Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Tải Nhân cách nhà nho chân chính trong “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ - Dàn ý + Bài văn mẫu lớp 11 hay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.15 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Văn mẫu lớp 11: Nhân cách nhà nho chân chính trong</b>


<b>“Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Cơng Trứ</b>



<b>1. Dàn ý Nhân cách nhà nho chân chính trong “Bài ca ngất ngưởng”</b>
<b>a. Mở bài</b>


- Giới thiệu những nét tiêu biểu về Nguyễn Công Trứ


- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Bài ca ngất ngưởng là một trong số những bài
hát nói tiêu biểu thể hiện tài năng, chí khí và ý thức cá nhân của Nguyễn Cơng Trứ
- đó chính là nhân cách nhà nho chân chính


<b>b. Thân bài</b>


b.1. Làm rõ vấn đề “nhân cách nhà nho chân chính”


- Nhân cách: phẩm cách, phẩm đức, phẩm hạnh con người


- Nhà nho chân chính: Nhà nho sống với những nguyên tắc, chuẩn mực, của
bản thân, không làm trái với lương tâm, dám khẳng định tài năng và bản lĩnh của
mình


b.2 Nhà nho chân chính là người dám thể hiện bản lĩnh, đem tài năng cống
hiến chốn quan trường


- Sự xuất hiện của nhà nho với tài năng, bản lĩnh và cá tính phóng khống
+ “ Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: thái độ tự tin khẳng định mọi việc trong
trời đất đều là phận sự của tác giả ⇒ Tun ngơn về chí làm trai của nhà thơ.


+ “Ông Hi Văn…vào lồng”: Coi nhập thế là việc làm trói buộc nhưng đó
cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng của nhà nho chân chính



- Tác giả điểm lại việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của
mình ⇒ Những việc làm mà nhà nho chân chính nên làm, cần làm


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

+ Khoe danh vị, xã hội hơn người: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình
định Trấn Tây), Phủ dỗn Thừa Thiên


=> Khẳng định tài năng và lí tưởng phóng khống của một nhà nho với tài
năng xuất chúng


b.3. Nhà nho chân chính cịn là người có phong cách lối sống tự nhiên, ung
dung tự tại


- Nhà nho chân chính theo Nguyễn Cơng Trứ có cách sống theo ý chí và sở
thích cá nhân


+ Cưỡi bị đeo đạc ngựa.
+ Đi chùa có gót tiên theo sau.


+ Bụt cũng nực cười: thể hiện hành động của tác giả là những hành động
khác thường (lưu ý nhân cách nhà nho chân chính ở đây được chứng minh theo
quan điểm nhà nho của Nguyễn Công Trứ)


=> Cá tính người nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng


- Nhà nho với triết lí tự nhiên, ung dung tự tại, lấy tận hưởng lạc thú làm lẽ
tồn tại


+ “Được mất ... ngọn đơng phong”: Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”,
tức sống ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế


gian


+ “Khi ca… khi tùng” : tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi”
lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền miên.


+ “Không …tục”: Khẳng định lối sống riêng độc nhất của bản thân mình
=> Nhà nho chân chính theo Nguyễn Cơng Trứ là con người thốt mình khỏi
những tư tưởng phong kiến siêu hình, bảo thủ


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

+ “Chẳng trái Nhạc.. Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: Sử dụng điển cố,
ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái
Tuân, Hàn Kì, Phú Bật…


=> Khẳng định bản lĩnh, khẳng định tài năng sánh ngang bậc danh tướng. Tự
khẳng định mình là bề tơi trung thành.


+ “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”: vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu
triều về cách sống “ngất ngưởng”


=> Nhà nho chân chính khơng phải là người khn mình vào những quy tắc,
nguyên tắc bảo thủ lạc hậu mà là sống chân chính với tài năng và quan niệm của
mình


<b>c. Kết bài</b>


- Khái quát và mở rộng vấn đề


<b>2. Văn mẫu Nhân cách nhà nho chân chính trong “Bài ca ngất ngưởng”</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

“Bài ca ngất ngưởng” là một bài thơ theo thể hát nói cịn gọi là ca trù, được


tuân theo một qui tắc nhất định. Nguyễn Công Trứ đã thay thế hai câu chữ Hán mở
đầu bằng một câu chữ Hán “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” và một câu chữ Nơm
“Ơng Hi Văn tài bộ đã vào lồng” tạo một nét độc đáo.


<i>“Vũ trụ nội mạc phi phận sự</i>
<i>Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng</i>


<i>Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc đông</i>
<i>Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng</i>


<i>Lúc Bình Tây cờ đại tướng</i>
<i>Có khi về phủ dỗn Thừa Thiên.”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

xuống rồi lại lên và ơng đã kết thúc trị chơi “công danh” ấy khi lui về chốn thường
dân.


