Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CHO VAY HỘ NGHÈO TẠI NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TỈNH NGHỆ AN (2003 - 2007)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.67 KB, 27 trang )

THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CHO VAY HỘ NGHÈO TẠI NGÂN HÀNG
CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TỈNH NGHỆ AN (2003 - 2007)
2.1. TÌNH HÌNH ĐÓI NGHÈO TẠI NGHỆ AN
2.1.1. Tổng quan về kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Nghệ An thuộc Bắc trung bộ Việt Nam, toạ độ địa lý từ 18
0
33’10’’đến 200
0
vĩ bắc và từ 103
0
50’ đến 105
0
kinh đông. Phía bắc giáp tỉnh Thanh Hoá với đường
biên dài 196,13km; phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh với đường biên dài 92,6km; phía
Tây giáp nước bạn Lào với đường biên giới dài 419 km; phía Đông giáp Biển
Đông với bờ biển dài 82km. Có diện tích đất tự nhiên 16.487,29 km
2
; trong đó, đất
lâm nghiệp chiếm 41%, đất nông nghiệp chiếm 11%, đất chuyên dùng chiếm 3,6%,
quỹ đất chưa sử dụng chiếm 42%. Có 01 thành phố loại II (Thành Phố Vinh), 01 thị
xã (Thị xã Cửa Lò) và 17 huyện; trong đó, 10 huyện miền núi: Thanh Chương, Kỳ
Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Anh Sơn, Tân Kỳ, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ
Hợp, Nghĩa Đàn; 07 huyện đồng bằng: Đô Lương, Nam Đàn, Hưng Nguyên, Nghi
Lộc, Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành. Quy mô hành chính có 464 xã, 18 thị
trấn, 24 phường.
Tỉnh Nghệ An nằm ở Đông bắc dãy Trường Sơn, địa hình đa dạng, phức tạp
và bị chia cắt bởi các hệ thống đồi núi, sông suối hướng từ Tây Bắc xuống Đông
Nam. Đồi núi chiếm 83% diện tích đất tự nhiên của toàn tỉnh. Nằm trong vùng khí
hậu nhiệt đới gió mùa, chịu sự tác động trực tiếp của gió mùa Tây Nam khô và
nóng (từ tháng 4 đến tháng 8) và gió mùa Đông Bắc lạnh, ẩm ướt (từ tháng 11 đến


tháng 3 năm sau). Nhiệt độ trung bình là 24,2%; tổng lượng mưa trong năm là
1.610,9mm; độ ẩm trung bình hàng năm là 84%.
- Về tài nguyên đất: Nghệ An có tổng quỹ đất đã sử dụng là 956.250 ha,
chiếm 58% diện tích đất tự nhiên; trong đó, đất nông nghiệp gần 19.000 ha, chiếm
11,9%; đất lâm nghiệp trên 685.000 ha, chiếm 41,8%; đất chuyên dùng trên 59.000
ha, chiếm 3,6%; đất ở gần 15.000 ha, chiếm 0,9%. Quỹ đất chưa sử dụng còn trên
600.000 ha, chiếm 42% diện tích đất tự nhiên.
- Tài nguyên rừng: Tổng diện tích đất có rừng trên 685.000 ha; trong đó,
rừng phòng hộ trên 320.000 ha; rừng đặc dụng gần 188.000 ha; rừng kinh tế trên
176.000 ha. Tổng trữ lượng gỗ trên 50 triệu m
3
, nứa, mét 1.050 triệu cây.
- Tài nguyên biển: Bờ biển Nghệ An dài 82 km, có 6 cửa lạch (Lạch Cờn,
Lạch Vạn, Lạch Thơi, Lạch Quèn, Cửa Lò, Cửa Hội); trong đó, Cửa Lò, Cửa Hội
có khả năng thuận lợi cho xây dựng cảng biển. Cảng biển Cửa Lò được xác định là
cảng biển quốc tế quan trọng của vùng Bắc Trung Bộ, là cửa ngõ vận tải cho nước
bạn Lào và vùng Đông Bắc Thái Lan. Hải phận Nghệ An có khoảng 4.230 hải lý
vuông, có nhiều loại động vật phù du là nguồn thức ăn tốt cho các loại hải sản sinh
sống và phát triển. Tổng trữ lượng cá biển có trên 80.000 tấn, khả năng khai thác
cho phép khoảng từ 35- 37 ngàn tấn/năm, biển Nghệ An có 267 loài cá. Ven biển
có trên 3.000 ha diện tích mặt nước lợ, có khả năng nuôi tôm, cua… và có trên
1.000 ha diện tích sản xuất muối. Bờ biển Nghệ An có nhiều bãi tắm đẹp và hấp
dẫn: Bãi biển Cửa Lò (Thị xã Cửa Lò), Bãi Nghi Thiết (Nghi Lộc), Bãi biển Diễn
Thành, Cửa Hiền (Diễn Châu), bãi biển Quỳnh Phương (Quỳnh Lưu). Vùng biển
có đảo Ngư, đảo Loan Châu và đảo Mắt. Riêng đảo Ngư cách bờ biển 4 km có diện
tích trên 100 ha, có điều kiện xây dựng thành cảng nước sâu trong tương lai, rất
thuận lợi cho việc giao lưu hàng hoá giữa nước ta và các nước trong khu vực.
- Về tài nguyên khoáng sản: Đa dạng, phong phú trong đó có nhiều loại
khoáng sản quý hiếm như vàng, đá rubi, thiếc, đá trắng, đá granit, đá bazan… Loại
khoáng sản có điều kiện phát triển với quy mô lớn gắn với thị trường là: Đá vôi

