Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

(Luận văn thạc sĩ) chênh lệch tham nhũng và dòng vốn FDI đầu tư vào các quốc gia khu vực đông nam á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN NGỌC MINH TUẤN

CHÊNH LỆCH THAM NHŨNG VÀ DÒNG VỐN FDI
ĐẦU TƯ VÀO CÁC QUỐC GIA KHU VỰC ĐƠNG NAM Á

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP.HỒ CHÍ MINH - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN NGỌC MINH TUẤN

CHÊNH LỆCH THAM NHŨNG VÀ DÒNG VỐN FDI
ĐẦU TƯ VÀO CÁC QUỐC GIA KHU VỰC ĐƠNG NAM Á

Chun ngành: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
Mã số

: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. TRẦN NGỌC THƠ


TP.HỒ CHÍ MINH - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Những
dữ liệu, kết quả mà tơi trình bày trong bài nghiên cứu là hồn tồn trung thực, có
nguồn gốc từ các tổ chức đáng tin cậy và được tôi tổng hợp và xử lý.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN NGỌC MINH TUẤN


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Tóm tắt
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT. MỐI QUAN HỆ CỦA THAM NHŨNG
VÀ FDI TRONG CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY ......................................... 5
1.1 Khái niệm Đầu tư trực tiếp nước ngoài ................................................................. 5
1.2 Khái niệm Tham nhũng ......................................................................................... 8
1.3 Khái niệm Chênh lệch tham nhũng ....................................................................... 9
1.4 Tổng quan lý thuyết ............................................................................................ 14
1.4.1 Lý thuyết Chi phí giao dịch .............................................................................. 14
1.4.2 Mơ hình OLI của Dunning ............................................................................... 15
1.5 Mối quan hệ giữa tham nhũng, chênh lệch tham nhũng và FDI trong các nghiên
cứu trước đây............................................................................................................. 17

1.6 Hạn chế của các nghiên cứu trước ..................................................................... 25
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI FDI VÀ THAM NHŨNG ......................................................................... 28
2.1 Xu hướng dòng vốn FDI trên thế giới................................................................. 28
2.2 Xu hướng dịng vốn FDI ở khu vực châu Á........................................................ 29
2.3 Tình hình tham nhũng của các nước trong khu vực Đơng Nam Á ..................... 16
CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ
MƠ HÌNH NGHIÊN CỨU ..................................................................................... 35
3.1 Dữ liệu nghiên cứu .............................................................................................. 35
3.2 Phương pháp và mơ hình nghiên cứu.................................................................. 44
3.3 Giả thuyết nghiên cứu và kỳ vọng dấu................................................................ 46


CHƯƠNG 4: TRÌNH BÀY KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KẾT LUẬN ......... 49
4.1 Tổng quan dữ liệu và cách thức khắc phục ......................................................... 49
4.2 Kết quả nghiên cứu ............................................................................................. 52
CHƯƠNG CUỐI: PHẦN KẾT .............................................................................. 57
Đóng góp, phát triển mới của luận văn ..................................................................... 57
Hướng phát triển đề tài trong tương lai ..................................................................... 58
Tài liệu tham khảo


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Association of

Hiệp hội các quốc gia Đông

Southeast AsianNations

Nam Á


CPI

Corruption Perceptions Index

Chỉ số nhận thức tham nhũng

FDI

Foreign Direct Investment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội

IMF

International Monetary Fund

Quỹ Tiền tệ quốc tế

MNE

Multinational Enterprises

Doanh nghiệp đa quốc gia


ASEAN

OLI

Ownership, Location,
Internalization paradigm

Mơ hình chiết trung

Organisation for Economic

Tổ chức hợp tác và phát triển

Cooperation and Development

kinh tế

TCT

Transaction Cost Economics

Lý thuyết chi phí giao dịch

TI

Transparency International

Tổ chức Minh Bạch Thế Giới


United Nations Conference on

Diễn đàn thương mại và phát

Trade and Development

triển Liên Hiệp Quốc

United Nations Development

Chương trình Phát triển Liên

Programme

Hợp Quốc

WB

World Bank

Ngân hàng Thế giới

WTO

World Trade Organization

Tổ chức Thương Mại Thế Giới

OECD


UNCTAD

UNDP


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Bảng 1.1

Tổng kết các nghiên cứu của các tác giả trước

Bảng 2.1

Dòng vốn đầu tư FDI chia theo các vùng miền trên thế giới 2012-2014

Bảng 2.2

Bàng 2.3

Danh sách 10 nước châu Á nhận đầu tư FDI nhiều nhất năm 2013 và
2014
So sánh chỉ số nhận thức tham nhũng của các nước Đông Nam Á
(2003-2015)

