Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN VỀ THỰC TRẠNG BẢO HIỂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (61.13 KB, 4 trang )

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN.
Như tên gọi của nó, Khoá luận này nghiên cứu Mô hình pháp luật về Kinh
doanh bảo hiểm ở Việt nam trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi. Qua những
nội dung đã được đề cập ở trên ta có thể rút ra một số kết luận sau.
Kinh doanh bảo hiểm ra đời trong nền kinh tế hàng hoá trên nhu cầu cơ sở
được đảm bảo về mặt tài chính của các tổ chức cá nhân đối với những thiệt hại có
thể có do rủi ro gây ra. Trong xã hội hiện đại, bảo hiểm không chỉ góp phần xử lý
ngăn chặn rủi ro mà còn là một trung gian tài chính, một công cụ phát triển kinh tế
quan trọng.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, trước những yêu
cầu của việc mở rộng thị trường kinh doanh bảo hiểm cũng như trước những yêu
cầu tự hoàn thiện của hện thồng pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật kinh tế
nên Quốc hội nước ta đã ban hành Luật Kinh doanh Bảo hiểm. Luật Kinh doanh
Bảo hiểm đã được ra đời để kịp thời điều chỉnh ngành hoạt động kinh doanh này.
Mô hình pháp luật về kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay phần nào đã
được hoàn thiện khi đã có hẳn một văn bản Luật Kinh doanh Bảo hiểm. Luật Kinh
doanh Bảo hiểm ra đời thay thế cho Nghị định 100/CP trước kia và bổ xung thêm
những phần còn thiếu sót mà những văn bản luật trước chưa đáp ứng được. Nên
Luật Kinh doanh Bảo hiểm ra đời rất đúng lúc để điều chỉnh cho ngành luật kinh
doanh còn mới này ở nước ta. Mặc dù Luật Kinh doanh Bảo hiểm mới ra đời
những vẫn còn những điều bất cập cho nên em mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị
để hoàn thiện hơn mô hình pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
Các quan hệ phát sinh trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm không chỉ chịu
sự tác động của các quy phạm Luật Kinh doanh Bảo hiểm mà còn chịu sự tác động
của các văn bản pháp luật khác. Nếu các văn bản trên có những quy định gây cản
trở lẫn nhau trong việc thực hiện thì tất yếu sẽ ảnh hưởng đến hiệu qủa của văn
bản Luật Kinh doanh Bảo hiểm.
Hiện nay, để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nhà nước ta thực hiên nguyên tắc
“Một cửa một dấu” với thủ tục thành lập của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Điều này thể hiện ở qui định Giấy phép đầu tư của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài có giá trị là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (Điều 60


Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam). Ngoài ra, trong quá trình xét duyệt dự án
đầu tư, bên nước ngoài chỉ tiến hành các thủ tục đối với một cơ quan cấp giấy
phép đầu tư là Bộ Kế hoạch và Đầu tư hay UBND cấp tỉnh (Điều 59 Luật Đầu tư
nước ngoài). Tuy nhiên, do đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm nên điều
kiện tiên quyết cho việc thành lập mọi doanh nghiệp bảo hiểm trong đó có doanh
nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài là Giấy chứng nhận do Bộ Tài Chính
cấp. Như vậy quy định trên đã phá vỡ nguyên tác “Một cửa, một dấu” đối với việc
thành lập doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, để đảm bảo
được tính thống nhất trong hệ thống pháp luật nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc thu hút đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài cần phải có những
quy định để khắc phục tình trạng trên.
Đầu năm 1999, Luật thuế giá trị gia tăng( VAT) đã có hiệu lực thi hành. Theo
Điều 4 của Luật thuế giá trị gia tăng, các dịch vụ bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học
sinh, bảo hiểm cây trồng vật nuôi và các loại hình bảo hiểm không nhằm mục đích
kinh doanh không thuộc diện chịu thuế VAT. Những dịch vụ bảo hiểm này sẽ
không được khấu trừ và hoàn thuế VAT đầu vào. Như vậy đối với mỗi doanh
nghiệp bảo hiểm việc xác định và hạch toán riêng các khoản thu từ bảo hiểm nhân
thọ, bảo hiểm học sinh , bảo hiểm cây trồng vật nuôi và các loại bảo hiểm không
nhằm mục kinh doanh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng thuế VAT với
doanh nghiệp bảo hiểm cũng như việc kiểm tra các chế độ tài chính, hạch toán,
báo cáo của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm đối với doanh nghiệp bảo
hiểm. Vì các lý do nêu trên, cần phải có những quy định cụ thể về việc hạch toán,
kê khai thuế với các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm bảo đảm sự đồng bộ giữa Luật
Kinh doanh Bảo hiểm với các Luật thuế khác.
Theo quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng, đối tượng không thuộc diện
chịu thuế VAT phải là những hàng hoá và dịch vụ không nhằm mục đích kinh
doanh, và đối tượng nộp thuế VAT là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động kinh
doanh. Đồng thời, Luật thuế giá trị gia tăng cũng xếp các loại bảo hiểm không
nhằm mục đích kinh doanh vào đối tượng không thuộc diện chịu thuế. Quy định
như trên đã tạo ra sự mâu thuẫn không đáng có. Các loại bảo hiểm không nhằm