(nguyên liệu sản xuất xi măng) có trữ lượng trên 1 tỷ m
3
, tổng trữ lượng đá trắng
(Quỳ Hợp) có trên 100 triệu m
3
; đá Bazan trữ lượng trên 360 triệu m
3
. Thiếc Quỳ
Hợp trữ lượng trên 70.000 tấn…
- Tài nguyên nước: Nghệ An có nguồn nước mặt dồi dào (trên 300 tỷ m
3
) do
lượng mưa bình quân hàng năm lớn (từ 1.800 mm đến 2.000 mm) thuận lợi cho
phát triển sản xuất, dân sinh. Hệ thống sông ngòi phân phối dày đặc (mật độ lên tới
0,6- 0,7km/km
2
). Lớn nhất là sông Cả với lưu vực chiếm 80% diện tích tự nhiên,
có 117 thác lớn nhỏ có khả năng xây dựng thuỷ điện; trong đó, có thác Bản Vẽ
đang được xây dựng tại huyện Tương Dương.
2.1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Nghệ An những năm đổi mới, kinh tế có bước phát triển khá, tốc độ GDP
bình quân hàng năm đạt từ 9-10% (năm 2006 đạt 10,2%, năm 2007 đạt 10,5%). Cơ
cấu kinh tế năm 2007 chuyển dịch đúng hướng: Nông nghiệp 33,09% xuống
31,03%, công nghiệp xây dựng 30,34% lên 32,01%, dịch vụ 36,57% lên 36,96%;
sản lượng lương thực nông nghiệp cả năm đạt 1,053 triệu tấn/kế hoạch 1 triệu tấn,
giảm 7,9% so với cùng kỳ. Một số cây công nghiệp như lạc, sắn, mía, chè, ngô
tăng về năng suất và sản lượng. Lâm nghiệp, thủy sản tiếp tục tăng so với năm
2006. Giá trị sản xuất công nghiệp cả năm đạt 5.710 tỷ đồng, tăng 17,5% so với
cùng kỳ/kế hoạch 17-18%. Các ngành dịch vụ: Ngành thương mại đã xây dựng
chương trình hành động sau hội nhập kinh tế quốc tế, tổng mức bán lẻ hàng hóa và

