Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Cẩm nang nuôi tôm sú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.1 MB, 63 trang )

Sách hướng dẫn kỹ thuật nuôi tôm cho bà con
nuôi tôm sú khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Nhà xuất bản Nông nghiệp 2008

Tiến só Đòan Văn Đẩu
Tiếân só Nguyễn Văn Hảo
Tiến só Julio Macias Egas
CẨM NANG NUÔI TÔM SÚ

CÔNG TY TNHH TÒAN CẦU
(100% VỐN ĐÀI LOAN)
TRẠI SẢN XUẤT TÔM GIỐNG
ĐÀI LOAN SẠCH BỆNH
Sản xuất tôm giống sạch bệnh Đốm trắng,
Đầu vàng, Còi…theo tiêu chuẩn của Bộ Thủy sản.
Cung cấp sách kỹ thuật
Tư vấn kỹ thuật đầu bờ cho bà con ngư dân.
Đòa chỉ: Ấp Giồng Nhãn, xã Hiệp Thành, thò xã Bạc Liêu
Điện thọai: 0781 836 191.
Fax: 0781 836 191


CAÅM NANG NUOÂI TOÂM SUÙ
Mới 5/12 CẨM NANG NUÔI TÔM
LỜI GIỚI THIỆU
của Cty Toàn Cầu, INVE Group
Để nuôi tôm thắng lợi, đạt hiệu quả cao, ngoài yếu tố ban đầu là phải chọn con
giống thật tốt, sạch bệnh; sử dụng loại thức ăn chất lượng cao, thì việc chuẩn bò, cải tạo
ao và quản lý môi trường, bệng dòch trong quá trình nuôi tôm là những việc hết sức
quan trọng. Để giúp bà con nuôi tôm vùng Đồng bằng Sông Cưủ Long nuôi tôm đạt
hiệu quả, công ty Toàn Cầu, INVE Việt Nam xin trân trọng giới thiệu cuốn Cẩm nang


nuôi tôm của các tiến só: Đoàn văn Đẩu, chuyên gia nuôi tôm, đồng giải thưởng Nhà
nước về khoa học và công nghệ sản xuất giống tôm biển (2000), đã nghiên cứu tôm
biển từ năm 1973 đến nay, Tiến só Nguyễn văn Hảo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu nuôi
trồng Thủy sản II, Bộ Thủy Sản, người đã có rất nhiều công trình về nuôi tôm công
nghiệp vàbệnh tôm ở Đồng bằng sông Cửu Long, Tiến só. Julio Macias Egas chuyên gia
INVE group tại Việt Nam, chuyên gia về các chế phẩm sinh học và môi trường nuôi
tôm. INVE group cũng đã gửi cho các tác giả những nghiên cứu mới nhất về quản lý
môi trường, sử dụng hợp lý một số loại phân bón vừa có tính năng gây màu nước vừa có
tác dụng kiểm soát khí độc trong ao với những so sánh hiệu quả kỹ thuật, kinh tế hết
sức thuyết phục của các chuyên gia hàng đầu thế giới: tiến só, Patrick Lavens ( Đại học
Gent, Bỉ), giáo sư, tiến só Claude. Boyd (Đại học Auburn, Mỹ);
Đặc biệt trong cuốn cẩm nang này, các tác giả đã trình bày một cách ngắn gọn,
đầy đủ và dễ hiểu những khái niệm thông thường trong nghể nuôi tôm, kinh nghiệm
nuôi tôm của bản thân, của bà con nuôi tôm vùng đồng bằng sông Cửu Long kết hợp
với những thông tin mới nhất về nghề nuôi tôm.
Nhân dòp phát hành cuốn sách nhỏ này, chúng tôi xin bày tỏ lòng cám ơn tới
các tác giả, các cơ quan khuyến ngư các tỉnh đã ủng hộ tinh thần và vật chất cho cuốn
sách naỳ. Ngoài việc tham khảo cuốn sách này, nếu có những vấn đề cần trao đổi, Bà
con nuôi tôm có thể trao đổi trực tiếp hoặc gọi điện thoại đến công ty Toàn Cầu, chúng
tôi sẽ tổ chức những buổi trao đổi kinh nghiệm nuôi tôm với bà con ngay tại các xã, ấp
nơi bà con đang nuôi tôm.
Kính chúc bà con nuôi tôm mùa mùa bội thu.
TGĐ Công ty Toàn Cầu.
Hu Chia Yiang.



CẨM NANG NUÔI TÔM.

CHƯƠNG I:


MỞ ĐẦU
Ngày xưa, khi trồng lúa, Ông cha ta thường nói: Nhất NƯỚC, nhì PHÂN, tam CẦN, tứ
GIỐNG. Trong nghề nuôi tôm yếu tố NƯỚC và CẦN chính là việc QUẢN LÝ MÔI
TRƯỜNG NƯỚC và PHÒNG BỆNH. Ngoài việc chọn được con GIỐNG TỐT SẠCH
BỆNH, thì việc quyết đònh sự thành công của bà con nuôi tôm chính là quản lý môi
trường nuôi và phòng trừ dòch bệnh cho tôm.
Do vậy, trước hết, chúng tôi sẽ giới thiệu một số vấn đề về môi trường và bệnh tôm
thường gặp, đặc biệt là bệnh tôm ở Đồng bằng sông Cửu Long, trên cơ sở này bà con
sẽ xây dựng hệ thống ao, mương máng và cải tạo ao, lấy nước, gây màu, cho tôm ăn và
chăm sóc tôm đúng kỹ thuật , nuôi tôm đạt hiệu quả.
1.1. Tìm hiểu về con tôm:
Tôm sú thuộc giống tôm Penaeus và được các nhà khoa học đặt tên là Penaeus
monodon, Tên tiếng Anh là Tiger shrimp (tôm hổ, tôm có vằn giống con hổ). Tôm thuộc
bộ 10 chân vì chúng có 5 chân bò và 5 chân bơi. Tôm thuộc lớp giáp xác, nghóa là
chúng phải lột xác để lớn, tôm lột xác có tính chu kỳ: Trong một vòng đời, tôm tích luỹ
các chất cần thiết cho cơ thể, và lột xác dưới sự diều tiết của các chất nội tiết
(hormone), lúc này tôm cơ thể hấp thu nước rất nhanh và hình thành vỏ mới lớn hơn vỏ
cũ. sau đó vỏ cứng lại rất nhanh. Khi con cái vừa lột xác xong, vỏ còn mềm thì con đực
đến, dùng phần phụ ở chân bơi thứ nhất trao tinh cho con cái. Tôm cái giữ các bó tinh
trong thelycum (hình 2 hạt đậu) ở trước ngực. Tôm mẹ “vượt cạn một mình”, chúng đẻ
trứng vào nước biển và tự phun tinh vào trứng. Dạ dày tôm nằm trong và trên khoang
giáp đầu ngực. Tôm ăn no có thể nhìn thấy ruột chạy từ dạ dày xuống tận đuôi. Buồng
trứng tôm phát triển có màu xanh đậm lan khắp phần trên giáp đầu ngực, phình to ở đốt
bụng thứ nhất và kéo xuống đuôi

H1: Giải phẫu nội quan tôm sú (nhìn nghiêng), theo Viphavet.
Tôm có chủy với nhiều gai, râu dài rất đẹp, đuôi gồm 1 kiếm hậu (telson nhọn) và 2 đôi
“quạt ba tiêu” (uropod- ) rất oai vệ, vì vậy một nhà thơ đời nhà Trần đã có một bài thơ
châm biếm mượn hình ảnh họ tôm, để châm biếm những tên quan lại, hào lý và bọn

nhà giầu, bất tài, nhưng lại thích khoe mẽ, hợm đời…như sau:
Chẳng phải vương công, chẳng phải hầu,
Cũng đòi đái kiếm, lại mang râu,
Khoe đôi mắt đỏ trong dòng bích,
Chẳng biết mình va cứt lộn đầu!