Bảng 3.1

Mô tả các biến quan sát trong mơ hình hồi quy


Bảng 3.2

Tổng quan các biến của mơ hình hồi quy

Bảng 4.1

Tổng hợp kết quả hồi quy của cả 3 mơ hình


TĨM TẮT
Đã có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa tham nhũng và dòng vốn FDI
đầu tư vào quốc gia đó; nhưng kết quả rất khác nhau. Một số nghiên cứu cho thấy
tác động ngược chiều giữa mức độ tham nhũng và dịng vốn FDI mà quốc gia đó
nhận được. Nhưng các nghiên cứu khác chỉ ra tham nhũng tác động cùng chiều đến
dòng vốn FDI. Trong bài nghiên cứu này, tôi lặp lại các nghiên cứu trước đây và
đưa thêm khái niệm “chênh lệch tham nhũng”, là sự khác biệt về tham nhũng giữa
hai nước.
Từ đó, áp dụng vào các nước trong khu vực Đông Nam Á, thời gian từ 2003
đến 2015 và nghiên cứu trên 3 mô hình, tương ứng với 3 biến: (1) tham nhũng; (2)
chênh lệch tham nhũng dương và (3) chênh lệch tham nhũng âm. Ở đây, chênh lệch
tham nhũng dương là các quan sát mà nước đầu tư có mức độ tham nhũng cao hơn
nước chủ nhà; và ngược lại đối với chênh lệch tham nhũng âm.
Kết quả cho thấy, tham nhũng cao có dấu hiệu thu hút đầu tư FDI nhiều hơn,
nhưng độ thu hút không lớn. Chênh lệch tham nhũng dương có tác động ngược
chiều đến dịng vốn đầu tư FDI. Điều này có thể giải thích rằng sự tương đồng về
thể chế của hai quốc gia thúc đẩy dòng vồn đầu tư FDI giữa hai nước. Chênh lệch
tham nhũng âm cũng có tác động ngược chiều, nhưng hệ số khá nhỏ. Các nhà đầu tư
ở nước ít tham nhũng cũng có xu hướng đầu tư vào các nước có tình trạng tham
nhũng cao. Có thể giải thích rằng một số nhà đầu tư có kiến thức và kinh nghiệm

trong việc ứng phó với tham nhũng đã sử dụng nó giống như lợi thế cạnh tranh so
với các nhà đầu tư khác nên ưu tiên đầu tư vào các nước chủ nhà có mức độ tham
nhũng cao.

TỪ KHĨA
-

Chênh lệch tham nhũng

-

FDI


1

PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Sau cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu 2008, các nước phát triển cũng
như đang phát triển phải đối mặt với vấn đề nguồn vốn để phục hồi nền kinh tế
của nước mình. Một số những nguồn vốn được quan tâm nhất đó là dịng vồn
FDI.
Đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) là một hình thức đầu tư quốc tế dựa trên
cơ sở của quá trình chuyển dịch tư bản giữa các nước. Do đó, FDI có vai trị rất
quan trọng đó là tạo ra cơ hội cho các nước kém phát triển tiếp cận nguồn vốn từ
bên ngoài đầu tư vào trong nước. Tại các nước có chính sách khuyến khích đầu tư
nước ngồi hợp lý, FDI khơng chỉ làm tăng cung về vốn đầu tư mà cịn có vai trị
thúc đẩy chuyển giao cơng nghệ; đặc biệt là thúc đẩy q trình tích tụ vốn con
người, một nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Do vậy, dòng vốn
FDI luôn luôn được coi là một trong những nguồn vốn quan trọng của bất kỳ

nước nào, cả các nước phát triển cũng như đang phát triển.
Không phải bất kỳ nước nào cũng sẽ thu hút được nguồn vốn đầu tư trực
tiếp như mong muốn, bởi nó phụ thuộc rất nhiều yếu tố: kinh tế, chính trị, vốn
con người, mục đích, đầu tư,… Do vậy, làm sao để thu hút FDI cũng là vấn đề mà
các nước luôn quan tâm, bởi lẽ tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế, tốc độ phát triển
của mỗi nước mà có những chính sách khuyến khích khác nhau. Hơn nữa, nhiều ý
kiến cho rằng hối lộ và tham nhũng đang cản trở hoạt động đầu tư, làm xói mịn
sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và của tồn nước đó nói chung. Đó
là cảnh báo của Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) trong hội
nghị “Tổng kết 25 năm thu hút FDI” (Hà Nội, ngày 27-3-2013). Hiệp hội doanh
nghiệp Úc (AuCham) và Phòng Thương mại Mỹ tại Việt Nam (AmCham) cũng
nhấn mạnh: Cải cách hành chính tại Việt Nam chậm và đặc biệt có rất nhiều vấn
đề xung quanh sự thiếu minh bạch, quan liêu, tham nhũng.


2

Do đó, để xác định và làm rõ mối quan hệ giữa tham nhũng và dòng vốn
FDI đầu tư vào các nước khu vực Đông Nam Á, tác giả chọn đề tài “Chênh lệch
tham nhũng và dòng vốn FDI đầu tư vào các quốc gia khu vực Đông Nam Á” để
thực hiện nghiên cứu của mình. Ngồi ra, vào năm 2014, hai tác giả Jose
R.Godinez và Ling Liu đưa ra và sử dụng khái niệm “chênh lệch tham nhũng” ở
các nước Châu Mỹ Latin. Bài nghiên cứu này cũng sẽ giới thiệu khái niệm “chênh
lệch tham nhũng” và đưa vào nghiện cứu ở các nước Đông Nam Á.

Mục tiêu nghiên cứu
Bài nghiên cứu sẽ phân tích và giải thích 3 câu hỏi sau:
1. Liệu rằng mức độ tham nhũng của một nước trong khu vực Đơng Nam Á
có ảnh hưởng đến dòng vốn FDI từ các nước trên thế giới đầu tư vào nước
này hay không?

2. Liệu rằng chênh lệch tham nhũng dương (từ nước đầu tư tham nhũng hơn
đến nước chủ nhà ít tham nhũng hơn) có ảnh hưởng đến dòng vốn FDI
luân chuyển giữa hai nước này hay không?
3. Ngược lại, chênh lệch tham nhũng âm (từ nước đầu tư tham nhũng ít hơn
đến nước chủ nhà) có ảnh hưởng đến dòng vốn FDI luân chuyển giữa hai
nước này hay không?
Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để xem xét
sự ảnh hưởng của tham nhũng và chênh lệch tham nhũng lên dòng vốn FDI. Dữ
liệu thu thập dạng bảng micro-panel-data với số năm xem xét rất ít so với số đơn
vị chéo. Quá trình xử lý hồi quy, tùy từng trường hợp và các lỗi vi phạm mơ hình
khác nhau chẳng hạn như hiện tượng phương sai thay đổi, hiện tượng tự tương
quan,…, tác giả sẽ sử dụng phương pháp hồi quy GLS có khắc phục hiện tượng
phương sai thay đổi và/hoặc hiện tượng tự tương quan nếu có.