dịch vụ cả năm 2007 đạt 12.405 tỷ đồng, tăng 18,37%, chỉ số giá tiêu dùng tăng
9,8% so với tháng 12/2006; kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 195 triệu USD, tăng
34,15% so với cùng kỳ; ngành du lịch doanh thu đạt 540 tỷ đồng, tăng 28,7%.
Ngân hàng: Tổng nguồn vốn huy động của các Ngân hàng thương mại đạt 12.850
tỷ đồng, tăng 38,3% so với cuối năm 2006. Tổng dư nợ đạt 13.450 tỷ đồng, tăng
22,2%; trong đó, dư nợ trung, dài hạn tăng 29,4%. Nợ xấu 525 tỷ đồng, chiếm
3,9% trong tổng dư nợ, nợ xấu giảm so với đầu năm 107 tỷ đồng… Đời sống và
thu nhập của đại bộ phận nhân dân được tăng lên, kết cấu hạ tầng ngày càng được
nâng cấp, đổi mới, bộ mặt nông thôn được thay đổi theo hướng tiến bộ hơn.
Theo số liệu thống kê đến 31/12/2006, dân số của Nghệ An có 3.082.335
người, mật độ dân số trung bình là 187 người/km
2
; trong đó, nam 1.513.890 người,
chiếm 49,11% dân số; nữ 1.568.445 người, chiếm 50,89% dân số. Khu vực thành
thị có 342.035 người, chiếm 11,1% dân số. Nông thôn 2.740.330 người, chiếm
88,9% dân số. Lực lượng lao động là 1.488.000 người, chiếm gần 48,3% dân số;
trong đó, lao động có việc làm thường xuyên là 1.403.184 người, chiếm 45,52% so
với tổng số lao động. Tổng số hộ toàn tỉnh là 672.162 hộ; trong đó, khu vực thành
thị có 78.763 hộ, nông thôn có 593.399 hộ, tổng số hộ dân tộc thiểu số 75.622 hộ;
trong đó, có 49.221 hộ nghèo. Đến ngày 31/12/2007 dân số Nghệ An là 3.102.000
người; lao động có việc làm thường xuyên là 1.435.064 người, chiếm 46,3% dân
số; số người có việc làm mới trong năm là 32.200 người. Trình độ dân trí được
nâng lên hàng năm, nhân dân có bản chất cần cù, chịu khó và nhiệt tình cách mạng.
Những khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng:
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm và tăng trưởng chưa vững chắc, hiệu quả
đầu tư thấp, số lượng sản phẩm hàng hoá còn bé, tính cạnh tranh thấp.
- Nguồn thu ngân sách còn thấp và tăng chậm; nhu cầu chi ngân sách ngày
càng lớn; khả năng cân đối thu chi ngân sách trên địa bàn còn rất khó khăn.
- Kết cấu hạ tầng kỹ thuật tuy đã được cải thiện nhiều, song vẫn chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển.

- Các vấn đề xã hội còn nhiều bức xúc, trình độ lao động chưa đáp ứng. Đời
sống nhân dân vẫn ở dưới mức trung bình của cả nước, miền núi, vùng sâu, vùng
xa gặp nhiều khó khăn. Mức thu nhập bình quân đầu người của Nghệ An năm 2007
là 7.470.000 đồng, bằng 60% so với thu nhập bình quân đầu người của cả nước
(thu nhập bình quân của cả nước là 835 USD, tương đương 13.360.000 đồng).
- Việc bình xét hộ nghèo tại các địa phương thiếu chính xác, chưa bám vào
các tiêu chí đề ra theo quyết định số170/2005/QĐ-TTg, ngày 08/7/2005 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng trong giai đoạn 2006-
2010 nên tại các địa phương số hộ nghèo thực tế lớn hơn nhiều so với hộ nghèo có
tên trong danh sách qua các năm.
- Việc đánh giá số hộ thoát nghèo qua các năm chưa chính xác.
- Thời tiết khí hậu khắc nghiệt, nhiệt độ bình quân hàng năm từ 24-27
0
C, vào
mùa hè tại một số huyện miền núi cao như: Quỳ Châu, Tương Dương nhiệt độ có
ngày lên đến 42
0
, lượng mưa bình quân lớn so với cả nước, bình quân dao động từ
1.117-1.960mm, ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp, thiên tai hạn hán thường
xuyên xảy ra, hàng năm phải đón từ 10 cơn bão trở lên.
2.1.2. Thực trạng đói nghèo tại tỉnh Nghệ An
2.1.2.1. Số lượng, cơ cấu và phân bố hộ đói nghèo ở Nghệ An
Nghệ An là tỉnh nằm trong khu vực Bắc Miền Trung, là tỉnh đất rộng, người
đông. Hiện là một tỉnh nghèo, tiềm lực kinh tế còn mỏng, điểm xuất phát thấp, tích
luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn nhỏ bé, GDP bình quân đầu người đang dưới mức
trung bình của cả nước, nhu cầu về vốn và công nghệ để phát triển là rất lớn. Đến
cuối năm 2006 trên địa bàn tỉnh có 7.969 hộ nông nghiệp thiếu đói, với 35.623
nhân khẩu; trong đó, hộ thiếu đói gay gắt là 1.579 hộ, với 8.800 nhân khẩu; số hộ
nghèo toàn tỉnh còn 147.276 hộ, tỷ lệ hộ nghèo là 23%, trong khi đó cả nước tỷ lệ
hộ nghèo là 18%. Số hộ nghèo cuối năm 2007 là 130.370 hộ, chiếm tỷ lệ 19,59%