Kể cũng oan cho con tôm! Nhưng đúng là tôm có chủy, có kiếm, có râu , có đuôi qúa
đẹp, chỉ ”tiếc “ là nhà thơ đã nói quá đúng về đường tiêu hoá, về “đường con cái” của
con tôm: các bộ phận nhạy cảm này lại nằm ngay trên đầu, trên lưng tôm!
Hình 2: Vòng đời lưu lạc ba chìm bảy nổi của mẹ con nhà tôm sú
(Theo V.A De graindorge và T.W. Flegel 1999. T.T V. Ngân 2002)
Trứng
Ấu trùng
Tôm con
Tôm post
Biển khơi
Ven bờ
Tôm mẹ
Và có phải vì lỗi lầm này hay không mà khi “mãn nguyệt, khai hoa”, tôm mẹ
phải vượt hàng chục, hàng trăm hải lý ra tận biển khơi mới dám đẻ trứng, và ấu trùng
tôm đã phải “ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh” phải lột xác 25 – 30 lần và hơn thế
nữa: phải lột xác qua 6 giai đoạn Naupli, 3 giai đoạn Zoea, 3 giai đoạn Mysis, và nhiều
giai đoạn Post larvae mới trở thành tôm con, quay trở lại đi vào vùng cửa sông, ven
biển, rừng sát nơi mà bố mẹ chúng đã sống trước đó. Kiếp luân hồi của tôm, cứ thế tiếp
diễn từ thế hệ này sang thế hệ sau…
1.2. Thế nào là giống tốt, giống sạch bệnh?
Các trại tôm giống thường bán tôm giống cho bà con nuôi tôm khi tôm giống ở giai
đoạn Post – larvae
12 – 15
mà bà con thường gọi là pốt

12 – 15
(pốt 12 – 15 ngày tuổi). Tôm
giống tốt, sạch bệnh là tôm đồng đều về kích thứớc, khoẻ mạnh, không có ký sinh,
nấm, vi khuẩn và virus.
1.3. Môi trường ao nuôi tôm là gì?
Môi trường ao bao gồm ao, nước, các chất vô cơ, hữu cơ, các loại tảo, thực vật, động
vật, các loại vi sinh vật có lợi, có hại kể cả các loại virus (siêu vi khuẩn) trong ao nuôi
1.4. Khái niệm về Bệnh tôm.
Bệnh tôm bao gồm nhiều loại, gây tổn thương hoặc tử vong cho tôm mà tác nhân gây
bệnh là nguyên sinh động vật, ký sinh trùng, nấm, tảo, một số vi khuẩn có hại, và virus.
Thiếu dinh dưỡng, thay đổi môi trường, gây sốc cho tôm cũng là những nguyên nhân
gây bệnh cho tôm.
1.5. Mối quan hệ giữa tôm nuôi trong ao với môi trường nước và bệnh tôm như thế
nào?
Trong một ao nuôi đã chuẩn bò tốt, đã sử lý nước cẩn thận thì coi như các nguy
cơ do môi trường gây bất lợi cho tôm không có. Để dễ hiểu, trong hình vẽ dưới đây,
chúng ta hãy vẽ các yếu tố môi trường bất lợi cho tôm bằng một vòng tròn màu xám.
Những ngày đầu mới nuôi tôm, vòng tròn này chưa có hoặc rất nhỏ. Cũng vậy, nếu xử
lý ao tốt, chọn giống sạch bệnh thì tất cả mầm bệnh đều bò tiêu diệt hết. Chúng ta vẽ
các yếu tố mầm bệnh này bằng 1 vòng tròn màu đỏ. Những ngày đầu mới nuôi tôm,
vòng tròn này rất nhỏ hoặc không có. Tôm thả nuôi trong ao được vẽ bằng một vòng
tròn màu vàng. Theo thời gian, tôm càng lớn, vòng tròn vàng càng to.
Nhưng nếu quản lý nước trong ao không tốt thì môi trường trở nên xấu đi, vòng tròn
xám xuất hiện và lớn dần, bệnh tôm cũng xuất hiện theo, vòng tròn đỏû xuất hiện và lớn
dần. Hai vòng tròn xám và đỏ này càng lớn càng lấn vào nhau và lấn vào vòng tròn
vàng; và thế là cả môi trường xấu, cả mầm bệnh sẽ làm tôm nhiễm bệnh. Phần chồng
lấn giữa 3 vòng tròn vàng, xanh đỏ càng lớn thì khả năng tôm bò nhiễm bệnh càng
nhiều mà thủ phạm chính là môi trường xấu kéo theo các mầm bệnh phát triển mà
thành bệnh. Nếu không xử lý kòp thời,vòng tròn đỏ (bệnh) sẽ trùm hết vòng tròn vàng
(tôm) và thế là tôm chết 100%.

Có thể hình dung 3 vòng tròn vàng, xám, đỏ trong ao nuôi tôm thay đổi theo thời gian
nuôi như sau:
CHƯƠNG II.
Hình3A1: Ao vừa thả tôm,
môi trường còn sạch, không
có mầm bệnh, nên trên sơ
đồ này không cóõ vòng tròn
xám và đỏ mà chỉ có vòng
tròn vàng
Hình 3B: Ao nuôi tôm sau vài
tuần, do quản lý không tốt,
môi trường xấu đi, bệnh tôm
xuất hiện ngày càng nhiều,
vòng tròn xám (môi trường) và
đỏ (bệnh tôm) xuất hiện, và sẽ
lớn dần nếu không được điều
chỉnh, xử lý
Hình 3 C: Ao nuôi tôm sau
vài tháng, do quản lý kémt,
môi trường trở nên rất xấu,
bệnh phát triển mạnh, vòng
tròn xám và đỏ lớn nhanh,
lấn vào vòng tròn vàng,
vùng chồng lấn giữa 3 vòng
tròn càng lớn, tôm càng dễ
nhiễm bệnh, chết.
CHƯƠNG II
NHỮNG CHỈ TIÊU MÔI TRƯỜNG CẦN QUAN TÂM TRONG AO NUÔI TÔM:
2.1. Các chỉ tiêu thủy lý hoá tối ưu trong ao nuôi tôm
Để nuôi tôm bội thu, nước trong ao nuôi tôm cần thoả mãn các yếu tố sau:

Yếu tố: Biên độ thích hợp Ghi chú
Độ mặn (phần ngàn %o) 15 -25 Dao động không quá 5
Nhiệt độ( T
0
C) 28 - 32 Dao động ngày đêm không quá 5
Độ pH (độ chua) 7,5 – 8,5 Dao động ngày đêm không quá 0,5
Độ kiềm (phần triệu-viết tắt
là ppm)
80-100
100-130
130-150-200
Nếu thấp hoặc cao quá sẽ ảnh hưởng đến pH
Khi mới thả tôm
Khi tôm 45 ngày tuổi
Khi tôm trên 45 ngày tuổi
Độ cứng của nước (ppm) 150-300
Oxy hoà tan (ppm) 5 – 6
Không được ở mức dưới 4 ppm
Độ trong của nước ( cm) 30 - 40
Amonia (NH
3
) (ppm) Nhỏ hơn 0,1
Tính độc sẽ tăng khi pH và nhiệt độ nước tăng
Khí trứng thối H
2
S (ppm) Nhỏ hơn 0,03
Tính độc sẽ gia tăng nếu pH thấp
Khí SulfurSO
2
(ppm) Nhỏ hơn 0,02

Tnh độc sẽ gia tăng khi thiếu khí oxy
Thuốc trừ sâu Không có
Tổng số vi khuẩn có hại:
E.coli và Vibrio
Không có
Vi khuẩn gây bệnh cho tôm
Tổng số vi khuẩn hiếu khí
Trên 1000 CFU/ml
Vi khuẩn giúp làm sạch môi trường nước và
đáy ao nuôi tôm
Tổng số vi khuẩn yếm khí
Trên 1000 CFU/ml
Vi khuẩn giúp làm sạch môi trường nước và
đáy ao nuôi tôm
Ghi chú:
1 ppm là một phần triệu =1kg/1000 m
3
= 1000 mg/1000m
3
= 1 mg/1 lít
1 ppt là một phần ngàn (có thể viết tắt là %o) =1kg/1 m
3
=1000 g/1000 lít =1g/1 lít.
CFU: Số đơn vò khuẩn lạc trong 1 ml (ký hiệu là CFU/ml)
2.1.1. Độ mặn.
Độ mặn dùng để chỉ số lượng muối (chủ yếu là muối ăn NaCl) trong nước.
Để cho tôm lớn nhanh, cố gắng nuôi tôm trong chính vụ, tạo cho nước trong ao nuôi có
độ mặn từ 15 đến 25 %o Nếu nuôi tôm trong nước có độ mặn thấp quá tôm sẽ chậm
lớn, vỏ mềm và khó lột vỏ, Nếu phải nuôi tôm trong các ao có độ mặn thấp, có thể sử
dụng thêm các loại hoá chất có calci như Marine calcium (calline)… Nếu trong ao nuôi