3

Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là các nước trong khu vực Đông Nam Á, bao gồm 11
nước: Brunei, Indonesia, Campuchia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines,
Singapore, Thái Lan, Đông Timor và Việt Nam. Thời gian nghiên cứu từ năm
2003 đến năm 2015.
Đối tượng quan sát là các cặp quốc gia: nước đầu tư – nước chủ nhà. Dữ
liệu đầu tư FDI giữa các cặp quốc gia này được lấy từ số liệu đầu tư chéo giữa các
nước trên thế giới từ năm 2003 đến 2015 của Hiệp hội Liên Hiệp Quốc về
Thương Mại và Phát Triển (UNCTAD). Từ các quan sát này, tác giả thu thập các
dữ liệu khác: Chỉ số Nhận thức tham nhũng (Corruption Perceptions Index),
Chênh lệch tham nhũng, Chỉ số Phát triển con người (Human Development
Index), Chỉ số Luật pháp (Rule of Law), Chỉ số Quan liêu (Bureaucracy), Chỉ số

Tự do kinh tế (Economic Freedom), Chỉ số Trình độ học vấn (Education
Attainment), Chỉ số Lạm phát (Inflation), Chỉ số Phát triển hạ tầng
(Infrastructure), Chỉ số Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product), Chỉ
số Thất nghiệp (Unemployment rate).
Bố cục luận văn
Kết cấu của luận văn được trình bày như sau:
Chương 1: Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI. Khái niệm tham nhũng.
Định nghĩa chênh lệch tham nhũng và cách đo lường. Tổng quan cơ sở lý thuyết.
Trình bày mối quan hệ của tham nhũng, chênh lệch tham nhũng đối với dòng vốn
đầu tư FDI trong các nghiên cứu trước đây.
Chương 2: Trình bày tổng quan về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngồi FDI và
tình hình tham nhũng trên phạm vi thế giới, khu vực châu Á và khu vực Đông
Nam Á.
Chương 3: Trình bày về dữ liệu nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và mơ hình
nghiên cứu. Đồng thời, nêu các giả thuyết nghiên cứu và kỳ vọng dấu của các mơ
hình.


4

Chương 4: Trình bày về kết quả nghiên cứu và kết luận. Trong phần này, người
đọc sẽ nhận thấy sự tác động của tham nhũng và chênh lệch tham nhũng đến dòng
vốn FDI đầu tư vào các nước khu vực Đơng Nam Á. Từ đó, tác giả đưa ra một số
khuyến nghị của đề tài.


5

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT. MỐI QUAN HỆ CỦA THAM NHŨNG
VÀ FDI TRONG CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY

1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một hoạt động kinh doanh quốc tế dựa
trên cơ sở của quá trình dịch chuyển tư bản giữa các nước, chủ yếu do các pháp
nhân hoặc thể nhân thực hiện theo hình thức nhất định; trong đó chủ đầu tư tham
gia trực tiếp vào q trình điều hành, quản lý và sử dụng vốn đầu tư.
Theo Wikipedia: FDI là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay cơng ty
nước ngồi và nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân
hay cơng ty nước ngồi đó sẽ nắm quyền sản xuất kinh doanh cơ sở này.
Theo IMF: FDI là hình thức đầu tư ra khỏi biên giới nước, trong đó người
đầu tư trực tiếp đạt được một phần hay toàn bộ quyền sở hữu lâu dài một doanh
nghiệp ở một nước khác. Quyền sở hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phần
của doanh nghiệp.
Theo OECD (1996) cho rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài phản ánh mục tiêu
có được một lợi ích lâu dài của một thực thể thường trú trong một nền kinh tế
(chủ đầu tư trực tiếp) với một thực thể trong một nền kinh tế khác của các nhà đầu
tư (doanh nghiệp đầu tư trực tiếp). Các lợi ích lâu dài này ngụ ý sự tồn tại của một
mối quan hệ lâu dài giữa các nhà đầu tư trực tiếp, doanh nghiệp và một mức độ
đáng kể ảnh hưởng đến quản lý của doanh nghiệp. Đầu tư trực tiếp liên quan đến
cả giao dịch ban đầu giữa hai thực thể và tất cả các giao dịch vốn giữa họ và giữa
các doanh nghiệp trực thuộc, trong trường hợp cả hai đã hợp nhất hay vẫn chưa
hợp nhất.
Theo tổ chức thương mại thế giới WTO: “FDI xảy ra khi một nhà đầu tư từ
một nước (nước đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu
tư, hoặc nước chủ nhà) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là
thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp,
cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà họ quản lý ở nước ngồi là các cơng ty kinh doanh.


6


Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là "công ty mẹ" và
các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty".
Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987: “Đầu tư trực tiếp
nước ngoài là việc một tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam bằng tiền
nước ngồi hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp
tác kinh doanh trên cơ sở hợp dồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của Luật này”.
Tóm lại: FDI là một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài theo đó một tổ
chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một
doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác.
Đặc điểm của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi
Dunning (1993) đã chỉ ra có 3 nhân tố chính của dịng vốn FDI là dựa vào
động cơ sau sự đầu tư đó là sự trơng mong của các nhà đầu tư. Yếu tố thứ nhất
của dịng vốn FDI đó chính là tìm kiếm thị trường (market-seeking). Dòng vốn
FDI này chủ yếu hướng tới các thị trường trong nước và trong khu vực hay còn
gọi là dòng vốn FDI thay thế. Dòng vốn FDI thứ hai đó là dịng vốn tìm kiếm
nguồn lực (resource-seeking), dịng vốn này nhằm hướng đến tìm kiếm nguồn tài
nguyên thiên nhiên, nguồn lao động rẻ. Một dịng vốn nữa đó là tìm kiếm hiệu
quả (efficiency-seeking). Do đó, nguồn vốn FDI có những đặc điểm sau:
- Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn các nước. Helpman và Sibert,
Richard S.Eckaus cho rằng có sự khác nhau về năng suất cận biên (số có thêm
trong tổng số đầu ra mà một nhà sản xuất có được do dùng thêm một đơn vị của
yếu tố sản xuất) của vốn giữa các nước. Một nước thừa vốn thường có năng suất
cận biên thấp hơn, cịn một nước thiếu vốn thường có năng suất cận biên cao hơn.
Tình trạng này sẽ dẫn đến sự di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa sang nơi khan
hiếm nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Vì chi phí sản xuất của các nước thừa vốn
thường cao hơn các nước thiếu vốn. Tuy nhiên như vậy khơng có nghĩa là tất cả
những hoạt động nào có năng xuất cận biên cao mới được doanh nghiệp đầu tư



