Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

phân tích hiệu quả kỹ thuật cho các trại nuôi tôm sú thương phẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.06 KB, 6 trang )

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản, số 4/2009
70
PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ KỸ THUẬT CHO CÁC TRẠI NUÔI TÔM SÚ THƯƠNG
PHẨM TẠI THÀNH PHỐ NHA TRANG, VIỆT NAM
TECHNICAL EFFICIENCY ANALYSIS FOR COMMERCIAL BLACK TIGER PRAWN (Penaeus
monodon) AQUACULTURE FARMS IN NHA TRANG CITY, VIETNAM
Đặng Hoàng Xuân Huy
1
, Phạm Xuân Thủy
1
, Terje Vassdal
2
1
Trường Đại học Nha Trang
2
Đại học Tromso - Na Uy
Tóm tắt
Nghiên cứu này sử dụng mô hình phân tích màng dữ liệu (Data Envelopment Analysis -DEA) tối
thiểu hóa đầu vào trong trường hợp qui mô không ảnh hưởng đến kết quả sản xuất với hai biến đầu ra
và năm biến đầu vào để đánh giá hiệu quả kỹ thuật cho các trại nuôi tôm sú thương phẩm tại thành
phố Nha Trang, Việt Nam. Kết quả chỉ ra rằng tại thành phố Nha Trang có 25% số trại nuôi tôm sú
thương phẩm đạt hiệu quả kỹ thuật và 75% số trại là không hiệu quả kỹ thuật.
Từ khóa: hiệu quả kỹ thuật
Abstract
This study has used minimizing input-oriented Constant Return to Scale Data Envelopment
Analysis (DEA) model with two output and five input variables to analyse technical efficiency for
commercial black tiger prawn aquaculture farms in Nha Trang city, Viet Nam. The empirical results
indicate that there are 25% performances of Black Tiger Prawn (Penaeus monodon) farms are
technical efficiency and 75% performances of farms are inefficient in Nha Trang city.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiềm năng diện tích nuôi trồng thủy sản


Việt Nam lên đến 1,7 triệu ha. Nuôi trồng thủy
sản Việt Nam đã phát triển rất nhanh góp phần
đưa tỷ trọng sản lượng nuôi trồng thủy sản
trong tổng sản lượng thủy sản Việt Nam tăng từ
38,3% vào năm 2004 lên 45,8% vào năm 2006.
Trong nuôi trồng thủy sản thì nuôi tôm luôn là
đối tượng nuôi chủ lực của Việt Nam do mang
lại giá trị xuất khẩu cao. Mặc dù tỷ trọng sản
lượng nuôi tôm so với tổng sản lượng nuôi
trồng thủy sản giai đoạn 2001 – 2006 chỉ là
22,3%, nhưng giá trị mặt hàng tôm xuất khẩu lại
chiếm 48,5% so với tổng giá trị xuất khẩu thủy
sản giai đoạn 2002-2006. Trong nuôi tôm thì
tôm sú thương phẩm là đối tượng nuôi chính và
trong năm 2004, sản lượng tôm sú đạt 290.501
tấn, giá trị đạt 12.859,5 tỷ đồng, chiếm trên 98%
trong tổng số tôm nước lợ 1.
Khánh Hòa là nơi có nhiều tiềm năng cho
việc nuôi tôm sú thương phẩm với diện tích nuôi
từ 4.526 ha (1999) lên 5.320 ha (2002) và tổng
sản lượng tôm sú thương phẩm cũng tăng từ
3.716 tấn (1999) lên 6.275 tấn (2002)[2].
Thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đã
bắt đầu nuôi tôm sú từ thập niên 1990 và phát
triển suốt những năm 1999-2003 với năng suất
trung bình là 1,5 tấn/ha, tuy nhiên cũng có vài
hộ đạt năng suất 8-10 tấn/ha[3]. Nhưng vấn đề
đặt ra là hầu hết các hộ nuôi tôm sú thương
phẩm tại Nha Trang đều tự phát, chưa tính toán
đến hiệu quả kỹ thuật và về phía địa phương