độ mặn quá cao, bà con có thể sử dụng nước ngọt để pha loãng nhưng phải sử lý phèn,
kim lọai nặng trước khi đưa vào ao nuôi.
2.1.2. Nhiệt độ
Nhiệt độ nước thích hợp trong ao nuôi tôm sú là 28 – 32
o
C. Khi nhiệt độ nước thâp hơn
hoặc cao hơn giới hạn trên thì tôm kém ăn và môi trường nước sẽ thay đổi theo chiều
hướng xấu đi.
Ao có mực nước sâu trên 1, 2 m thì nhiệt độ trong ao ít bò biến động theo ngày đêm.
2.1.3.Độ pH:
pH là đôï phèn, độ chua của đất, của nước, là hàm lượng của ion hydro (H
+
)

có trong
môi trường. Sự biến động và tăng giảm của khí CO
2
là nguyên nhân làm pH tăng hay
giảm theo. pH liên quan chặt chẽ với hệ đệm của nùc
Nếu pH trong nước ao quá thấp thì nước rất trong (có nhiều phèn nhôm) hoặc nước ao
có màu vàng cam (có nhiều phèn sắt). pH có liên quan đến sự hoạt động của tảo, sự trôi
rửa phèn từ bờ ao xuống và sự bốc phèn từ đáy ao lên. Khi đào ao, bà con đừng đào sâu
quá 1, 5 m để tránh lớp phèn tiềm tàng ở phía dưới.
2.1.4. Độ kiềm:
Độ kiềm (Alkalinity) là hàm lượng chủ yếu của các ion canxi - Ca, manhê - Mg trong
nước. Nước tự nhiên có độ kiềm 40 mg/l. Nước có độ kiềm cao gọi là nước cứng, nước
có độ kiềm thấp gọi là nước mềm. Khi độ kiềm thấp hơn 60 mg/l và cao hơn 200 mg/l
đều làm cho tôm khó lột xác hoặc không lột xác được. Trong ao nuôi nếu có nhiều ốc
sẽ làm cho độ kiềm giảm sút. Trời mưa nhiều, đất bò xì phèn; tôm lột xác nhiều trong
các tháng nuôi đầu tiên đều có thể làm cho độ kiềm bò giảm thấp. Cứ 2 ngày/lần, nên

đo độ kiềm để có hướng điều chỉnh. Khi muốn tăng độ kiềm mà độ pH không bò tăng
theo đáng kể thì ta dùng dolomite 10 -30 kg/1000 m
3
; Dolomit CaMg(CO
3
)
2
là loại vôi
tốt nhất để tạo ra hệ đệm, giữ cho pH cũng như độ kiềm trong ao tôm ổn đònh. Muốn
giảm độ kiềm, có thể dùng thạch cao CaSO
4
(10 kg/1000 m
3
) hoặc dùng sản phẩm
Alkalinity down của công ty Tiến Thành (đồng thời ngăn hiện tượng tôm có 2 lớp vỏ)
và không nên dùng nước giếng khoan.
2.1.5. Hệ đệm:
Hệ đệm gồm các yếu tố HCO
3
-
và CO
3
--
giúp cho pH trong ao không biến động lớn khi
tảo trong ao hô hấp hay quang hợp. Để tăng cường hệ đệm của nước thì phải bón
Dolomit đònh kỳ cho ao (10-30 kg/1000 m
3
nước ao/1 lần/1tuần). Có sự liên quan chặt
chẽ giữa độ kiềm, độ pH và hệ đệm trong ao: Tạo được 1 yếu tố ổn đònh sẽ là cơ sở ổn
đònh cho các yếu tố còn lại. Môi trường nước có độ kiềm cao sẽ có hệ đệm khoẻ.

2.1.6. Oxy hoà tan:
Khí oxy (O
2
) chiếm ¼ thành phần không khí. Oxy cũng hoà tan trong nước. Tôm và các
loại động thực vật trong ao đều cần oxy. Quạt nước hay xục khí từ cách đáy ao 10 -15
cm làm cho không khí (trong đó có oxy) hoà tan trong nước.
2.1.7.Khí amonia (NH
3
):
Khí ammonia phát sinh trong ao là do các vi sinh vật phân hủy các chất cặn bã trong ao.
Lượng ammonia từ 0,2 đến 2,0 ppm có thể làm chết tôm. Khi pH và nhiệt độ trong ao
càng cao thì tính độc hại của ammonia càng tăng, làm tôm giảm hấp thụ oxy, làm tôm
yếu, và nếu kéo dài có thể gây tử vong cho tôm.
2.1.8. Khí nitrit (NO
2
):
Khi trong ao có khí ammonia thì vi sinh vật (Nitrosomonas…, Nitrobacter sp) sẽ phân
hủy ammonia thành nitrit. Mức độ gây độc của nitrit còn lớn hơn cả mức độ gây độc
của ammonia. Mức độc hại của nitrit sẽ tăng khi lượng oxy và pH trong nước giảm.
Để giảm thiểu nitrit, cần thực hiện quản lý môi trường như quản lý ammonia nêu trên.
Sự biến đổi của khí ammonia, nitrit, nitrat trong ao nuôi tôm như sau:
Hàm lượng NH
3
tỷ lệ thuận với pH và nhiệt độ, do vậy tìm cách giảm NH
3
sẽ tốt hơn là
tìm cách giảm pH.
2.1.9. Khí trứng thối (H
2
S):

Khí trứng thối được sinh ra từ các vật chất hữu cơ có chất lưu hùynh (S), khi thiếu oxy vi
sinh vật kỵ khí sẽ phân hủy chất thải, tạo nên khí trứng thối (H
2
S) và gây độc cho tôm,
làm tôm chán ăn, có thể gây tử vong cho tôm. Khí trứng thối trong nước được phân ly
thành ion HS
-
và S
- -
theo các phản ứng sau
H
2
S  H
+
+ HS
-
HS
-
  H
+
+ S
- -
Do vậy khi pH thấp (có nhiều H
+
trong nước), phản ứng sẽ thiên về phía trái, sẽ tạo ra
nhiều khí trứng thối, gây độc cho tôm
Hình vẽ sau đây minh hoạ độc tính của khí ammonia và khí trứng thối khi pH thay đổi:
Giữ được pH ở mức 7,5 – 8,5 sẽ làm cho độc tính của NH
3
cũng như độc tính của H

2
S ở
mức thấp nhất. Xục khí, tăng cường oxy hoà tan, sử dụng chế phẩm sinh học hoặc dùng
các hoá chất có tính oxy hoá cao như thuốc tím (2-5 ppm); chlorine (7 – 10 ppm), BKC
Sản phẩm thừa
Vi khuẩn dò dưỡng
NH
3,
độc
NH
3
Vi khuẩn hoá tự dưỡng
NO
2
ít độc
NO
2
Vi khuẩn hoá tự dưỡng
NO
3
không độc
NH
4
không độc
NH
3
Hoà tan trong
Amonia
Nitrit
nitrat

Amonium

H
2
O
+
Hình 4 : Sự chuyển hoá của khí ammonia trong ao nuôi tôm
(0,1 – 0,5 ppm) cũng hạn chế hoặc giải phóng khí độc. Dùng chế phẩm sinh học để xử
lý khí độc tốt hơn là dùng Zeolite.