7

sản xuất mà cũng có những hoạt động quan trọng, là sống cịn của doanh nghiệp
thì họ vẫn tự sản xuất cho dù hoạt động đó cho năng suất cận biên thấp.
- Chu kỳ sản phẩm. Đối với hầu hết các doanh nghiệp tham gia kinh doanh
quốc tế thì chu kỳ sống của các sản phẩm này bao gồm 3 giai đoạn chủ yếu là:
giai đoạn sản phẩm mới; giai đoạn sản phẩm chín muồi và giai đoạn sản phẩm
chuẩn hóa. Akamtsu Kaname (1962) cho rằng sản phẩm mới, ban đầu được phát
minh và sản xuất ở nước đầu tư, sau đó mới được xuất khẩu ra thị trường nước
ngồi. Tại nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu trên thị
trường bản địa tăng lên, nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất để thay thế sản
phẩm nhập khẩu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thuật của người ngồi
(giai đoạn sản phẩm chín muồi). Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên
thị trường trong nước bão hòa, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện (giai đoạn chuẩn
hóa). Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và do đó dẫn đến sự hình thành FDI.
Raymond Vernon (1966) lại cho rằng khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai đoạn
chuẩn hóa trong chu kỳ phát triển của mình cũng là lúc thị trường sản phẩm này
có rất nhiều nhà cung cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên cạnh
tranh giữa các nhà cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và sau đó dẫn tới quyết
định cắt giảm chi phí sản xuất. Đây là lý do để các nhà cung cấp chuyển sản xuất
sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp hơn.
- Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia. Stephen H.Hymes (2960,
công bố năm 1976), John H.Dunning (1981), Rugman A. (1987) và một số người
cho rằng các công ty đa quốc gia có những lợi thế đặc thù (chẳng hạn năng lực cơ
bản) cho phép công ty vượt qua những trở ngại về chi phí ở nước ngồi nên họ
sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra người ngoài. Khi chọn địa điểm đầu tư, những công ty
đa quốc gia sẽ chọn nơi nào có các điều kiện cho phép họ phát huy các lợi thế đặc
thù nói trên. Những cơng ty đa quốc gia thường có lợi thế lớn về vốn và cơng
nghệ đầu tư ra các nước có sẵn nguồn nguyên liệu, giá nhân công rẻ và thường là
thị trường tiêu thụ tiềm năng. Nhưng đồng thời, môi trường đầu tư cũng phải đảm

bảo những tiêu chí nhất định để hoạt động của doanh nghiệp thành công.


8

- Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại. Đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài là một biện pháp để tránh xung đột thương mại song phương. Ví dụ, Nhật
Bản hay bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn do Nhật Bản có quan hệ thặng dư
thương mại còn các nước kia bị thâm hụt thương mại trong quan hệ song phương.
Để đối phó, Nhật Bản đã tăng cường đầu tư trực tiếp vào các thị trường đó. Họ
sản xuất và bán ơ tơ, máy tính ngay tại Mỹ và Châu Âu, để giảm xuất khẩu các
sản phẩm này từ Nhật Bản sang. Họ còn đầu tư trực tiếp vào các nước thứ ba, từ
đó xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ và Châu Âu.
- Khai thác chuyển giao công nghệ. Không phải FDI chỉ đi theo hướng từ
nước phát triển hơn sang nước kém phát triển hơn, chiều ngược lại thậm chí cịn
mạnh mẽ hơn nữa.
- Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên. Để có nguồn nghiên liệu thơ, nhiều
cơng ty đa quốc gia tìm các đầu tư vào những nước có nguồn tài nguyên phong
phú. Làn sóng đầu tư trực tiếp ra người ngồi của Nhật Bản và thập nhiên 1950 là
vì mục đích này. FDI của Trung Quốc hiện nay cũng có mục đích tương tự.
1.2 Khái niệm tham nhũng
Tham nhũng thường được định nghĩa theo nghĩa hẹp như là hành động lạm
dụng quyền hạn để chuộc lợi cho bản thân (Roy & Oliver, 2009). Định nghĩa này
bị bác bỏ trong các báo cáo đo lường về Chỉ số nhận thức tham nhũng của các
nước (Transparency International, 2010). Ví dụ như tham nhũng trong khu vực
công sẽ tác động phá hủy dần dần lên tính thống nhất trong tồn bộ hệ thống của
một nước: nó có thể làm giảm hiệu quả hoạt động, bóp méo chính sách cơng, làm
chậm q trình truyền dẫn thơng tin, tác động làm giảm thu nhập nhận được và
gia tăng tình trạng nghèo nàn của tồn bộ nước đó (Chen, Ding, & Kim, 2010).
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International) tham

nhũng là lợi dụng quyền hành để gây phiền hà, khó khăn và lấy của dân. Tham
ơ là hành vi lợi dụng quyền hành để lấy cắp của công. Tham nhũng và tham ô là
một hệ quả tất yếu của nền kinh tế kém phát triển, quản lý kinh tế - xã hội lỏng


