua bắt ốc và đêm đến vẫn tiếp tục cuộc
mưu sinh. Mẹ con chị Tí là hình ảnh của con cò trong ca dao Việt Nam…


Gây ấn tượng day dứt khơng ngi ở phần đầu tác phẩm chính là cuộc đối
thoại giữa Liên, An và mẹ con chị Tí. Trước hết, Liên đã hỏi một câu hỏi chỉ mang
tính xã giao: “Sao hơm nay chị dọn hàng muộn thế?”


Dịng ngôn ngữ đối thoại đã bị ngắt quãng quá lâu bởi chị Tí đặt chõng
xuống đất bày biện các bát uống nước, mãi rồi mới chép miệng: “Ối chao, sớm với
muộn mà ăn thua gì”.


Rõ ràng đây là câu độc thoại, một lời than thân ngậm ngùi. Chỉ riêng hai
tiếng chép miệng cũng cho thấy chị Tí trả lời uể oải, chủng chẳng đến mức nào.


Rồi tất cả bỗng chìm vào im lặng. Chị Tí tiếp tục kê chõng ghế; dịch ngọn
đèn; ngồi têm trầu. Dường như bị cái im lặng đầu độc nên chị đã nói chuyện với
Liên duy nhất bằng một câu hỏi không cần người khác trả lời “Cịn cơ chưa dọn
hàng à?”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

như chấm dứt và thất bại. Rõ ràng cuộc nói chuyện giữa Liên và chị Tí hồn tồn
khơng xuất phát từ cảm hứng giao tiếp. Thông qua thứ ngôn ngữ này ta thấy cuộc
sống đã leo lét, kiếp người ở phố huyện lúc đó đã cạn kiệt năng lượng sống.



<b>(2) Bà cụ Thi</b>


Kiếp đời tàn thứ hai xuất hiện trên ‘cây đèn kéo quân’ phố huyện là bà cụ
Thi hơi điên điên.


Hai chị em Liên vào cửa hàng tạp hóa bé xíu của mình để đếm lại những
món hàng mà mình bán được trong ngày chợ phiên. Cả hai khơng muốn tính tốn
khoản tiền ít ỏi. Trong lúc buồn nản như vậy thì đột nhiên sau lưng Liên có tiếng
nói: “A, cơ bé làm gì thế?”.


Theo sau là tiếng cười khanh khách. Liên đã biết là ai, “chị lẳng lặng rót một
ly rượu đầy”. Cụ già cầm ly rượu ấy soi lên dưới ánh hồng hơn chạng vạng, cười
giịn giã, rồi ngửa cổ uống một hơn cạn sạch. Và rồi cụ đi sâu vào trong bóng tối,
tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng. Bà cụ Thi xuất hiện rất đột ngột cùng
với tiếng cười khanh khách như ma trơi. Điểm làm người ta đặc biệt chú ý ở nhân
vật này là khi nhận được li rượu đầy, bà lão đã giơ ly rượu lên để ngắm, để soi ly
rượu trong ánh sáng của buổi chiều tàn.


Rõ ràng bà coi đó là thần dược, là vật quý giá. Chỉ có rượu mới mang lại
một vài giây phút tìm lãng quên để có hạnh phúc cho bà. Cách thức uống rượu
cũng rất đặc biệt. Đó là ngửa cổ ngẩng mặt lên trời rồi dốc tuột ly rượu vào họng
chóng vánh. Cụ Thi như sợ ai ăn cướp mất bảo vật của mình… Cách uống ấy gợi
cho ta nhớ tới nhân vật Mị ừng ực uống từng bát rượu khi nghe tiếng sáo đêm
xuân.


Cụ uống như để tìm chút lãng quên cuộc đời:


<i>Ngẩn ngơ khi trở về già</i>
<i>Ai chồng con tá biết là cậy ai.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Hành động “để ba đồng xu vào tay Liên, xoa đầu chị một cái” đã cho thấy
nguyên nhân của bà cụ Thi hơi điên chính là sự thiếu thốn của tình cảm gia đình.
Đến cái tuổi làm bà nội, bà ngoại, muốn được cháu con yêu chiều mình và mình
được chăm sóc cháu con nhưng khơng thể nào được toại nguyện.