<i>“Đô môn giải tổ chi niên</i>
<i>Đạc ngựa bị vàng đeo ngất ngưởng</i>


<i>Kìa núi nọ phau phau mây trắng</i>
<i>Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi</i>
<i>Gót tiên theo đủng đỉnh một đơi dì</i>
<i>Bụt cũng nực cười ơng ngất ngưởng.”</i>


Ơng cáo quan về q, thốt khỏi chốn quan trường năm 1848. Đó cũng
chính là thời điểm ơng sáng tác bài thơ này. Ơng cho mọi người biết rằng Nguyễn
Công Trứ đã hết làm quan, đã được tự do, thoát khỏi “cái lồng” làm quan. Hành
động của ông lúc từ quan đã làm nổi bật được cái ngơng có trong con người ơng
khi khác với những ông quan về ở ẩn bằng ngựa, ông lại quyết định về q bằng
một con bị vàng có đeo nhạc. Ơng “ngất ngưởng” ngồi trên lưng bị được mọi


người nhìn theo bằng con mắt hiếu kì, ngạc nhiên. Con bị cũng trở nên “ngất
ngưởng” nhờ Nguyễn Cơng Trứ! Câu thơ tiếp theo hiện lên là một phong cảnh
tuyệt đẹp, thần tiên “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”. Nguyễn Công Trứ đã dựng
nhà và sống dưới chốn thần tiên ấy - núi Đại Nại. Tưởng rằng khi về ở ẩn, ông sẽ
sống một cuộc sống giản dị, thanh nhàn theo phong cách của nhà Nho. Thế nhưng,
ông đã làm một việc trái luật của nhà tu, hành xử không đúng với việc ông được
học. Những cô hầu gái đủng đỉnh đi theo ơng tới chốn tu hành, lại cịn ca hát, đánh
đàn vậy mà các nhà sư lại làm lơ phải chăng vì nể ơng từng giữ một chức quan cao
khi hết thời mới phải sống ẩn dật thế này. Hành động của ông khiến Bụt cũng phải
nực cười, cười cho cái hành động “lạ”, ngông cuồng và “ngất ngưởng”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Hai câu thơ nhịp 2/2/2 và 2/3 tạo âm hưởng cho bài thơ. Nó cịn nhấn mạnh
được việc Nguyễn Công Trứ dù đi chùa mà lại dẫn theo hầu gái, lại còn gảy đàn và
ca hát nơi tôn nghiêm thế nhưng ông không thuộc về nơi trần tục ấy, ơng khơng
vướng vào thói hư tật xấu vì ơng là một nhà nho chân chính. Cao hơn đó là ông
“ngất ngưởng” hơn trần tục, hơn những đỉnh núi cao danh vọng, ông vượt qua
Phật, qua tiên. Nguyễn Công Trứ rất riêng, khơng giống bất kì ai.


<i>“Được mất dương dương người thái thượng</i>
<i>Khen chê phơi phới ngọc đơng phong.”</i>


Ơng nêu bật suy nghĩ của mình- “được” và “mất” là hai chuyện thường tình
trong cuộc sống. Ơng khơng buồn khi “mất” cũng chẳng vui khi “được”. Ơng chấp
nhận những gì cuộc sống mang lại cho ơng dù đó là “được” hay “mất” cũng không
quan trọng. Cùng với quan niệm “được – mất”, “khen – chê” cũng được Nguyễn
Công Trứ suy nghĩ theo một hướng tích cực, khơng quan trọng.


<i>“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú</i>
<i>Trong triều ai ngất ngưởng được như ông.”</i>



Hai câu cuối kết thúc bài thơ cũng đồng thời nhấn mạnh một lần nữa phong
cách của ông. Ông tự liệt mình vào hang danh nhân, những người tài giỏi. Nguyễn
Công Trứ kết thúc với khẳng định và kết thúc “Trong triều ai ngất ngưởng được
như ơng”. Đó là phong cách riêng biệt của nhà thơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

“Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ đã thể hiện rõ cái sự khác biệt,
“ngất ngưởng” trong suy nghĩ của ơng về một nhà nho chân chính. Ơng khơng ép
mình bị trói buộc, đóng khn theo tư tưởng Nho học lỗi thời. Nguyễn Công Trứ
đã tạo nên cái tôi, phong cách sống thật lạ, đặc trưng của riêng ông Hi Văn mà
thơi. Chính Nguyễn Cơng Trứ, hay Cao Bá Qt hay những người có suy nghĩ như
ơng Hi Văn đã tạo nên một bộ mặt mới cho Nho học.


</div>

<!--links-->

×