2.2. Các sinh vật trong ao nuôi tôm
2.2.1. Virus trong ao:
Virus có kích thước rất nhỏ (20 -30 / 1.000.000.000 mm) và có cấu trúc đơn giản dưới
mức tế bào, Virus sinh sôi dựa vào tế bào của vật chủ. Là nhóm sinh vật nguy hiểm
nhất gây bệnh, gây chết hàng loạt, rất nhanh cho tôm nuôi như bệnh đốm trắng, đầu
vàng, còi… Hiện chưa có thuốc trò Virus tồn tại dưới dạng AND. Virus dạng nghỉ
phát tán trong nước tìm ký chủ để tấn công, chúng chỉ sống được 3 - 4 ngày, nếu
không gặp được ký chủ, chúng sẽ chết.
2.2.2.Vi khuẩn trong ao:
Vi khuẩn hay vi sinh vật là những tế bào nhỏ bé.Một số vi khuẩn vào cuối thời kỳ
sinh trưởng sẽ sinh ra bên trong tế bào một thể nghỉ có dạng hình cầu hay hình
bồ dục gọi là bào tử hay nội bào tử.
Nấm men: có cấu trúc đơn bào, sinh sản phân chồi, có tính acid cao, thích nghi với
môi trường đường, có chứa manna. Về mặt phân loại học, nấm men được xếp chung
với vi sinh vật.
Trong ao nuôi tôm có thể có một số nhóm vi khuẩn sau:
2.2.2.1 Nhóm vi khuẩn gồm các loài Nitrobacter.sp. ; Nitrosomonas. sp. Nhóm này rất
có ích vì chúng chuyển hoá khí NH
3
độc (xuất hiện ở đáy ao do thức ăn dư thừa và các

chất cặn bã) thành dạng NO
3
hay NO
2
ít độc hơn.
2.2.2.2. Nhóm vi khuẩn gồm các loài Bacillus sp. Nhóm này tiết các chất (enzyme) có
tác dụng phân hủy các chất hữu cơ dư thừa, cung cấp oxy cho quá trình hô hấp, tạo ra
Độc tính khí ammonia NH
3
tăng


Độc tính khí trứng thối H
2
S tăng
Khi trời nắng, pH và nhiệt độ tăng cao:
Khi trời mưa, ao bò chua,pH xuống thấp:
Tảo chết, đáy ao bò ô nhiễm Tảo chết
Tôm nuôi Tôm nuôi
Hình 5 : Quan hệ giữa độc tính của NH
3
và H
2
S với khí hậu, pH, nhiệt độ
khí cacbonic, giúp tảo quang hợp, ổn đònh màu nước, ổn đònh pH. Vì vậy người nuôi
tôm cần phải bổ sung và duy trì lượng vi sinh vật này trong ao.
2.2.2.3. Nhóm vi khuẩn Vibrio. sp. Đây là nhóm vi khuẩn có hại thường gây bệnh phát
sáng, bệnh đường ruột, các bệnh trên vỏ tôm, mang tôm…
2.2.2.4. Nhóm vi khuẩn Cyanobacter . Nhóm này có thể quang hợp được. Ưu điểm của
nhóm này là tạo ra oxy và hấp thụ khí ammoniac (NH

4
). Nhưng nếu phát triển quá mức,
chúng sẽ che phủ bề mặt đáy ao. Nhóm vi khuẩn lam Cyanobacter, phân huỷ khí trứng
thối (hydro sulfur) nhưng không tạo ra oxy. Tuy nhiên nhóm này lại có rất ít trong ao
nuôi tôm. Bà con cần phân biệt nhóm vi khuẩn này với tảo lam (Cyanophyta) có hại.
2.2.3. Thực vật phù du: Bao gồm một số thực vật bậc thấp, mắt thường không nhìn
thấy, thường gọi là tảo, chúng phát triển trong ao nhờ các muối dinh dưỡng, sử dụng
ánh sáng mặt trời xuyên qua nước mà tạo thành mắt xích thức ăn tự nhiên đầu tiên
trong ao và các thủy vực khác. Trong ao nuôi tôm, thực vật phù du là thức ăn tốt cho
động vật phù du. T.T.V. Ngân (2002) nêu một số các nhóm tảo trong ao nuôi tôm như
sau:
2.2.3.1. Tảo roi (Dinoflagelata): Gồm nhiều loài tảo chứa độc tố như tảo phát sáng, có
thể gây chết tôm.
2.2.3.2. Tảo lam (Cyanophyta): Thường gặp ở các ao có màu nước xấu, chúng thường
sinh ra các chất nhờn làm tôm khó hô hấp. Chúng phát triển ở đáy ao tạo thành tầng
bùn, khí trứng thối, một số loài tạo ra lớp màng mỏng trên mặt nước. Khi nắng, nóng
tảo lam phát triển. Có thể nhận biết tảo lam khi quạt nước thì có các bọt khí kéo dài
đằng sau, nước chuyển sang xanh đen.
2.2.3.3. Tảo đáy: Cũng chính là nhóm tảo lam. Khi phát triển, chúng tạo thành một lớp
thảm dày ở đáy ao. Khoảng 9 - 10 giờ sáng, khi nắng, tảo quang hợp, ngậm bọt khí và
bò tróc lên từng mảng, nổi trên mặt nước. Bên dưới lớp tảo lộ ra lớp bùn đen chứa nhiều
H
2
S. Bào tử của loại tảo này sẽ nhanh chóng phát tán đến vò trí mới… do vậy tôm bò
chiếm chỗ, bò nhiễm độc.
2.2.3.4. Tảo Silic (Diatomae): Nhóm tảo này rất nhạy cảm với môi trường, có vòng đời
ngắn, kích thước nhỏ dần sau nhiều làn phân cắt, vì thế khó giữ màu tảo trong ao nuôi.
2.2.3.5. Tảo lục (Chlorophyta): Đây là nhóm tảo có kích thước nhỏ, hàm lượng protein
cao, vòng đời dài, sinh sản ổn đònh nếu dùng phân phù hợp. Chlorella còn tiết ra chất
chlorelin ức chế vi khuẩn gây bệnh. Gây được tảo trong ao có tỷ lệ 80 % tảo lục và 20

% tảo silic, giữ mức nươc1,2 m, độ trong 30 – 40 cm thì sẽ hạn chế được tảo lam và tảo
roi.
2.2.4. Động vật phù du là những động vật bậc thấp vô cùng nhỏ bé (như luân trùng…).
Đến lượt mình chúng lại là thức ăn tự nhiên cho tôm, đặc biệt cho tôm giống khi thả
vào ao trong những ngày đầu tiên
2.2.5. Động vật đáy là những động vật nhỏ, sống ở đáy ao (như giun ít tơ, giun nhiều
tơ…) chúng cũng là thức ăn tự nhiên cho tôm.
2.2.6. Lab – lab: là một tập đoàn các loại tảo đáy, động vật, kể cả vi sinh vật. Chúng
liên kết vơi nhau tạo thành các mảng dày, màu xanh, đen, có hại cho tôm. Khi tảo chết,
gặp trời nắng, lab – lab chết, nổi lên từng mảng làm bẩn ao.
2.2.7.Màu nước trong ao là màu của loại tảo có sinh lượng nhiều nhất trong ao.
2.2.7.1. Phân biệt các loại màu nước: Trần T V Ngân (2002) đã phân các loại màu
nước trong ao nuôi tôm như sau
(1). Màu nước nâu đỏ hoặc hồng phấn: Thành phần chủ yếu gồm các loại khuê
tảo, là loại tảo dễ tiêu hoá cho tôm, tôm sống trong môi trường này (độ trong khoảng 25
cm) sẽ rất khoẻ mạnh, màu sắc tôm tươi sáng và năng suất nuôi sẽ cao.
(2). Màu nước lục nhạtï: Thành phần chủ yếu là các loại tảo lục, một số ít tảo
khuê…. Màu nước này rất ổn đònh, nếu giữ độ trong ở mức 40-50 cm thì tôm nuôi phát
triển tốt, khả năng bò nhiễm bệnh rất ít.
(3). Màu nước lục tối hoặc màu nước mực tàu: Do trong nước có nhiều tảo lam
và tảo roi. Tôm sống trong môi trường nước này dễ bò nhiễm các loại bệnh đóng rong,
nhớt, màu sắc xỉn, xấu, vỏ sù sì. Tôm trong ao lớn chậm, phân đàn rất lớn, nếu độ mặn
trong ao lại thấp thì tôm có thể bò mềm vỏ hoặc vỏ có màu xanh da trời.
(4). Màu nước nâu đen và màu nước tương: Thành phần tảo trong loại nước này
là tảo roi. Độ trong thường khoảng 15 cm. Do các tảo này tiết ra độc tố nên tôm nuôi sẽ
không khoẻ, tôm có thể bò bệnh cùn đầu, các phiến vỏ ở thân, đuôi không bằng phẳng,
gợn sóng. Biện pháp tốt nhất là thay nước mới.
(5).Màu nước vàng: Do thành phần tảo chủ yếu là nhóm tảo roi màu vàng kim
và nhóm tảo lục. Màu nước này thường thấy trong ao có pH thấp, chất hữu cơ nhiều,
tích tụ lâu ngày, không tốt cho tôm. Phải khắc phục bằng cách thay nước và tăng cường