Mẹ con chị Tí cơ cực nhưng cịn ríu rít tình mẫu tử. Bà cụ Thi chỉ một thân
một mình già nua gợi cho ta bao nhiêu ái ngại. Ra khỏi bóng tối và rồi lại đi sâu
vào trong “bóng tối”. Đó đúng là một thân phận đáng thương.


<b>(3) Bác phở Siêu</b>


Nhân vật thứ ba góp vào những cuộc đời tàn phố huyện là bác phở Siêu.
Sau hai người đàn bà côi cút ta lại gặp một người đàn ơng lẻ loi, tìm kiếm
miếng ăn theo cách thức của đàn bà.


Bác phở Siêu xuất hiện vào lúc trời đã đi vào đêm, đường phố huyện và các
ngõ con chứa đầy bóng tối. Những luồng ánh sáng bây giờ chỉ còn lại là những khe
ánh sáng… Dường như phố huyện khơng có ánh sáng nhân tạo mà chỉ là những
luồng ánh sáng tự nhiên. Đó là ngàn sao lấp lánh. Đó là những vệt sáng của những
con đom đóm… Bác phở Siêu xuất hiện giữa bao la bóng đêm như một con ma trơi
lập lịe với một chấm lửa vàng lơ lửng đi trong đêm tối khi ẩn, khi hiện.


Liên và An nhận diện được gánh phở của bác bằng mùi, bằng khứu giác;
ngọn gió đã cho An và Liên cái mùi thơm của một thứ quà xa xỉ. Quà ấy nhiều
tiền, và hai chị em biết rằng mình khơng bao giờ có thể ăn được.


Bác Siêu đã tới tập kết ở quán nước với ngọn đèn dầu của chị Tí. Hành động
người đàn ơng lúi cúi nhóm lửa, bóng của bác “mênh mang ngả xuống một dải đất
và kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ” đã gợi cho ta con đường bế tắc của thân
phận chị Tí khi ra khỏi ngõ để rồi bác Siêu lại chui đầu vào ngõ. Đây phải chăng là


cuộc hành trình ln hồi vịng vo bế tắc của người dân phố huyện?


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

khách sang từ Hà Nội về, xuống tàu đi vào phố huyện họ có thể ăn phở của bác.
Thế nhưng, trong câu chuyện ta thấy đồn tàu rầm rộ đi ngang ga xép, khơng dừng
lại. Bác phở Siêu đang bán hàng theo một phương cách quá phiêu lưu. Chỉ cần vài
đêm chuyến tàu không dừng lại ở ga xép, phở sẽ thiu thối thành đồ bỏ. Bác Siêu sẽ
hoàn toàn tay trắng. Đây là lý do trong tác phẩm, bác phở Siêu là người đầu tiên
thơng báo những tín hiệu của đồn tàu đang tới gần ga.


<b>(4) Gia đình bác Xẩm</b>


“Nhân vật” thứ 4 là một tập hợp người: cả gia đình bác Xẩm. Cả hai vợ
chồng ngồi thu lu trong bóng tối. Lúc này, bóng đêm đã đen đặc lại. Gia đình xẩm
đến để ăn mày ánh sáng quanh ngọn đèn Hoa Kỳ trên chõng nước của chị Tí. Cả
gia đình chỉ có một manh chiếu rách.


Đứa con cịn nhỏ, bị ra ngồi manh chiếu “nghịch nhặt những rác bẩn vùi
trong cát bên đường”. Đêm càng khuya, sự im lặng càng ngột ngạt, sự chờ đợi
càng mòn mỏi… Tiếng đàn bầu của vợ chồng xẩm “góp chuyện” càng làm cho
khơng khí thê lương…


Đây là gia đình chỉ sống bằng lịng thương hại từ lời ca tiếng hát. Chiếc chậu
sắt trắng chỏng thơ khơng có một xu nằm giữa manh chiếu gợi cho ta về cuộc sống
ảm đạm của họ cả trong những ngày sắp tới.