cũng chưa xác định được người nuôi cần các
yếu tố đầu vào là bao nhiêu cho phù hợp. Chính
vì vậy, mục tiêu của nghiên cứu này là: (i) xác
định những ao hồ đạt hiệu quả kỹ thuật chiếm
bao nhiêu phần trăm trong tổng ao hồ; (ii) xác
định lư ợng y ếu t ố đầu vào mang l ại hiệu qu ả kỹ thu ật.
THÔNG BÁO KHOA HỌC
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản, số 4/2009
71
Để đánh giá hiệu quả kỹ thuật, có rất nhiều
phương pháp khác nhau được áp dụng trên thế
giới. Nghiên cứu này sử dụng mô hình phân tích
màng dữ liệu (Data Envelopment Analysis -
DEA). Phương pháp DEA được sử dụng rộng
rãi trên thế giới với nhiều lĩnh vực khác nhau.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản,
phương pháp này không nhiều (ví dụ, có thể
tham khảo Khem R. Sharma et al, 1999;
Francisco J. Martinez-Cordero, 2004). Tại Việt
Nam, hiện có rất ít tác giả áp dụng phương
pháp DEA trong nghiên cứu, nhất là trong nuôi
trồng thủy sản để đánh giá hiệu quả kỹ thuật,
phải kể đến Hoàng Văn Cường, 2009, Tôn Nữ
Hải Âu, 2009 và Đặng Hoàng Xuân Huy, 2009.
Đây là lần đầu tiên, phương pháp DEA được
nghiên cứu tại tỉnh Khánh Hòa nói chung và
thành phố Nha Trang nói riêng.
II. DỮ LIỆU PHÂN TÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Dữ liệu phân tích

Số liệu thu thập bao gồm dữ liệu về các
đặc điểm của mô hình nuôi tôm sú thương
phẩm tại thành phố Nha Trang năm 2004 với
hai biến đầu ra là kích cỡ tôm, tổng sản lượng
và năm biến đầu vào là diện tích ao, lao động,
số máy quạt nước, độ sâu của ao và chi phí
hoạt động. Điều tra được thực hiện bởi tiến sĩ
Phạm Xuân Thủy trong năm 2004 và được sử
dụng một phần trong đề tài tiến sĩ “Xây dựng mô
hình nuôi tôm thâm canh tại Khánh Hòa”[4. Tuy
nhiên, phương pháp mà tiến sĩ Phạm Xuân
Thủy và tác giả áp dụng là hoàn toàn khác nhau
bởi vì tiến sĩ Phạm Xuân Thủy áp dụng phương
pháp tham số, tác giả áp dụng phương pháp phi
tham số.
Dữ liệu phục vụ cho phân tích hiệu quả kỹ
thuật theo mô hình phân tích màng dữ liệu (DEA)
tối thiểu hóa đầu vào trong trường hợp quy mô
không ảnh hưởng đến kết quả sản xuất được
trình bày như ở bảng 1.
Bảng 1. Một số giá trị thống kê của các biến dùng trong phân tích
Biến Lớn nhất Nhỏ nhất Trung bình
Độ lệch
chuẩn
Đầu ra
Kích cỡ tôm (gram/con) 65,00 30,00 43,56 8,21
Tổng sản lượng (kilogram) 8.000,00 100,00 1.322,34 1.394,77
Đầu vào sản xuất
Diện tích ao (ha) 4,70 0,08 0,86 0,78
Lao động (người/vụ) 6,00 1,00 2,94 1,33

Máy quạt nước (cái) 4,00 2,00 2,41 0,56
Độ sâu của ao (m) 2,00 0,70 1,13 0,28
Chi phí hoạt động
(triệu đồng/vụ)
270,00 4,50 47,82 53,52
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích màng dữ liệu (DEA)
là phương pháp tiếp cận ước lượng giới hạn
khả năng sản xuất. Tuy nhiên, khác với phương
pháp phân tích biên ngẫu nhiên (schochastic
frontier) sử dụng phương pháp kinh tế lượng
(econometrics), DEA dựa theo phương pháp
chương trình phi toán học (the non –
mathematical programming method) để ước
lượng giới hạn khả năng sản xuất dựa trên các
quan sát thực tế. Mô hình DEA đầu tiên được
phát triển bởi Charnes, Cooper, và Rhodes vào
năm 1978.
Có hai phương pháp tiếp cận ước lượng
giới hạn khả năng sản xuất là: phân tích màng
dữ liệu trong trường hợp qui mô không ảnh
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản, số 4/2009
72
hưởng đến kết quả sản xuất (Constant Return
to Scale - CRS) và phân tích màng dữ liệu trong
trường hợp qui mô ảnh hưởng đến kết quả sản
xuất (Variable Return to Scale -VRS). Cả hai mô
hình CRS và VRS đều được xây dựng với giả
thiết tối thiểu hóa các yếu tố đầu vào và tối đa
hóa đầu ra. Trong bài báo này, tác giả chỉ dùng