xục khí.
(6). Màu nước đục vàng đất: Do bùn lơ lửng trong nước, do phù sa hoặc đất trên
bờ xối xuống. Các chất lơ lửng này kết hợp với tảo, vi sinh vật, muối dinh dưỡng thành
những vật thể như những xơ bông làm thức ăn cho tôm. Nhưng không nên để màu nước
này kéo dài. Có thể dùng vôi Dolomit, EDTA…để tích tụ các chất lơ lửng rồi xử lý.
(7). Màu nước trong (không màu): Do đất có pH thấp, ô nhiễm kim loại nặng.
Trong nước thiếu muối dinh dưỡng, thiếu một số nguyên tố vi lượng nhưng lại dư các
kim loại có hại. Nuôi tôm trong môi trường này sẽ thất bại.
(8). Màu nước đục trắng: Do trong nước có nhiều Tiêm mao trùng, luân trùng;
chúng chỉ thích hợp cho tôm nhỏ. Nếu mật độ các loại nguyên sinh động vật này quá
dày, chúng sẽ tranh oxy của tôm, bám vào phụ bộ, vỏ tôm và xâm nhập vào mang tôm
làm tôm hô hấp kém, giảm ăn vàyếu dần, tôm dạt vào bờ.
(9).Nước đục, nước trong: Độ trong của nước phản ánh mức độ nhiều, ít của tảo
và các chất lơ lửng trong ao do vậy liên quan đến khả năng nhìn được sâu hay nông của
người quan sát.
* Nước ao trong quá tức là trong ao có quá ít tảo nên khó làm cho pH và độ
kiềm ổn đònh. Nước ao trong quá, ánh sáng sẽ xuyên xuống tận đáy làm cho tảo đáy
(lab-lab) phát triển mạnh cũng gây độc cho tôm Khi nước ao trong qúa thì tôm thường
xuyên bơi quanh bờ, tiêu tốn năng lượng và chậm lớn.
** Nước trong ao đục quá do tảo phát triển quá mạnh gây ra hiện tượng thiếu
oxy về ban đêm và về sáng. Nếu trong ao quá nhiều nhóm tảo sợi có thể làm tắc nghẽn
mang tôm, giảm khả năng hô hấp của tôm. Khi tảo già và chết sẽ làm cho nước hôi
thối, xác tảo tích tụ đáy ao quá nhiều, vi sinh vật (nhóm hiếu khí) hoạt động mạnh để
phân huỷ các chất cặn bã cũng làm cho đáy ao thiếu oxy.Trong ao có quá nhiều chất
hữu cơ lơ lửng cũng làm độ đục tăng. Các hiện tượng này đều ảnh hưởng xấu tới tôm,
làm tôm chậm lớn rồi bò bệnh, gây tử vong.
***.Giữ cho nước trong ao có độ trong vừa phải (khoảng 30-40 cm khi đo bằng
đóa secchi) thì hạn chế được tảo đáy phát triển, làm cho tôm hoạt động bình thường.
2.2.7.2.Tác dụng của màu nước: Màu nước tốt trong ao sẽ làm tăng lượng oxy hoà tan,
ổn đònh nhiệt độ nước, là mái nhà cho tôm, làm thức ăn gián tiếp cho tôm, ổn đònh chất

lượng nước, giảm độc tố của NH
3
; H
2
S, giảm vi khuẩn có hại, ngăn cản tảo lam và cỏ
nhỏ ở đáy.
2.2.7.3. Mối liên quan giữa môi trường và các loại tảo:
- Khi đáy ao là bùn, độ mặn thấp thường có nhiều tảo lục.
- Mùa mưa, nước ngọt, nước ít chất hữu cơ thì tảo lam thường nở hoa.
- Khi nước trong, pH thấp thườnh nhiều tảo mắt.
- Khi đáy ao cứng, độ mặn cao thường nhiều tảo khuê.
2.2.7.4.Kiểm soát màu nước trong ao nuôi tôm bà con cần phải:
(1). Kiểm tra pH của đất ao, bón vôi để nâng pH, khử chua, rửa đáy ao
(2). Bón phân gây màu cho tảo phát triển trước khi thả tôm.
(3). Cho ăn đúng cách, không để thức ăn bò dư thừa trong ao.
(4). Luôn giữ mức nước trong ao sâu 1,2 - 1,5 m và sử dụng chế phẩm sinh học
(5) Khi tảo qua ùnhiều, cần giảm tảo bằng thuốc, hoá chất như D - algae, formol
Green- cut...cũng có thể dùng vôi (CaCO3) vào lúc ban đêm. Sau khi dùng
thuốc sát trùng cắt tảo thì phải dùng men vi sinh, zeolite để xử lý các chất bã.
Sau đó dùng lại chế phẩm sinh học. Cố gắng không dùng hóa chất để giảm tảo.
(6) Khi tảo khuê và tảo giáp qúa nhiều, lúc chết, chúng tạo thành các váng,
bám vào mang tôm làm tôm bò nâu, đen mang. Nên dùng bơm hút lớp váng tảo
khỏi ao vào buổi chiều, cuối gióp khi chúng tập trung ở góc ao.
(7) Khi thiếu tảo, có thể bón phân, kết hợp với Boom-D, Nuto, Dolomit…
Mối quan hệ giữa tảo, thức ăn, các chất mùn bã, nhu cầu tiêu thụ oxy, các khí
độc trong ao và biện pháp xử lý môi trường ao nuôi tôm được minh họa như sau:
Hình 6: Sự chuyển hóa thức ăn, chất thải chất khí và
biện pháp sử lý sinh học các chất thải, khí độc trong ao nuôi tôm.
(Hình minh họa của Tôm Việt, )
MEN VI

SINH
CHƯƠNG III.
BỆNH TÔM

3.1. Bệnh do Virusgây nên.
Theo kết quả nghiên cứu của TS Nguyễn Văn Hảo, chủ nhiệm Đề tài nghiên cứu cấp
nhà nước 2000 – 2002: Một số bệnh thường gặp trên tôm sú, các phương pháp chẩn
đóan và biện pháp phòng trò. thì Ở khu vực Đồng bằng sông Củu Long thường gặp các
bệnh tôm do virus (đốm trắng, đầu vàng, còi). Nguyễn Văn Hảo (2004) xác đònh: Khi
tôm mẹ bò đỏ mang, đỏ thân, thì kết quả xét nghiệm cho thấy tôm đã bò nhiễm nhiều
mầm bệnh virus nguy hiểm khác nhau như WSSV, MBV, IHHNV,YHCV, WSSV và
xác đònh virus WSSV không phải là tác nhân gây bệnh chính của bệnh đỏ thân, đỏ
mang trên tôm mẹ và khuyên nên lọai bỏ chúng khỏi đàn tôm mẹ.
3.1.1. Bệnh đốm trắng do virus (WSSV):
3.1.1.1. Dấu hiệu bệnh:
Thường xuất hiện ở tôm có khối lướng từ 4 g trở lên, đặc biệt ở giai đọan dưới 2 tháng
tuổi – 12 g/con (Nguyễn Văn Hảo, 2004), Bệnh đốm trắng dovirus gây hội chứng đốm
trắng là bệnh gây nguy hiểm nhất trên tôm nuôi hiện nay. Bệnh bùng phát vào lúc
trước khi tôm lột xác, đặc biệt khi môi trường không thuận lợi như nhiệt độ thấp, Khi bò
bệnh, tôm có các triệu chứng sau:
* Tôm bỏ ăn, thân chuyển màu hồng, tím hồng,
* Trên bề mặt trong vỏ đầu ngực và đốt thứ năm, sáu có những đốm trắng
đường kính 0,5 đến 3 mm sau lan ra các đốt khác. Các đốm trắng thường có kích thước
đều nhau, hình vòng tròn và có tâm trong suốt. Tôm bò bệnh có đốm trắng nhỏ li ti
thường chết nhanh hơn tôm bò bệnh có đốm trắng lớn
* Thân tôm có màu đỏ, thòt tôm thường không dính với vỏ tôm; tôm chết lần đầu
thường có vỏ rất bẩn, tôm chết các lần tiếp sau đó thì vỏ lại sạch. Thân đỏ cũng có thể
do tôm bò vi khuẩn, mất cân đối về khoáng, thức ăn kém,ôi.
* Trước khi phát bệnh, tôm ăn mạnh hơn thường ngày. Sau đó tôm giảm ăn rõ
rệt, ruột ít hoặc không có thức ăn. Gan t trương, có màu sắc trắng hoặc hơi vàng.