tổng số hộ toàn tỉnh, giảm 16.906 hộ so với đầu năm; trong đó, khu vực đồng bằng
57.954 hộ, tỷ lệ 13,63%; khu vực miền núi 72.416 hộ, tỷ lệ 30,16%. Số hộ thoát
nghèo 37.406 hộ; số hộ mới rơi vào diện nghèo 20.500 hộ. Tổng số người nghèo
thuộc diện hộ nghèo 585.051 người; trong đó, nữ 296.908 người. Hộ nghèo thuộc
thành phần các dân tộc thiểu số 45.429 hộ, chiếm tỷ lệ 6,83% tổng số hộ toàn tỉnh,
tập trung ở khu vực huyện, xã miền núi. Số hộ nghèo thuộc diện chính sách 12.180
hộ, chiếm tỷ lệ 1,83% so với tổng số hộ toàn tỉnh; trong đó, số hộ nghèo chính sách
người có công 3.398 hộ, chính sách xã hội 8.782 hộ. Số hộ nghèo đang ở nhà tạm
bợ là 18.843 hộ, chiếm 2,83% so với tổng số hộ toàn tỉnh.
Bảng 2.1. Tỷ lệ hộ nghèo trong tổng số hộ (phân tích theo khu vực)
Đơn vị: Hộ, %
T
T
Huyện, thành thị
Tổng số
hộ năm
2007
Số hộ
nghèo
năm
2006
Kết quả phân
loại
Hộ nghèo năm
2007
Số hộ
thoát
nghèo
Số hộ
rơi vào

nghèo
Tổng
số
hộ
nghèo
Tỷ lệ
nghèo
(%)
cột 5
chia cột 1
A B 1 2 3 4 5 6.
Khu vực đồng bằng
425.38
9
66.389
19.65
3
11.218 57.954 13.62
1 TP Vinh 53.964 3.145 1.070 412 2.487 4.61
2 TX Cửa Lò 10.292 917 211 140 846 8.22
3 H. Nam Đàn 36.278 6.311 2.041 1.287 5.557 15.32
4 H. Hưng Nguyên 28.468 4.843 1.132 690 4.401 15.46
5 H. Nghi Lộc 49.916 8.976 2.013 1.964 8.927 17.88
6 H. Đô Lương 46.028 7.976 2.472 1.259 6.763 14.69
7 H. Diễn Châu 63.490 10.963 3.396 1.870 9.437 14.86
8 H.Yên Thành 60.959 11.138 3.818 1.889 9.209 15.11
9 H. Quỳnh Lưu 75.994 12.120 3.500 1.707 10.327 13.59
Khu vực miền núi
240.14
1

80.887
17.75
3
9.282 72.416 30.16
1
H.Thanh
Chương
51.088 12.602 2.725 1.382 11.259 22.04
2 H.Anh Sơn 25.492 6.615 1.774 1.052 5.893 23.12
3 H.Tân Kỳ 29.383 8.274 1.807 1.443 7.910 26.92
4 H. Nghĩa Đàn 43.484 9.353 2.753 1.013 7.613 17.51
5 H.Quỳ Hợp 26.264 7.953 2.037 1.108 7.024 26.74
6 H.Quỳ Châu 11.421 5.288 837 454 4.905 42.95
7 H.Quế Phong 12.301 6.676 1.213 1.077 6.540 53.17
8 H.Con Cuông 14.628 6.342 1.609 636 5.369 36.7
9 H.Tương Dương 14.962 9.911 1.886 781 8.806 58.86
1
0
H.Kỳ Sơn 11.118 7.873 1.112 336 7.097 63.83
Tổng cộng
665.53
0
147.276
37.40
6
20.500
130.37
0
19.59
(Nguồn: Báo cáo kết quả rà soát hộ nghèo năm 2007, số 2026/BC/LĐ-TBXH ngày