9

lẻo, yếu kém tạo ra nhiều sơ hở cho các hành vi tiêu cực, hiện tượng tham nhũng
và các tệ nạn có điều kiện phát triển và tại đó một phần quyền lực chính trị được
biến thành quyền lực kinh tế. Tham nhũng và tham ô làm chậm sự phát triển kinh
tế-xã hội, làm giảm lịng tin của cơng dân vào nhà nước, đến chừng mực nào đó
nó gây mất ổn định chính trị, kinh tế - xã hội.
Theo tài liệu đào đạo của Thanh tra Chính Phủ Việt Nam tham nhũng được
hiểu là hành vi của bất kỳ người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao
nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ được giao
để vụ lợi.
Theo Từ điển Tiếng Việt, tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng
nhiễu nhân dân lấy của. Tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh
quốc tế chống tham nhũng (năm 1969) định nghĩa tham nhũng trong một phạm vi
hẹp, đó là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng...
Theo pháp luật Việt Nam quy định (tại Luật phòng, chống tham nhũng năm
2005), tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức
vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi. Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những
người làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị; nói
cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của
Nhà nước. Việc giới hạn như vậy nhằm tập trung đấu tranh chống những hành vi
tham nhũng ở khu vực xảy ra phổ biến nhất, chống có trọng tâm, trọng điểm,
thích hợp với việc áp dụng các biện pháp phịng, chống tham nhũng như: kê khai
tài sản, cơng khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, xử lý
trách nhiệm của người đứng đầu.

1.3 Khái niệm chênh lệch tham nhũng
Tham nhũng thường được hiểu là hành động lạm dụng quyền lực để trục
lợi cá nhân. Có rất nhiều nghiên cứu trước đây chỉ ra sự tác động của tham nhũng
đến sự lựa chọn của các công ty đa quốc gia khi quyết định đầu tư vào đất nước
nào. Các nghiên cứu thực nghiệm cũng đã cho thấy tác động ngược chiều giữa


10

tham nhũng và dịng vốn FDI đổ vào nước đó. Hai tác giả Habib M. & Zurawicki
L., trong nghiên cứu “Country-level investments and the effect of corruption Some empirical evidence” công bố năm 2001 đã thu thập dữ liệu của 111 nước
trên thế giới trong thời gian 5 năm từ 1994 đến 1998. Nghiên cứu này cũng chỉ ra
tham nhũng của một nước có tác động cản trở dịng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngồi FDI vào nước đó.
Tuy nhiên, hai tác giả khác là Peter Egger và Hannes Winner trong nghiên
cứu “Evidence on corruption as an incentive for foreign direct investment” cơng
bố trên tạp chí European Jounal of Political Economy năm 2005 thì lại chỉ ra kết
quả ngược lại. Trong nghiên cứu này, tác giả nghiên cứu thực nghiệm trên 73
nước phát triển cũng như đang phát triển, trong khoảng thời gian 5 năm từ 1995
đến 1999 đã công bố kết quả: có tương quan dương giữa tham nhũng và vốn đầu
tư FDI vào nước đó. Ngồi ra, cịn có nhiều tranh luận khác về tương quan của
tham nhũng và dòng vốn FDI.
Vào năm 2004, hai tác giả Eden L. & Miller S. công bố nghiên cứu
“Distance

matters:

Liability

of


foreignness,

institutional distance

and

ownership strategy” đề cập đến vấn đề đầu tư nước ngoài, trong đó, các cơng ty
đa quốc gia đầu tư vào nước chủ nhà sẽ bị ràng buộc bởi trách nhiệm của người
ngoại quốc (thuật ngữ của tác giả: liability of foreignness - LOF). Đồng thời,
Eden L. & Miller S. cũng đề cập đến khái niệm “institutional distance” (tạm dịch
là “khoảng cách thể chế”) để mô tả sự khác biệt về thể chế của hai nước. Từ khái
niệm này, tác giả Jose R.Godinez và Ling Liu năm 2014 công bố bài viết
“Corruption Distance and FDI flows into Latin America” trên tạp chí
International Business Review phát triển thêm khái niệm “Corruption Distance”
(tạm dịch là “chênh lệch tham nhũng”) để phân tích tác động đến dòng vốn FDI
đầu tư vào các nước Châu Mỹ Latin. Do đó, nghiên cứu này cũng kế thừa khái
niệm chênh lệch tham nhũng từ các tác giả đi trước, và ứng dụng vào nghiên cứu
ở các nước trong khu vực Đông Nam Á.


11

Định nghĩa
Chênh lệch tham nhũng là sự khác biệt về tham nhũng giữa hai nước.
Trong quá trình phát triển và hoạt động kinh tế, mỗi nước đã tự hình thành
nên những nét đặc trưng riêng cho môi trường kinh doanh ở đất nước mình.
Chẳng hạn như tham nhũng, các cơng ty trong nước đã làm quen và thích nghi
với tình trạng tham nhũng trong nước. Thậm chí, các cơng ty đã hình thành nên
những hành vi và chiến lược kinh doanh tương ứng với tình trạng tham nhũng