* Tôm cặp mé bờ, sau bơi lờ đờ trên mặt ao, chết ở đáy, chết hết sau 7 ngày
phát hiện tôm cặp mé bờ.
* Tôm giảm ăn còn do những tôm chưa nhiễm bệnh ăn những con tôm nhiễm
bệnh và do vậy, bệnh lan rất nhanh; tôm bệnh bơi nổi trên mặt nước hay dạt vào mé bờ
ao.
Một số tôm cũng có bò bệnh đốm trắng nhưng lại không có đốm trắng trên vỏ.
Có trường hợp trên vỏ có đốm trắng, tôm không tấp vào bờ, đó là do môi trường nước
có pH biến động quá lớn hoặc môi trường nước quá dư Canxi.
Đốm trắng do rối loạn chuyển hoácanxia1: Tôm có đốm trắng nhưng vẫn ăn bình
thường, không có tôm yếu, cặp mé có đốm trắng , tôm màu sậm, mang dơ, sức ăn của
tôm giảm nhẹ,
Đốm trắng do pH cao (trên 8,5) gây ra rối loạn chuyển hoá canxi. Hạ pH bằng formol
30 l/ha vào sáng sớm, đến khi ph đạt 7,5 – 8,0. Sauk hi lột xác, tôm sẽ hết đốm
trắng.trong thời gian dàicó dấu hiệu nhiễm khuẩn.
Đốm trắng do vi khuẩn, tôm yếu, cặp mé, có đốm trắng, màu nâu sậm, bẩn, mang dơ,
sức ăn giảm nhẹ có dấu hiệu tôm bò nhiễm vi khuẩn. Loại bỏ tôm yếu và cải thiện chất
lượng nước, tôm sẽ ăn lại bình thường.
Bảng so sánh triệu chứng và cách xử lý khi tôm có đốm trắng
Tác nhân Triệu chứng Thử PCR Xử lý
WSSV Tôm giảm ăn, Có đốm trắng ở
đầu ngực và đốt đuôi 5, 6. Các
đốm thường đều nhau và có
tâm trong. Tôm bệnh có đốm
trắng nhỏ li ti thường chết
nhanh hơn so với tôm bệnh có
đốm trắng lớn.
Dương
tính
Trò bệnh không kết quả,
không kinh tế, tỷ lệ sống rất

thấp
pH cao Tôm có đốm trắng, không vào
bờ, ăn bình thường, pH cao
trong nhiều ngày, rối loạn
canxi
Âm tính Giảm pH: Thuốc tím 1 ppm
hoặc formol 30 lít/ha/2 – 3
ngày. Khi lột vỏ, đốm sẽ hết.
Vibrio. sp Tôm vào bờ, đóng rong bẩn,
có đốm, tôm ăn giảm không
đáng kể, tôm yếu chết trước.
Âm tính Khử trùng ao: thuốc tím.. Iod,
BKC…,. Men vi sinh. thay
nước, tăng dinh dưỡng .
3.1.1.2. Cách xử lý:
* Trò bệnh: Cho tới nay, chúng ta chưa tìm được cách trò bệnh đốm trắng do virus gây ra.
Cách tốt nhất là phòng bệnh. Nếu gặp hiện tượng đốm trắng không trầm trọng, ta có
thể áp dụng một số biện pháp sau: Dùng formalin 25-40 lít/1000 m
2
ao. Tôm nhiễm
bệnh sẽ nổi trên mặt ao, nhanh chóng vớt hết khỏi ao, tránh lây lan sang tôm khác. Nếu
tôm bò đốm trắng do môi trường (pH trên 8,5) hay do nhiễm khuẩn thì khi xử lý môi
trường và trò khuẩn, tôm sẽ lột xác, mất các đốm trắng trên vỏ
* Phòng bệnh:
-Chọn mùa vụ nuôi tôm thích hợp trong giai đoạn tháng 3 – 7 dương loch ở các vùng
nuôi tôm sú Đồng bằng sông Cửu Long.
- Dùng lưới chắn xung quanh ao để tránh giáp xác và các vật truyền bệnh khác vào ao.
- Cải tạo và chuẩn bò ao cẩn thận.
- Lấy nước vào ao lắng sau ít nhất 5 ngày, rồi mới lấy nước vào ao nuôi.
- Hạn chế tối đa việc lấy nước trong 2 tháng nuôi đầu tiên để giảm thiểu nguy cơ xâm

nhiễm đốm trắng trong ao, vì trong thời gian này tôm rất dễ nhạy cảm với bệnh.
- Quản lý môi trường (dùng chế phẩm sinh học đònh kỳ và khử trùng) tránh gây sốc cho
tôm trong ao nuôi.
- Xét nghiệm, chọn con giống sạch bệnh, kết hợp với sốc formol loại bỏ tôm Post yếu
trước khi thả nuôi.
-Bổ sung Vitamin (C mix…) và các chất bổ dưỡng, vi lượng cho tôm.
3.1.2. Bệnh còi do virus (MBV):
3.1.2.1. Dấu hiệu bệnh:
- Tôm bệnh có màu sậm đen, mang đỏ hoặc đen hơn bình thường, gan t có màu
vàng, có lúc teo lại, lúc trương to có mùi rất tanh, tôm chỉ chết lác đác.
- Tôm lờ đờ, phản xạ chậm nên dễ bò các sinh vật khác tấn công, dễ mắc thêm các
bệnh về mang, đốm trên vỏ, nhiễm trùng máu nên thường được gọi là bệnh đóng rong,
bệnh vỏ, sau đó vi khuẩn tấn công gây nên các bệnh về mang, bệnh đốm vỏ… . Nếu đàn
tôm nhiễm MBV ủ bệnh lâu và và phát triển chậm thì tôm có thể vẫn sinh trưởng bình
thường, các tác nhân gây bệnh khác sẽ không có cơ hội tấn công
- Tôm giống nhiễm bệnh thường có nhỏ hơn so với cá thể cùng đàn. Đại đa số tôm
giống bò nhiễm MBV khi đem nuôi sẽ bò nhiễm vi khuẩn, bệnh đốm ở mang và vỏ,
bệnh nhiễm trùng máu. MBV: Thân chuyển màu xám xanh đến xanh sậm đen, kém
linh hoạt, giảm ăn, tăng trưởng chậm. Phân đàn rõ rệt
3.1.2.2. Phòng bệnh:
- Chọn tôm giống chất lượng cao. Xét nghiệm PCR tôm giống trước khi nuôi. Tôm Post
nhiễm MBV dưới 30%, cảm nhiễm nhẹ (+) có thể sử dụng thả nuôi.Vì MBV có thể bò đào
thải sau hai tháng nuôi nếu môi trường ao nuôi tốt (Nguyễn Văn Hảo 2002).
- Quản lý tốt môi trường ao nuôi để khống chế virus và độc tính của virus.
3.1.2.3. Trò bệnh:
- Chỉ có thể hạn chế các bệnh nhiễm khuẫn, nhiểm sinh vật có hại (tảo, nguyên sinh
động vật…) để kéo dài thời gian ủ bệnh MBV của tôm càng lâu càng tốt. Nếu tôm còn
nhỏ mà tỷ lệ nhiễm bệnh cao thì nuôi đàn tôm này sẽ ít hoặc không có lãi, thậm chí lỗ
vốn do chi phí thức ăn, quản lý…
3.1.3. Bệnh đầu vàng (YHV) /phức hợp đầu vàng do virus.