<b>(5) Những đứa trẻ</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Chúng đã phải lam lũ, chúng đã phải có tính cách người già để thích ứng với hồn
cảnh nghiệt ngã.



Những đứa trẻ thì “nhặt nhạnh”. Con của bác xẩm thì “nghịch nhặt”. Rõ
ràng đứa trẻ còn phải bò đã thực tập theo những hành vi của những đứa trẻ lom
khom, có một dịng đời tù túng, quẩn quanh như định mệnh siết chặt những người
dân phố huyện.


Số phận của chị em Liên gây ấn tượng nhất về sự quẩn quanh bế tắc của
người dân phố huyện. Hai đứa vốn là con của gia đình công chức ở Hà Nội. Nhưng
rồi cha thất nghiệp dắt vợ con về quê nội. Mẹ của chúng đầu tắt mặt tối suốt ngày
để làm hàng xáo. Chị em Liên phải trông coi lẫn nhau, đồng thời phải bán một cửa
hàng tạp hóa bé xíu để góp chút tiền cịm vào kế sinh nhai.


Liên và An là hai đứa trẻ có tâm hồn rất trong sáng của tuổi thơ. Nhu cầu về
tình phụ mẫu là rất lớn. Vậy mà trong tác phẩm ta không hề thấy xuất hiện nhân
vật người cha. Còn người mẹ nếu xuất hiện chỉ làm tăng lên mối ái ngại cho những
đứa trẻ. Bởi vì, mẹ chúng chỉ tạt qua thoáng chốc xem chị em Liên bán được nhiều
ít thế nào; khơng có q, khơng một lời an ủi; khơng có một bàn tay dịu dàng xoa
đầu ơm ấp… Đêm đêm hai đứa trẻ khơng cịn bản năng đợi chờ cha mẹ. Chúng chỉ
biết ngắm sao trời, theo dõi tỉ mỉ đường bay của những con đom đóm. Và thật tội
nghiệp khi hạnh phúc lớn nhất của chúng chỉ là chờ đợi chuyến tàu đêm.


Hai đứa trẻ rất đáng thương bởi chúng không được vui đùa rong chơi ở
những không gian rộng rãi ở phố huyện. Chúng phải làm những tù nhân tự nguyện
trong cửa hàng tạp hóa bé xíu, để khi chiều vừa bng xuống thì đơi mắt trong veo
của chúng đã chứa đầy bóng tối.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

khi bé Liên tự than thân như tiếng nói ngao ngán của chị Tí: Hơm nay ngày phiên
mà bán cũng chẳng ăn thua gì.


Hai đứa trẻ ở đây rõ ràng khơng cịn là hai đứa trẻ. Chúng là những trái cây
non bị nắng gió cuộc đời bắt phải chín ép. Chúng ló những mầm non bị thui chột


bởi thiếu ánh dương, bởi cuộc đời chúng đã mất hết chất phù sa, màu mỡ.


Sân khấu cuộc đời đã trưng ra những nhân vật đơn điệu đó, nhưng ở hậu
trường cũng cịn lấp ló những cuộc đời tàn nữa: đó là một bà cụ móm mém ngăn
đơi căn nhà của mình bằng tấm phên có dán giấy nhật trình chạy tàu để cho nhà
Liên thuê làm hiệu tạp hóa; một người cha vì thất nghiệp mà đã phải dắt díu vợ con
về quê. Một người mẹ bươn bả tất bật tới mức khơng có chút xíu thời gian nào để
yêu thương các con. Tất cả cứ như đang cùng đi vào bóng tối của cuộc đời.


Ấn tượng về chữ tàn trong tác phẩm này đã xuyên suốt chi phối cảm giác
của người đọc. Những cái tàn ấy hình như đã bổ sung cho nhau, để gợi lên một
cảm giác còn nặng nề hơn nữa: ngày tàn, chợ tàn, và những kiếp người cũng đang
dần tàn lụi…


</div>

<!--links-->

×