Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN HỆ THỐNG QUẢN LÝ VÀ KINH DOANH PHÂN BÓN VÔ CƠ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.57 KB, 12 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN HỆ THỐNG QUẢN LÝ VÀ
KINH DOANH PHÂN BÓN VÔ CƠ Ở VIỆT NAM
1-/ NHU CẦU PHÂN BÓN CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM
TỚI.
Từ nay đến năm 2000 và 2010 nhu cầu phân bón của Việt Nam cũng vẫn sẽ
tiếp tục tăng lên hàng năm, bởi hai lý do:
-Một là, Việt Nam trong quỹ đất của mình vẫn còn khoảng 3 triệu ha có thể
khai thác đưa vào sản xuất nông nghiệp, nhất là ở vùng Tây Nguyên và một số nơi
ở miền núi phía bắc.ở đồng bằng Sông Cửu Long, Chính Phủ Việt Nam dự định cố
gắng đến năm 2010 sẽ đưa phần lớn số đất này vào sử dụng. Mặt khác, khả năng
tăng vụ của Việt Nam vẫn còn khá lớn ở tất cả các vùng nhất là đồng bằng Sông
Cửu Long. Nếu làm tốt công tác thuỷ lợi, bảo đảm việc tưới tiêu chủ động, đồng
thời có các giống cây trồng phù hợp, có sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng tốt, thì vụ
tăng vụ sản xuất sẽ tăng nhanh. Dự tính đến năm 2000, nhờ tăng vụ Việt Nam có
thể tăng diện tích gieo trồng lên từ 300- 500 ngàn ha.
Diện tích gieo trồng tăng là nhân tố quan trọng góp phần làm cho nhu cầu về
phân bón tăng lên hàng năm.
-Hai là, cùng với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá sản xuất nông
nghiệp, trình độ thâm canh của sản xuất cũng không ngừng nâng cao, nhu cầu phân
bón vì thế cũng từng bước được tăng lên. sự tăng lên ở đây cũng thể hiện hai
phương diện: một mặt là những nơi nông dân đã dùng phân hoá học rồi, sẽ tăng
thêm số lượng sử dụng trên 1 ha mỗi vụ, mặt khác nông dân ở những nơi chưa sử
dụng và chưa biết sử dụng, sẽ dần dần làm quen với việc sử dụng- chính điều này
sẽ làm cho nhu cầu phân bón tăng đáng kể trong những năm tới.
Thực ra so với quy trình kỹ thuật hiện nay trong sản xuất nông nghiệp do Bộ
nông nghiệp và phát triển nông thôn đề ra. Thì lượng phân bón đã sử dụng tính bình
quân trên mỗi ha của Việt Nam mới đạt khoảng 60-70% yêu cầu.
So với các nước trong khu vực và các nước có nông nghiệp tiên tiến trên thế
giới, thì lượng phân hoá học Việt Nam đã sử dụng tính bình quân trên 1 ha còn
thua rất xa.
Hà Lan 788kg /ha


Nhật Bản 571 kg/ha
Cộng hoà Liên Bang Đức 487kg /ha
Nam Triều Tiên 450kg /ha
Trung Quốc 332kg/ha
Bắc Triều Tiên 300 kg/ha
Lượng phân Việt Nam sử dụng bình quân trên 1 ha chỉ mới bằng khoảng
31% của Trung Quốc và khoảng 29% của Nhật Bản. Bởi vậy, Nhu cầu phân bón
của Việt Nam trong những năm tới sẽ tiếp tục tăng, đó là điều tất yếu. Căn cứ nhịp
độ phát triển của nền nông nghiệp Việt Nam hiện nay, cũng như nhịp độ phát triển
cần phải đạt trong những năm tới, các cơ quan có chức năng của Việt Nam- trước
hết là Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Thương mại , Ban vật giá chính
phủ đã dự đoán nhu cầu phân bón của Việt Nam đến năm 2000 như sau.
BIỂU 7: DỰ ĐOÁN NHU CẦU PHÂN BÓN CÁC LOẠI Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2000
Chỉ tiêu 1998 1999 2000
Cả nước
Phân ure 1.811.000 1.958.000 2.000.000
2.200.000
Phân lân 850.000 860.000 950.000
1.000.000
Phân DAP 300.000 300.000 300.000
Phân NPK 750.000 800.000 900.000
Phân ure phân theo vùng
Đông bắc 75.000 80.000 85.000
Tây bắc 32.000 35.000 40.000
ĐB Sông Hồng 597.000 653.000 740.000
Khu 4 cũ 66.000 72.000 90.000
Duyên Hải Miền Trung 147.000 152.000 160.000
Tây Nguyên 83.000 86.000 90.000
Đông nam bộ 155.000 60.000 165.000
Đồng bằng Sông Cửu Long 656.000 720.000 830.000