3.1.3.1. Nguyên nhân và triệu chứng
Bệnh đầu vàng có hai dạng: Gây chết cấp tính hay bệnh mãn tính
Bệnh đầu vàng gây chết cấp tính do virus đầu vàng (YHV-Yellow head virus) thường
xảy ra ở tôm khoảng 20 – 45 ngày nuôi, gây tử vong 100% trong vòng 3 – 5 ngày. Thân
tôm thường chuyển sang màu tái, mang và gan t có màu vàng nhạt.
Bệnh đầu vàng mãn tính do GAV (Gill associated virus) thường gây chết ở tháng nuôi
thứ ba khi môi trường ao nuôi không được quản lý tốt. Mang tôm chuyển sang màu
vàng hoặc nâu nhưng không bò hoại tử
Cũng có thể do tôm bò nhiễm khuẩn Vibrio sp đường ruột, hoặc do thức ăn bò nhiễm
mốc (aflatoxin). Phần đầu ngực, mang tôm màu vàng, vàng nhợt nhạt. Gan t sưng to,
màu trắng nhạt, màu đỏ, có mùi tanh. Trước khi phát bệnh, tôm ăn nhiều lạ thường, sau
2-3 ngày, tôm bơi lờ đờ trên mặt nước, ven bờ, tôm có thể chết rất nhanh, chết hết trong
vòng 1 tuần.. Bệnh sảy ra vào giai đoạn 20 và 50 – 70 ngày nuôi.
3.1.3.2.. Phòng ngừa:
- Diệt vi khuẩn, virus trước khi gây màu cải tạo ao.
- Ngăn ngừa vật chủ truyền bệnh trung gian.
- Quản lý môi trường nuôi cẩn thận.
- Có thể cho ăn thêm vitamin hoặc kháng sinh có bổ sung vitamin, các
chất tăng cường chức năng gan t
3.1.3.3.. Trò bệnh: Ít có hiệu quả nếu như nhiễm Virus, có thể dùng các loại thuốc
kháng sinh thế hệ mới (nếu tôm bò nhiễm khuẩn đường ruột) loại bỏ thức ăn mốc, bổ
sung Vitamin và thuốc bổ dưỡng ...
3.1.3.4.Khuyến cáo xử lý bệnh đốm trắng và đầu vàng, tránh lây lan trong vùng nuôi:
Nguyễn Văn Hảo (2002) khuyến cáo:
- Trường hợp tôm phát bệnh trong tháng đầu : Xử lý Chlorin 30 – 40 mg/l để diệt hết
tôm trong ao. Sau nửa tháng nước ao trở nên an toàn, có thể thả tôm lại. Chú ý phải diệt
được hết cua còng còn xót lại trong ao.
- Trường hợp tôm phát bệnh ở tháng nuôi thứ hai:Thu hoạch tôm bằng lưới điện, không
được xả nước ra ngoài sẽ gây lây nhiễm cho vùng nuôi. Sau đó xử lý nước ao bằng
chlorine 30 – 40 mg/l và ao vẫn có thể thả tôm lại trong nước ao cũ nếu trước đó ao

được dọn, tẩy sạch trước khi chuẩn bò thả tôm lần đầu.
- Trường hợp tôm bò bệnh ở tháng thứ ba: Thu tôm, xử lý nước ao trước khi thải ra
ngoài. Chuẩn bò lại ao thả tôm vụ mới
3.2. Bệnh do Vi khuẩn
Nhóm vi khuẩn dạng sợi: Leucothrix sp., Thiothrix sp., Flexibacter sp.,
Flaviumbacterium sp. ký sinh trên thân tôm làm tôm yếu
Nhóm: Vibrio., Aeromonas và Pseudomonas. Gây bệnh mòn vỏ, phụ bộ, đốm đen, nâu
Nhóm V. harveyi, Vibrio cholerae gay bệnh phát sáng.
Trong các ao nuôi thâm canh, bệnh nhiễm khuẩn thường đi kèm với một bệnh khác
(đóng rong, và mảng bám,ký sinh trùng, đỏ thân, đốm trắng, tạo nên các hội chứng. Khi
tôm trong ao có tỷ lệ nhiễm khuẩn khá cao là sự báo hiệu khả năng bệnh đốm trắng
boat phát sau đó hoặc khi tôm yếu do virus thì vi khuẩn là tác nhân cơ hội tấn công tôm.
Mà nguyên nhân là do sự quá ngưỡng của các chất thải, môi trường xuống cấp, gay sốc,
gay bệnh cho tôm.(Nguyển Văn Hảo 2004).
3.2.1. Bệnh phân trắng :
3.2.1.1. Nguyên nhân: Do bò nhiễm ký sinh trùng Gregarine (có giai đoạn ký sinh trong
ốc). Khi bệnh nặng, ruột sẽ chuyển sang màu hơi vàng hoặc trắng, có các điểm tổn
thương, tạo điều kiện để vi khuẩn đường ruột xâm nhập gây hoại tử. Bệnh xuất hiện khi
thời tiết thay đổi, trời âm u, có mưa. Tôm có thể mắc bệnh nếu ăn thức ăn mốc, ẩm hay
nhiễm độc.
3.2.1.2. Triệu chứng: Ruột giữa của tôm có màu vàng, tôm có thể thải ra phân trắng dài
0,3 -1 cm ngay trong nhá và trôi giạt xuống góc ao, cuôí gió. Thân tôm xốp
3.2.1.3. Phòng bệnh: Quản lý môi trường tốt, Giữ đáy ao sạch. Chọn thức ăn tốt, cho
tôm ăn thêm thức ăn bổ sung để cân bằng vi sinh đường ruột.
3.2.1.4. Trò bệnh: Sử dụng kháng sinh vào thức ăn như Norfloxacin, dòng sulfa như
Osamet Shrimp, Sulfa Gold, Enfloxin, acid oxolenic…
3.2.2..Bệnh phát sáng trên thân tôm
3.2.2.1. Nguyên nhân: Chủ yếu do nhiễm vi khuẩn Vibrio harvey.
3.2.2.2. Triệu chứng: Tôm nhiễm bệnh màu trắng đục, tôm bệnh nặng có màu xanh lục,
có những vết loét ở miệng, hậu môn, rồi toàn thân. Vết loét có mủ, vi khuẩn ở vết loét

phát sáng xanh, dễ nhìn về đêm. Mắc bệnh này, Gan tôm có thể bò teo, bò hủy hoại,
ruột rỗng, mất chức năng hô hấp, phân trong nhá có thể phát sáng. Khi sắp chết, tôm
nổi trên mặt nước và ven bờ, tôm bỏ ăn và chết hàng loạt, đóng xuống đáy thành một
thảm sáng, xanh. Khi lượng vi khuẩn phát sáng trong môi trường ao nuôi là 10
4
CFU/ml
thì tôm sẽ chết rất nhanh.
3.2.2.3 Phòng trò bệnh:
Xử lý môi trường: Giảm độ mặn, nuôi tôm với mật độ thấp, giữ mức nước trong ao cao,
thay nước, tăng cường xục khí, sử dụng men vi sinh, đường (40 kg/ha) xử lý đáy ao.
Nếu phát sáng do vi khuẩn: trò bệnh bằng cách tăng cường hệ vi sinh vật trong ao hoặc
dùng các loại kháng sinh trộn vào thức ăn như Norfloxacin, Acid oxolenic, Enfloxacin...
Vibrio phát triển khi nhiệt độ cao, oi bức, độ mặn cao, tảo tàn, vì vậy có thể thay nước
vào ban ngày, thêm nước ngọt, gây màu tảo nhanh.
3.2.2.4. Hiện tượng phát sáng trong nước:
Bà con cần phân biệt hai trường hợp:
- Nếu phát sáng do lượng photphat trong ao cao, nhiệt độ nước cao thì không
ngại nếu như ta duy trì được pH và độ kiềm phù hợp. Nếu thay nước càng tốt.
- Nếu phát sáng do tảo độc thì nhìn thấy như đom đóm trong ao, nếu bò nặng sẽ
phát sáng như sao sa. Có thể sử lý bằng chế phẩm vi sinh như PRO-W, PRO 2…, sử dụng
đường 40 -50 kg/ha. sử dụng các hoá chất BKC, Formalin…
3.2.3.. Bệnh tôm đóng rong, màu xanh, cáu bẩn,
3.2.3.1 Nguyên nhân: Do nhiều nhóm vi khuẩn (dạng sợi và các vi khuẩn khác), nấm,
tảo (Nischia…), do môi trường biến động,xấu (sắt, mùn bã nhiều), màu nước kém. pH
biến động lớn( trên 0,7), nước có độ mặn thấp( dưới 5 %o) dinh dưỡng kém.
3.2.3.2. Triệu chứng: Các sinh vật bám trên vỏ tôm, tôm có màu xanh rong rêu, khi các
chất vẩn cặn khác bám vào làm tôm có màu bùn, màu trắng đục. Tôm bò bệnh thường
có thân, phụ bộ, mang có dạng giống như cái bùi nhùi. Tôm lờ đờ, di chuyển trên mặt
hoặc mé ao, hô hấp khó, bò chết khi thiếu oxy, khó lột xác và bắt mồi. Bệnh gay chết
cho tôm dưới 1 tháng tuổi.