31/12/2007 của Sở Lao Động TBXH tỉnh Nghệ An).
2.1.2.2. Đặc điểm và nguyên nhân đói nghèo tại Nghệ An
a. Đặc điểm.
- Vùng miền núi có tỷ lệ hộ nghèo cao hơn nhiều so với vùng đồng bằng
(miền núi tỷ lệ hộ nghèo chiếm 30,16%, vùng đồng bằng 13,62%). Vùng đồng bào
dân tộc thiểu số có hộ nghèo cao (45.429 hộ), nhiều hộ thiếu ăn quanh năm, đặc
biệt là đến vụ giáp hạt. Thức ăn của hộ nghèo không bổ dưỡng, đôi khi không đủ
tiền mua gạo phải sống không có gạo; ăn ngô, sắn… qua ngày.
- Hộ nghèo ở vùng đồng bằng tập trung vào các gia đình có nhiều người
không có tay nghề, không có việc làm hoặc chỉ đi làm thuê hàng ngày không ổn
định.
- Quan niệm của người nghèo sự thiếu thốn về vật chất một phần do đời
sống bất ổn, cảm giác bị xa lánh và có ít quan hệ xã hội, không muốn kết bạn với
người giàu.
- Hộ nghèo có anh, chị, em họ hàng cũng nghèo nên không có sự giúp đỡ về
mọi mặt.
- Chẳng có gì để giải trí (không có tivi, đài…), hiểu biết xã hội kém, hay
uống rượu, đánh bạc.
- Chi tiêu theo đầu người của hộ đồng bào dân tộc thiểu số thấp hơn rất
nhiều so với người kinh, các hộ dân tộc có quy mô hộ lớn và có nhiều con hơn các
hộ trung bình; về trình độ học vấn của chủ hộ và của vợ hoặc chồng cũng thấp hơn.
Tài sản dưới dạng nhà ở hoặc những tài sản khác cũng thấp hơn trung bình; trẻ em
các hộ nghèo thường bị suy dinh dưỡng, phải lao động nặng nhọc từ khi còn bé.
b. Nguyên nhân
- Do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt; vùng đồng bằng ven biển, vùng núi,
vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí thấp.
- Do chưa có cơ chế đồng bộ:
+ Hệ thống chính sách, cơ chế XĐGN còn thiếu đồng bộ: Cơ chế vận hành và
trách nhiệm của từng ngành chưa rõ. Cơ chế dân chủ, công khai, kiểm tra giám sát
còn mang nặng tính hình thức. Công tác điều tra, quản lý đối tượng hộ nghèo, xã

nghèo; xây dựng chương trình, kế hoạch còn nhiều thiếu sót. Nhiều nơi còn lúng
túng, chưa biết cách huy động người dân tham gia xây dựng kế hoạch, thực hiện và
quản lý nguồn lực cho XĐGN.
+ Thiếu những chính sách đủ mạnh để khuyến khích đầu tư, huy động mọi
nguồn lực, phát triển các thị trường, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm mới.
Tỷ lệ rủi ro, đọng vốn trong cho vay tạo việc làm còn cao.
- Chỉ đạo, điều hành về công tác XĐGN cũng như việc phối hợp, lồng ghép
các chương trình kinh tế - xã hội với XĐGN chưa đạt hiệu quả cao. Các bộ, ngành
Trung Ương và tỉnh chưa có những tác động có hiệu quả trong triển khai chương
trình, chưa có sự phối hợp chặt chẽ; chưa có biện pháp huy động nguồn lực một
cách tích cực cho chương trình, còn không ít tồn tại, khuyết điểm về quản lý, điều
hành chương trình ở các địa phương.
- Nhận thức và trách nhiệm đối với công tác XĐGN của cấp ủy Đảng, chính
quyền, đoàn thể ở một số địa phương cấp huyện, xã và một số ban ngành tỉnh chưa
sâu sát và toàn diện; thiếu nhất quán trong chỉ đạo; phối hợp điều hành nhiều khi
còn lúng túng. Lãnh đạo một số địa phương, nhất là miền núi có tư tưởng trông
chờ; ỷ lại vào nguồn hỗ trợ của Nhà nước; chưa huy động và khai thác được nội
lực để thực hiện chương trình XĐGN tại địa phương; chưa nắm được tình hình của
hộ nghèo, cũng như nguyên nhân nghèo và tâm tư nguyện vọng của họ để có biện
pháp hỗ trợ hiệu quả nhất.
- Một số chính sách hỗ trợ xã nghèo, hộ nghèo chưa có tác dụng khuyến
khích để hộ nghèo, xã nghèo phấn đấu vươn lên.
- Do bản thân hộ nghèo: Hộ nghèo do các thành viên trong gia đình có trình
độ học vấn thấp (không biết chữ, không biết tiếng Kinh); tập quán canh tác lạc hậu.
Số hộ nghèo do nguyên nhân thiếu kinh nghiệm và kiến thức làm ăn; chưa biết áp
dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật mới vào trồng trọt, chăn nuôi và phát triển
ngành nghề mang lại hiệu quả kinh tế cao, chiếm 20,7% trong tổng số hộ nghèo
đói toàn tỉnh; các hộ nghèo có quy mô gia đình lớn nhưng sức lao động ít.
Trong tổng số 130.370 hộ nghèo có tại thời điểm điều tra được chia thành
các nhóm nguyên nhân chính sau đây:

- Do thiếu vốn và tư liệu sản xuất, chiếm 49,9% (65.055 hộ).
- Thiếu kinh nghiệm và kiến thức làm ăn, chiếm 20,7% (26.987 hộ).
- Thiếu đất sản xuất, chiếm 12,6% (16.427 hộ).
- Thiếu lao động, chiếm 9,3% (12.124 hộ).
- Ốm đau, tàn tật, chiếm 5,1% (6.649 hộ).
- Tai nạn, rủi ro, chiếm 0,91% (1.186 hộ).
- Lười lao động, chiếm 0,68% (887 hộ).
- Mắc các tệ nạn xã hội, chiếm 0,81% (1.056 hộ).
2.2. TỔNG QUAN VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN,
MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH
XÃ HỘI TỈNH NGHỆ AN
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển
Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Nghệ An được thành lập, theo quyết định
số 44/QĐ- HĐQT ngày 14/01/2003 của Chủ tịch HĐQT- NHCSXH Việt Nam; trên
cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ người nghèo và chính thức đi vào hoạt động
ngày 09/4/2003. Đây là đơn vị thành viên trực thuộc Hội sở chính, đại diện pháp
nhân theo uỷ quyền của Tổng Giám đốc trong việc chỉ đạo, điều hành các hoạt
động của NHCSXH trên địa bàn Nghệ An. Chức năng, nhiệm vụ của chi nhánh là:
Nhận bàn giao vốn cho vay hộ nghèo từ NHNo&PTNT, vốn giải quyết việc làm từ
Kho bạc Nhà nước, vốn cho vay học sinh, sinh viên từ Ngân hàng Công thương
Bến Thuỷ sang; huy động vốn để cho vay các đối tượng. NHCSXH tỉnh Nghệ An
được thành lập trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ người nghèo, nên sau khi
thành lập 01 Phó giám đốc NHNo&PTNT, kiêm Giám đốc Ngân hàng Phục vụ
người nghèo sang làm Giám đốc chi nhánh. Tại cấp huyện Phó giám đốc
NHNo&PTNT sang làm Giám đốc phòng giao dịch. Về cơ sở vật chất phục vụ cho
hoạt động khi mới thành lập (trụ sở làm việc và trang thiết bị phục vụ cho làm
việc) hầu như không có. Trụ sở phải thuê mượn. Trong 5 năm qua, được sự quan
tâm chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương các cấp, sự phối hợp có hiệu quả
của các tổ chức chính trị xã hội; tập thể CBNV trong toàn chi nhánh NHCSXH đã
có nhiều cố gắng, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thách thức, từng bước tạo lập và

xây dựng chi nhánh ngày càng lớn mạnh; tổ chức triển khai các chương trình tín
dụng đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách đạt hiệu quả; tạo nền tảng cho
NHCSXH tỉnh Nghệ An phát triển trong những năm tiếp theo.
2.2.2. Mô hình tổ chức và hoạt động
2.2.2.1. Về mô hình tổ chức
Mô hình tổ chức của NHCSXH bao gồm:
a. Bộ phận quản trị
- Ban đại diện HĐQT- NHCSXH toàn tỉnh có 172 người; trong đó: Ban đại
diện HĐQT- NHCSXH tỉnh có 11 người và Ban đại diện HĐQT- NHCSXH các
huyện, thị xã, thành phố có 161 người.
- Ban đại diện HĐQT tỉnh 11 người, gồm các đại diện: Trưởng ban là Phó
chủ tịch UBND tỉnh; 02 phó ban (Giám đốc Ngân hàng nhà nước, Giám đốc Sở
Tài chính tỉnh); 08 thành viên gồm: Trưởng Ban Dân tộc; Phó Chánh Văn phòng
UBND tỉnh; Chủ tịch Hội Phụ Nữ; Chủ tịch Hội Nông Dân tỉnh; Phó Giám đốc Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội; Phó Giám đốc Sở Kế hoạch Đầu tư; Phó Giám

×