trong nước. Tuy tham nhũng tăng thêm chi phí ngồi sổ sách đối với doanh
nghiệp nhưng nó cũng là chất bơi trơn cho các giao dịch, Meon & Weill (2010).
Vấn đề là khi một công ty đa quốc gia đến từ nước đầu tư và bỏ vốn FDI vào một
nước chủ nhà nào đó. Mơi trường kinh doanh khác biệt, tình trạng tham nhũng
khác biệt liệu có ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của công ty này. Khái niệm
chênh lệch tham nhũng đã được đưa ra vì những lý do sau:
Thứ nhất, sự khác biệt về thể chế mới chính là nguyên nhân tác động đến
quyết định lựa chọn nước đầu tư của công ty đa quốc gia. Nhưng chúng ta không
thể xây dựng một mơ hình phức tạp để đánh giá nét đặc trưng riêng của từng nước
và sau đó so sánh giữa các nước này với nước khác được. Thay vào đó, chúng ta
sử dụng khái niệm chênh lệch tham nhũng, như là một tập hợp con của tập hợp
khác biệt thể chế giữa hai nước, Jose R.Godinez và Ling Liu (2014). Thơng
thường, khi có một giao dịch giữa khu vực tư và khu vực công, tham nhũng
thường là áp lực của khu vực công đối với khu vực tư (Habib và Zurawicki,
2002). Do đó, khi khảo sát mức độ tham nhũng của một quốc gia thì cũng đồng
nghĩa với việc thu thập nhận định của khu vực tư (các doanh nhân, nhà đầu tư
nước ngoài, …) về vấn đề tham nhũng của khu vực cơng (Transparency
International, 2010). Có thể nói, tham nhũng gắn liền với khu vực cơng nhiều hơn
là khu vực tư. Cho nên, chênh lệch tham nhũng thể hiện được phần nào khoảng
cách về thể chế giữa hai nước.
Thứ hai, có sự khác biệt trong hành vi đầu tư FDI từ một nước rất tham
nhũng đến một nước ít tham nhũng hơn so với hành vi đầu tư từ một nước ít tham


12

nhũng đến một nước tham nhũng nhiều hơn (Habib & Zurawicki, 2001). Các
công ty đa quốc gia đến từ nước tham nhũng cao đã có kinh nghiệm trong việc
đối phó với tham nhũng, thậm chí họ đã phát triển hành vi hối lộ và các mánh
khóe khác để khai thác yếu tố tham nhũng như là một chất bôi trơn cho hoạt động

kinh doanh. So với các công ty khác, đây là một lợi thế và họ sẽ tận dụng kiến
thức về tham nhũng này khi hoạt động ở các nước chủ nhà ít tham hơn. Ngược
lại, các cơng ty đa quốc gia đến từ các nước tham nhũng thấp (thường là các nước
đã phát triển) thì khá nghiêm khắc đối với vấn đề tham nhũng, họ xem đây là rào
cản đối với việc đầu tư của mình. (Godinez & Liu, 2014). Do đó, có 2 nhóm với 2
hành vi đầu tư FDI khác nhau: (1) nhóm chênh lệch tham nhũng dương: là các
cặp quốc gia mà nước đầu tư tham nhũng hơn so với nước chủ nhà; và (2) nhóm
chênh lệch tham nhũng âm: là các cặp quốc gia mà nước đầu tư ít tham nhũng
hơn so với nước chủ nhà.
Đo lường
Tham nhũng được đo lường bằng chỉ số nhận thức tham nhũng (CPI) được
tổ chức Minh Bạch Thế Giới cơng bố hàng năm. Chỉ số CPI được tính dựa trên số
liệu từ nhiều tổ chức khác nhau trên thế giới, chẳng hạn như: Chỉ số quản trị bền
vững (Sustainable Governance Indicator) của Quỹ Bertelsmann, niên giám cạnh
tranh thế giới của Viện phát triển quản lý (International Institute for Management
Development), chỉ số hiệu suất quốc gia và đánh giá thể chế (Country
Performance and Institutional Assessment) của Ngân hàng thế giới,… Các chỉ số
phải đảm bảo những nguyên tắc do tổ chức Minh Bạch Thế Giới đưa ra và giám
sát. Thang đo là số điểm từ 0 đến 100 (trước năm 2010, thì thang đo từ điểm 0
đến điểm 10 nhưng khơng q khó để chúng ta tự quy về thống nhất thang đo 100
điểm). Với điểm 100 là nước đó khơng tham nhũng, tình hình kinh tế vơ cùng
trong sạch và lành mạnh. Các nước càng tham nhũng thì càng có chỉ số nhận thức
tham nhũng thấp và ngược lại. Dựa vào chỉ số nhận thức tham nhũng này, chúng


13

ta có thể định lượng được mức độ tham nhũng của một nước và tương quan tham
nhũng giữa hai nước bất kỳ.
Vấn đề thứ nhất, chênh lệch tham nhũng là sự khác biệt về tham nhũng của

hai nước nên có thể sử dụng hiệu của hai chỉ số nhận thức tham nhũng để làm giá
trị. Chẳng hạn: 3 nước A, B và C có tình trạng tham nhũng khác nhau: A tham
nhũng nhất và C ít tham nhũng nhất. Theo suy luận, chúng ta cũng có thể nhận
định được chênh lệch tham nhũng giữa nước A và nước C phải lớn hơn chênh
lệch tham nhũng giữa nước B và nước C. Về mặt đo lường, hiệu hai chỉ số nhận
thức tham nhũng đúng như suy luận bên trên. Chỉ số nhận thức tham nhũng của 3
nước sẽ xếp theo tứ tự CPIA < CPIB < CPIC. Do đó, chênh lệch tham nhũng giữa
nước A và nước C (đo lường bằng: CPIC – CPIA) sẽ lớn hơn chênh lệch tham
nhũng giữa nước B và nước C (đo lường bằng: CPIC – CPIB). Điều này là đúng.
Vấn đề thứ hai, vì là hiệu của hai chỉ số nhận thức tham nhũng giao động
từ 0 đến 100, nên chênh lệch tham nhũng có giá trị trong khoảng từ -100 đến 100.
Điều này không có ý nghĩa trong nghiên cứu vì nước A tham nhũng nhiều hơn
nước B thì cũng tương đương với nước B tham nhũng ít hơn nước A. Nên chỉ cần
một kết quả đo giữa hai nước là đủ, không cần phải lặp lại 2 lần một công việc
đồng thời nới rộng biên độ thang đo lên gấp 2 lần. Do đó, bài nghiên cứu đề xuất
chỉ sử dụng thang đo từ 0 đến 100, thống nhất cho cả tham nhũng và chênh lệch
tham nhũng. Do đó, chênh lệch tham nhũng sẽ được đo bằng giá trị tuyệt đối hiệu
hai chỉ số nhận thức tham nhũng, chia hai nhóm như sau:
-