Như vậy, ta thấy riêng phân ure, bình quân nhu cầu mỗi năm tăng thêm khoảng
150.000 tấn.
2-/ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ ỔN ĐỊNH TỔ CHỨC QUẢN LÝ VÀ KINH
DOANH PHÂN BÓN VÔ CƠ Ở VIỆT NAM
2.1-/ Vấn đề tổ chức sản xuất phân bón trong nước.
2.1.1. Về phân Lân:
Với nhu cầu phân lân như đã dự đoán, với năng lực sản xuất hiện tại của các
doanh nghiệp sản xuất phân lân trong nước, chúng tôi cho rằng như vậy là đáp ứng
được- thậm chí cần đầu tư kỹ thuật và công nghệ để nâng cao hơn nữa chất lượng
của phân lân, làm cho nó không những đáp ứng được nhu cầu của sản xuất nông
nghiệp trong nước mà còn tiến tới xuất khẩu nữa.
2.1.2 Phân NPK:
Hiện nay các xí nghiệp thuộc Tổng Công ty Hoá chất Việt Nam mỗi năm sản
xuất được từ 450.000- 500.000 tấn. Đồng thời ở các ngành, các địa phương cũng
có một số cơ sở sản xuất được từ 70.000- 100.000 tấn- Như vậy tổng lượng phân
NPK sản xuất được trong nước trong hai năm 1998 và 1999 khoảng 500- 600 ngàn
tấn. Như thế mỗi năm chỉ cần nhập thêm khoảng 150- 200 ngàn tấn là đủ. Song
song với các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư xây dựng, hiện tại đang có 4 doanh
nghiệp sản xuất phân NPK do các doanh nghiệp nước ngoài liên doanh với các
doanh nghiệp Việt Nam xây dựng, có công suất tổng cộng là 1.250.000 tấn/năm,
với chất lượng tương đương với phân NPK Việt Nam đang nhập hiện nay- Vì thế
đến năm 2000 Việt Nam sẽ sản xuất được khoảng 1.800.000 tấn phân NPK- Nhu
cầu trong nước chỉ sử dụng hết một nửa số phân, còn một nửa xuất ra nước ngoài.
2.1.3 Phân DAP:
Đây là loại phân Việt Nam chưa sản xuất, nên phải nhập để đáp ứng nhu cầu
của nông dân các tỉnh phía nam.
2.1.4 Phân ure
Từ nay đến năm 2000 Việt Nam mỗi năm cũng chỉ sản xuất được khoảng
130.000 tấn- đáp ứng được khoảng 6-7% nhu cầu phân ure trên cả nước. Nhà máy
phân đạm Hà Bắc đang đầu tư để rộng sản xuất, nâng công suất lên khoảng

270.000tấn/ năm, song phải sau năm 2000 thì công việc này mới hoàn thành- nếu
lúc đó nhu cầu phân ure của Việt Nam khoảng 2.400.000- 2.500.000tấn/ năm, thì
nhà máy phân đạm Hà Bắc mới đáp ứng được từ 10-11% nhu cầu.
Hiện nay Việt Nam đang liên doanh với nước ngoài để xây dựng nhà máy
phân đạm Phú Mỹ, với công suất 750.000tấn/ năm, cũng dự định đi vào sản xuất
sau năm 2000. Như vậy, nếu có nhà máy Phú Mỹ đi nữa, sau năm 2000 vn cũng
mới thỏ mãn được khoảng 40% nhu cầu phân bón- còn 60% vẫn phải nhập từ nước
ngoài. Vấn đề hiện nay là Việt Nam có nên sản xuất ure trong nước để thay thế
nhập khẩu hay không? đó là vấn đề cần được nghiên cứu, tính toán thật kỹ lưỡng
để tránh xảy ra những hậu quả đáng tiếc sau này.
Hiện tại, trên thế giới những nước sau đây là những nước mạnh về sản xuất
phân bón:
BIỂU SỐ 8: DANH MỤC 15 NƯỚC SẢN XUẤT PHÂN BÓN TRÊN THẾ GIỚI TRONG
NĂM 1995.
Đơn vị tính: tấn
Tên nước sản
xuất
Năng lực
sản xuất
Khối lượng
sản xuất
Xuất
khẩu
Nhập khẩu
1.Trung Quốc 18.037 16.400 4.500
2 ấn Độ 16.224 14.200 3.200
3.Liên Xô cũ 11.840 8.200 6.000
Trong đó- Nga 5.293 3.900 3.200
Ukraina 3.460 3.000 2.300
Berarus 1.098 650 150

4.Mỹ 6.954 7.250 800 3.000
5. Inđonexia 6.303 5.400 1.700
6. Pakistan 3.255 3.200 100
7.Canađa 3.102 3.150 1.800 250
8.Bănglađét 2.787 2.300 450
9.Rumani 2.404 1.150 950
10.arâp Saoudite 1.892 2.150 1.800
11.Bắc Triều Tiên 1.845 1.200 30
12.IRak 1.716 425 50
13.Đức 1.678 1.100 700 420
14.Mexico 1.643 1.200 500 150
15.Balan 1.600 1.300 300 20
Với lượng ure các nước này sản xuất ra và xuất khẩu trên thị trường thế giới
trong 20 năm qua, từ năm 1976- 1996 thì giá cả diễn biến như sau:
BIỂU SỐ 9: GIÁ URE TRÊN THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 1976-1996
Đơn vị tính: USD/ Tấn
Năm Giá ure Năm Giá ure
1976 112 1987 117
1977 127 1998 155
1978 145 1989 132
1979 146 1990 157
1980 222 1991 172
1981 216 1992 140
1982 158 1993 107
1983 135 1994 148
1984 171 1995 212
1985 136 1996 206
1986 107

Tính trung bình là 153 USD /tấn- Tất nhiên đây là giá “FOB”, Tức là giá tại

cảng xuất khẩu. Còn các xí nghiệp sản xuất ure phục vụ cho tiêu dùng trong nước
phải cạnh tranh với giá “CIF” tức là giá tại cảng nhập (Thường tăng thêm 10%
nữa do chi phí vận chuyển), Xấp xỉ 165 USD, năm 2000 là 174 USD và năm 2000
sẽ là 187 USD.
Mặt khác, kinh nghiệm sản xuất phân ure của các nước đang phát triển thời
gian qua cho thấy rằng, ít có nước nào sản xuất được ure với giá dưới 200USD/

×