Nguyễn Văn Hảo (2004) ghi nhận Bệnh mảng bám và ký sinh trùng là do có các mảng
bám hữu cơ rên giáp đầu ngực, trên vỏ thân có nguyên sinh động vật Epitylis và
Vorticella bám vào làm tôm hoạt động khó khăn, khó chòu sau bò các tác nhân gay bệnh
khác tấn công.
3.2.3.3. Phòng trò: Quản lý môi trường tốt.Duiy trì độ trong 25 – 45 cm.
Khi tôm nhiễm bệnh có thể sử dụng Zoo-clear, Treflan,Virkon. BKC (0,5-0,7 mg/l).
Dùng formol 910-20 mg/l) kết hợp với sulfat đồâng conø có tác dụng kích thích lột vỏ,
giúp tôm gỡ bỏ các chất bẩn trên vỏ cũ. Không nên dùng BKC khi tôm chưa được 2
tháng tuổi vì BKC ức chế tảo trong thời gian dài sau đó.
3.2.4. Bệnh đứt râu, mòn đuôi, cháy đuôi, đốm đen, vỏ bò hoại tử. bò khói đèn, bò rỉ
sắt,cháy đuôi: Đây là một bệnh có nhiều tên gọi khác nhau do có những triệu chứng
biểu hiện khác nhau nhưng phần lớn nguyên nhân sơ nhiễm là do vi khuẩn Vibrio như
V.aeromonas, V. vulfanicus, Spirilum…
3.2.4.1. Nguyên nhân: Do nhiều loài vi khuẩn tiết men (sơ nhiễm) ăn mòn vỏ tôm sau
đó bò các sinh vật khác (thứ nhiễm) tấn công:
Nếu tác nhân thứ nhiễm là vi khuẩn sẽ gây nhiễm trùng máu.
Nếu tác nhân thứ nhiễm là nấm sẽ làm tôm mất cân bằng thẩm thấu, tôm khó
lột vỏ, vỏ mới và vỏ cũ dính nhau.
Nhưng suy đến cùng thì nguyên nhân gây bệnh chính là do môi trường bẩn, mật
độ nuôi dày, quản lý kém.
3.2.4.2.. Triệu chứng:
- Vỏ, phụ bộ, mang tôm thay đổi, ban đầu có thể chuyển sang màu hồng có những đốm
hay mảng nâu, đen, râu đứt, chủy cùn vẩy râu,, vẩy đuôi bò nhạt màu, phồng bóng nước
to hơn và nơi đó sẽ bò ạn mòn. Cần phân biệt râu bò đứt do vướng chài, vướng sàng thì
đầu chỗ bò đứt không có chấm đen. Dưới vỏ xuất hiện những vết phồng chứa dòch keo,
đuôi mòn lõm vào và có màu đen. Tôm lờ đờ, kém ăn, khó lột xác. Nếu bệnh nhẹ thì
sau khi lột xác, tôm sẽ trở lại bình thường. Tôm bệnh dễ mẫn cảm với môi trường, dễ
ăn thòt nhau.
3.2.4.3..Phòng, trò bệnh: Quản lý môi trường (dùng men vi sinh như PRO 1-2, W,
đường), sử dụng thức ăn thật cẩn thận. Khi phát hiện bệnh có thể sử dụng các loại thuốc

sát trùng (thuốc tím,…), , chất có nguồn gốc sinh vật ( Deodorase, Sanolife Pro-1-2, W),
V.B, MKC, Virkon, Formalan, Olan, Quinolone xử lý trực tiếp vào môi trường và cho
tôm ăn (Daitrim…).
3.2.5. Bệnh đỏ thân
3.2.5.1. Nguyên nhân: Do chất độc từ vi sinh vật, do nhiễm khuẩn (cá thối…). Vi
khuẩn trú ngụ ở gan t. Bệnh đỏ thân được khởi điểm là nhiễm khuẩn nặng, sau đó
thân tôm, nhất là phần cuối thân chuyển sang đỏ hồng, tất cả các bệnh đỏ thân tiếp
ngay sau làbột phát bệnh đốm trắng.
3.2.5.2. Triệu chứng: Tôm mới nhiễm có màu vàng hơi xanh, tiếp theo tôm có
màu đỏ từ mang, đầu chân sau lan ra toàn cơ thể. Khi bò nặng, mất sắc tố bình
thường. Trên đầu, ngực có chất tanh, hôi thối. Gan t bò phá hủy và màu không
bình thường. Tôm có thể chết hàng loạt.
3.2.6. Bệnh gan t
3.2.6.1.Triệu chứng và nguyên nhân
Ở những tôm khoẻ mạnh, tuyến gan t thường chắc, gọn và có màu trắng, hoặc
hơi vàng. Quá trình hoại tử hệ gan t của tôm được biểu hiện qua các giai đoạn:
Gan t bò sưng rồi chảy rữa và cuối cùng bò teo nhỏ dẫn đến tôm bò nhiễm khuẩn
mãn tính và còi cọc. Màu sắc gan t trở nên vàng, nâu, đỏ xanh hoặc xám. Khi
ngửi thấy có mùi tanh. Có thể tôm bò chết ngay khi gan t mới thối rữa. Các sắc
tố tử tế bào gan t bò hoại tử sẽ làm vỏ tôm có màu hồng đến đỏ, Khi nhiễm
bệnh về gan t, tôm thường kém, bỏ ăn, ruột ít hoặc không có thức ăn, tôm
bệnh tấp vào bờ, yếu. Nếu môi trường còn tốt, thì bề ngoài tôm không bò mòn
râu, cụt đuôi hoặc đốm đen… mà tôm rất sạch. Biểu hiện của bệnh thường liên
quan đến nhiều hiện tượng và nhiều bệnh khác. Bệnh gan t thường được cho là
nguyên nhân thúc nay nhanh sự bột phát bệnh đốm trắng tức là hội chứng thân
đỏ, đốm trắng.
3.2.6.2. Phòng bệnh:Chuẩn bò ao tốt, sử dụng Probiotic, men vi sinh hay đường.
3.2.9.2. Trò bệnh: Sử dụng các loại thuốc có các thành phần: Sorbitol, lysin, cholin,
methionin, betain để tăng hoạt động bài tiết của gan, kích thích gan hoạt động
tốt, tham gia tổng hợp lipoprotein, hấp thụ các vitamin kích thích tiêu hoá. Ví dụ

thuốc Vi-Caphos. Cũng có thể sử dụng thuốc kháng sinh trộn vào thứ ăn ( dùng
liên tục 5-7 ngày, tối đa 10 ngày). Lạm dụng kháng sinh sẽ làm cho tôm chậm lớn
3.2.5.3. Xử lý: Quản lý môi trường, không cho ăn thức ăn kém phẩm chất…
3.2.6. Bệnh do ký sinh trùng
Ký sinh gay bệnh: Vorticella, Zoothanium, Epistylis, Acineta, Ephelota, bám trên mang
hay bề mặt cơ thể làm tôm giảm hô hấp, suy dinh dưỡng
3.2.6.Bệnh phát sinh do môi trường xấu.
Để bà con tiện theo dõi, chúng tôi sắp xếp các bệnh tôm không phải do vi khuẩn
(còn gọi là vi trùng) và không phải do virus vào bảng sau đây và gọi là các bệnh
do môi trường xấu hoặc do dinh dưỡng trực tiếp gây nên.
Nguyên nhân chính Triệu chứng Phòng trò
Mưa, nước ao phân tầng, pH
giảm.

Tăng độc tính của khí độc,
H
2
S; NH
3 ,
oxy thấp,
Mật độ nuôi quá cao, nhiều
sinh vật bám
Tôm bò sốc, biến màu, kéo
đàn trên mặt nước và mé
bờ, phát sinh bệnh, chết.
Mang tôm có thể bò vàng,
đen, hồng mang
Tôm bò đục ở thân, trắng ở
đốt 4, 5, 6. Tôm khó lột vỏ.
Rải vôi quanh ao, bón vôi,

Tháo lớp nước tầng mặt,
sử dụng vi sinh Sanolife,
Pro–W, AFM….Giảm ăn
trong ngày mưa. Giảm mật
độ nuôi
oxy, nitơ quá bão hoà Dưới vỏ, mang có bọt khí,
mang tôm nhợt nhạt, một
số tôm có vỏ màu xanh da
trời
Tránh tảo nở hoa, xục khí
hợp lý, nếu oxy quá mức,
dùng formalin 5 – 10 ppm
Nước ao quá mặn và độ
kiềm quá cao
Tôm chậm lớn, vỏ sần sùi,
khó lột xác, có thể còn bò
hà bám trên vỏ.
Pha loãng bằng nước ngọt
có độ kiềm thấp. Giữ hệ
đệm khoẻ không dùng vôi
Độ mặn quá thấp, mất cân
bằng canxi/phôtpho, thuốc
sâu tồn đọng, hàm lượng
Tôm khó lột xác, mềm vỏ;
lột vỏ không được. Tôm có
mang màu đỏ
Quản lý môi trường đúng
cách, cẩn thận, cho ăn
đúng cách. Không sử dụng

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×