Nhóm 1: Chênh lệch tham nhũng dương. Thể hiện trường hợp các nước
đầu tư tham nhũng hơn nước chủ nhà, theo Jose R.Godinez và Ling Liu
(2014). Về mặt đo lường, các nước đầu tư có chỉ số CPI thấp hơn hơn
các nước chủ nhà. Do đó, chênh lệch tham nhũng nhóm 1 được đo
lường bằng cách lấy chỉ số CPI nước chủ nhà trừ đi chỉ số CPI nước
đầu tư. Đối với các nước trong khu vực Đơng Nam Á có hiện trạng
tham nhũng cao, chỉ số CPI thấp (trừ Singapore) nên số quan sát được
trong này sẽ khá ít so với Nhóm 2.



14

-

Nhóm 2: Ngược lại, chênh lệch tham nhũng âm. Thể hiện trường hợp
các nước đầu tư ít tham nhũng hơn nước chủ nhà, theo Jose R.Godinez
và Ling Liu (2014). Về mặt đo lường, chênh lệch tham nhũng nhóm 2
được đo bằng cách lấy chỉ số nhận thức tham nhũng CPI nước đầu tư
trừ đi chỉ số nhận thức tham nhũng CPI nước chủ nhà. Số quan sát
thuộc nhóm này ở khu vực Đông Nam Á khá nhiều, chiếm phần lớn
trên các quan sát thu thập được.

1.4 Tổng quan lý thuyết
1.4.1 Lý thuyết chi phí giao dịch
Lý thuyết chi phí giao dịch (Transaction Cost Economics) của doanh nghiệp
được Ronald Harry Coase đưa ra lần đầu tiên trong bài báo với nhan đề “Bản chất
của các doanh nghiệp (Nature of Firms)” vào năm 1937 và được O.E. Williamson
cùng những người khác tiếp tục phát triển cho đến nay. Mục đích chính của lý
thuyết là giải thích mức độ hội nhập hàng dọc tối ưu; nghĩa là giải thích lý do tại
sao một số hoạt động được đưa vào trong nội bộ doanh nghiệp và tại sao một số
hoạt động được để lại bên ngoài thị trường. Yếu tố phân biệt là mức chi phí giao
dịch.
Những bài nghiên cứu về FDI nhìn chung tập trung vào hiệu quả dựa trên
việc phân tích chi phí giao dịch. Lý thuyết chi phí giao dịch sử dụng những giao
dịch như là đơn vị phân tích cơ bản. Theo Lý thuyết chi phí giao dịch của
Williamson, một giao dịch “xảy ra khi một hàng hóa hoặc dịch vụ được chuyển
giao qua một hàng rào phân tách kỹ thuật”. Do đó, các hoạt động kinh tế thì được
hiểu như là số hạng chi phí giao dịch. Theo hướng này, Lý thuyết chi phí giao
dịch sẽ quan tâm đến những chi phí hội nhập so với chi phí bỏ ra để mở rộng thị
trường quốc tế của các công ty.



15

1.4.2 Mơ hình OLI của Dunning
Dựa trên Lý thuyết chi phí giao dịch, Dunning đã phát triển mơ hình
Ownership–Location–Internalisation của ông bằng cách gộp các tiền đề của Lý
thuyết chi phí giao dịch để phân tích những hoạt động FDI. Mơ hình OLI chứng
minh rằng hoạt động quốc tế của công ty được xác định bởi ba nhân tố: lợi thế về
mặt sở hữu (O), lợi thế về mặt địa lý (L), lợi thế về mặt nội tại hóa (I). Tiền đề
chính của mơ hình này là các Cơng ty đa quốc gia sẽ tận dụng tối đa lợi thế về
mặt sở hữu là O tại chính quốc và sau đó sẽ chuyển những lợi thế này của họ đến
thị trường nước ngồi mà ở đó họ có thể khai thác triệt để lợi thế này (dựa trên lợi
thế về L) thông qua FDI, điều này cho phép công ty đa quốc gia chủ động những
lợi thế về O.
Mơ hình OLI bao gồm nhiều biến kinh tế và xã hội; đặc biệt, chi phí kinh tế
do khoảng cách địa lý gây ra, bao gồm cả phí vận chuyển và thuế, và chi phí xã
hội phát sinh từ sự khơng quen biết, rủi ro quan hệ và phân biệt đối xử mà các
cơng ty nước ngồi phải đối mặt ở nước chủ nhà. Các chi phí kinh tế liên quan đã
được giảm với sự phát triển công nghệ thông tin hiện đại và tồn cầu hóa. Tuy
nhiên, tính chất xã hội của các chi phí đã được nhấn mạnh trong các nghiên cứu
liên quan đến nghĩa vụ của nước ngoài. Rủi ro liên quan đến nghĩa vụ của nước
ngoài được xem xét qua lăng kính của lý thuyết định chế, sử dụng các khái niệm
cụ thể của khoảng cách định chế.
Công ty đa quốc gia có thể thận trọng khi lựa chọn nước sở tại để họ mở chi
nhánh nước ngoài do tính bất ổn lớn hơn và những trở ngại, bao gồm cả những
bất lợi tiềm năng về chi phí của sự không chắc chắn (đặt những công ty đa quốc
vào thế bất lợi tài chính so với các cơng ty địa phương). Lợi thế sở hữu ở một vài
nước sở tại nhất định cho phép Công ty đa quốc gia giải quyết được vấn đề nghĩa
vụ của người ngoại quốc và kẻ mới gia nhập; đặc biệt, đặc thù của tài sản. Tính