mục đích kinh doanh (theo nghĩa thông thường) thực chất không phải là hàng hoá
và dịch vụ. Vì vậy các loại bảo hiểm này không thuộc diện điều chỉnh của Luật
Thuế giá trị gia tăng và không cần quy định trong luật thuế này. Ngược lại nếu có
một loại hình “Bảo hiểm không nhằm mục đích kinh doanh” là hàng hoá dịch vụ
thì sẽ dẫn đến một kết luận vô lý là những có sở sản xuất, kinh doanh những dịch
vụ “Bảo hiểm không nhằm mục đích kinh doanh”. Do đó cần phải có những quy
định cụ thể hoá các loại bảo hiểm không thuộc diện chịu thuế VAT để khắc phục
khiếm khuyết trên.
Trong Luật thuế giá trị gia tăng, dịch vụ môi giới bảo hiểm xếp vào nhóm có
thuế xuất cao (20%). Đây là quy định làm hạn chế hoạt động của các công ty môi
giới bảo hiểm từ đó ảnh hưởng đến các hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm.
Đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay, các tố chức, các cá nhân, doanh nghiệp nước
ngoài thường thông qua các công ty môi giới bảo hiểm khi tham gia bảo hiểm tại
Việt Nam. Vì vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty môi giới bảo hiểm thì
cần phải có những quy định về thuế xuất hợp lý với dịch vụ môi giới bảo
hiểm.
Trên thực tiễn cho thấy Luật Kinh doanh Bảo hiểm có thể phát huy hiệu lực
thì phụ thuộc rất lớn vào các điều kiện vật chất phục vụ cho việc thực thi văn bản
Luật Kinh doanh Bảo hiểm mới ban hành.
Nhiệm vụ trước mắt hiên nay là phải củng cố và tăng cường cơ quan quản lý
nhà nước về hoạt động kinh doanh Bảo hiểm., đảm bảo có đủ cán bộ với trình độ
chuyên môn đủ khả năng chỉ đạo và giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên
thị trường. Trong tương lại có thể chuyển cơ quan quản lý trực tiếp hoạt kinh
doanh bảo hiểm từ cấp phòng quản lý bảo hiểm thuộc Vụ Tài chính ngân hàng và
các tổ chức tài chính lên cấp Vụ quản lý bảo hiểm thuộc Bộ Tài chính. Có như vậy
mới đáp ứng được nhu cầu phát triển phong phú và đa dạng của thị trường bảo
hiểm Việt Nam trong thời gian tới.
Ngoài ra, để các doanh nghiệp bảo hiểm không bỡ ngỡ trước các quy định
của Luật Kinh doanh Bảo hiểm thì nhà nước cần phải thực hiện các biện pháp
thông tin tuyên truyền về nội dung của văn bản luật. Đồng thời tiềp thu những

kiến nghị từ phía các doanh nghiệp bảo hiểm để có được những quy định phù hợp
với thực tế.
Trên đây là một số kiến nghị và giải pháp nhằm đảm bảo cho Luật Kinh
doanh Bảo hiểm phát huy được vai trò của mình trong đời sống xã hội. Mặc dù đã
được sự hướng dẫn chu đáo của thầy giáo nhưng với kiến thức và kinh nghiệm
còn hạn chế, thời gian nghiên cứu thực tế chưa dài nên một số kiến nghị còn chưa
phù hợp và chưa có tính khả thi. Em rất mong được sự đóng góp và hướng dẫn
thêm của các thầy cô và các bạn để được hoàn thiện hơn các giải pháp và kiến
nghị của Khoá luận này.

×