đặc thù này của tài sản là một phần quan trọng lợi thế sở hữu mà công ty đa quốc
thích trong khi các cơng ty địa phương thì lại khơng. Lợi thế này, hơn nữa, có thể
khai thác rộng hơn để bù đắp cho những bất lợi của họ. Lợi thế sở hữu trong


16

phạm vi địa phương như là lợi thế mà một cơng ty đa quốc chỉ có thể khai thác ở
một địa phương cụ thể hoặc một số khu vực không thể được chuyển giao một
cách dễ dàng và có thể thích nghi đáng kể là điều kiện cần nếu một công ty đa
quốc muốn dùng chúng ở một khu vực khác.
Phân tích qua lăng kính Lý thuyết chi phí giao dịch, tham nhũng ở nước sở
tại có thể được xem như một chi phí / lợi ích mà sẽ ngăn cản nhà đầu tư nước
ngồi nếu các chi phí vượt q những lợi ích. Điều này có thể cho thấy trong khi
một số cơng ty khơng phải đối phó với tham nhũng ở nước có trụ sở chính có thể
là một bất lợi khi hoạt động ở nước ngồi có tham nhũng cao và có thể khơng
đảm bảo cho những công ty làm quen được với điều hành ở nước có cao tham
nhũng. Các cơng ty đa quốc gia có những kinh nghiệm trong môi trường tham
nhũng ở nước nhà có thể được hỗ trợ bởi lợi thế khơng phụ thuộc địa lý của họ và
sẵn sàng đầu tư vào nước tương tự. Vì vậy, khi phân tích tham nhũng ảnh hưởng
đến FDI như thế nào, điều quan trọng là phải biết nếu chiến lược đối phó với
tham nhũng có thể được mua bởi một số công ty và tái triển khai ở nước ngồi mà
khơng phải chịu chi phí cao.
Một yếu tố quan trọng trong mơ hình OLI của Dunning là nội địa hóa 'L' lợi
thế ở nước nhà. Cơng ty đa quốc gia đặt hoạt động nước ngồi nơi các chi phí
hoạt động có thể được giảm trong khi cơng ty quốc tế hóa các hoạt động tại ở
nước ngồi để giảm chi phí bắt nguồn từ rủi ro và tính khơng chắc chắn. Tuy
nhiên, các chỉ trích của Dunning lập luận rằng phần L của mơ hình đã quá tập
trung vào một địa điểm nước ngoài thuộc tính vật lý và khơng như vị trí của sắp
xếp thể chế. Thừa nhận sự thiếu sót của nội dung định chế trong mơ hình,

Dunning (1998) tăng cường khía cạnh vị trí bằng cách thêm vào rủi ro chính trị,
các chính sách, các quy định, khác biệt văn hóa và tỷ giá hối đối. Cơng ty đa
quốc gia dự trước FDI phải tính đến đặc điểm định chế ở nước sở tại, đặc biệt là
khi phân tích các nền kinh tế đang phát triển, bao gồm chất lượng của các thể chế
và sự tồn tại của tham nhũng.


17

1.5 Mối quan hệ giữa tham nhũng, chênh lệch tham nhũng và FDI trong
các nghiên cứu trước đây
Tham nhũng là một phần quan trọng trọng thể chế của một quốc gia. Khơng
có quốc gia nào hồn tồn khơng có tham nhũng (đạt 100 điểm chỉ số nhận thức
tham nhũng), cũng khơng có quốc gia nào đạt 0 điểm chỉ số nhận thức tham
nhũng. Hiện nay có rất nhiều lý thuyết và bài báo của các nhóm tác giả khác nhau
nghiên cứu về các nhân tố tác động đến FDI cũng như của riêng yếu tố tham
nhũng tác động đến FDI. Trong đó, có các lý thuyết và nghiên cứu tiêu biểu được
liệt kê như sau.
Nghiên cứu “Determinantes of FDI flows to developing countries: a crosssectional analysis” của Erdal Demirhan, Mahmut Masca năm 2008. Tác giả đã
nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến dòng vốn FDI bằng phương pháp sử dụng
dữ liệu chéo (cross-sectional econometric model). Giai đoạn nghiên cứu 20002004 cho 38 nước đang phát triển. Trong đó, tác giả hồi quy với các biến FDI là
biến phụ thuộc, các biến độc lập như: tốc độ tăng trưởng bình quân đầu người, tỷ
lệ lạm phát, mạng lưới di động, chi phí lao động, độ mở thương mại, mức độ rủi
ro và tỷ lệ thuế doanh nghiệp. Trong đó, với quy mô thị trường, tác giả sử dụng
biến tốc độ tăng trưởng GDP bình qn đầu người thì quy mơ thị trường có ý
nghĩa thống kế, trong khi đó dùng GDP bình qn đầu người thì khơng có ý nghĩa
thống kê. Từ các kết quả hồi quy đạt được, tác giả khẳng định các nhà đầu tư
nước ngoài hướng đến nền kinh tế tạo lợi nhuận và tăng trưởng hơn là các nền
kinh tế nhỏ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tốc độ tăng trưởng bình quân đầu người, mạng

lưới di động, độ mở cửa thương mại, độ ổn định của nền kinh tế có tác động tích
cực đến thu hút dòng vốn FDI. Ngược lại: tỷ lệ lạm phát và thuế ít có tác động
đến dịng vốn FDI hơn. Nhiều nhà nghiên cứu khác cho rằng mức thuế suất cao sẽ
ảnh hưởng đến việc đầu tư ra nước ngoài của chủ đầu tư vì họ phải trả một mức
thuế suất cao làm giảm lợi nhuận, kết quả của bài nghiên cứu lại cho thấy thuế


×