mô hình CRS, mô hình VRS không được sử
dụng vì lý do không gian bài báo có hạn. Trong
mô hình CRS, tác giả chỉ đo lường hiệu quả kỹ
thuật tối thiểu hóa các yếu tố đầu vào mà không
làm giảm sút yếu tố đầu ra vì một số lý do sau đây:
- Hầu hết qui mô trại nuôi tại thành phố Nha
Trang đều có qui mô nhỏ, đa phần người nuôi
đều nghèo và họ thường phải đi vay vốn từ
nguồn vốn ưu đãi của chính phủ để nuôi trồng
thủy sản. Chính vì vậy, người nuôi muốn giảm
các yếu tố đầu vào nhiều đến mức có thể, họ
không có đủ tài chính để tăng các yếu tố đầu ra.
- Nha Trang là một trong những vịnh đẹp
nhất thế giới. Vì vậy chính sách của chính
quyền thành phố Nha Trang là giảm các yếu tố
đầu vào hơn là tối đa hóa đầu ra vì tối đa hóa
đầu ra dễ dẫn đến tình trạng người nuôi tiến
hành nuôi ồ ạt, nằm ngoài qui hoạch của chính
quyền, gây ô nhiễm môi trường.
Hình 1. Mô hình phân tích màng dữ liệu tối thiểu hóa đầu vào
Mô hình phân tích màng dữ liệu tối thiểu
hóa đầu vào với mô hình đơn giản 2 đầu vào x1,
x2 và 1 đầu ra q được trình bày như hình 1. Các
trại nuôi đạt hiệu quả kỹ thuật là những trại nuôi
nằm trên đường SS’. Vì vậy C và D là những
điểm đạt hiệu quả kỹ thuật. Điều đó có nghĩa là,
A và B là những điểm không đạt hiệu quả kỹ
thuật. Sự không hiệu quả kỹ thuật của trại nuôi
A được trình bày bởi khoảng cách OA’/OA và
nó nhỏ hơn 1 và tương tự sự không hiệu quả

của trại nuôi B được trình bày bởi khoảng cách
OB’/OB và nó nhỏ hơn 1. Điều này có nghĩa là
trại nuôi có thể giảm sử dụng 2 đầu vào đối với
trại A là từ A đến A’, và trại B là từ B đến B’ mà
không giảm đầu ra.
Hệ số hiệu quả kỹ thuật theo mô hình phân
tích màng dữ liệu (DEA) tối thiểu hóa đầu vào
trong trường hợp qui mô không ảnh hưởng đến
kết quả sản xuất luôn nằm trong khoảng từ 0
đến 1. Một trại nuôi đạt hiệu quả kỹ thuật nếu hệ
số hiệu quả kỹ thuật là bằng 1.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản, số 4/2009
73
Giả sử có dữ liệu của I trại nuôi, mỗi trại sử
dụng N đầu vào và M đầu ra. Với trại nuôi thứ i
dữ liệu về đầu vào được thể hiện bằng véc tơ
cột xi và đầu ra được diễn tả bằng véc tơ cột qi.
Như vậy số liệu đầu vào của tất cả các trại nuôi
được thể hiện bằng ma trận X (N hàng, I cột),
số liệu đầu ra của tất cả các trại nuôi (I trại nuôi)
được thể hiện bằng ma trận Q (M hàng, I cột).
Trong trường hợp này việc ước lượng hiệu quả
kỹ thuật của trại nuôi thứ i được mô tả qua bài
toán sau:
Trong đó,

là một trị số vô hướng và


một vec tơ hằng số (I x 1). Giá trị của


thu
được chính là hệ số đo lường mức độ hiệu quả
hoạt động của trại thứ i,

thỏa mãn điều kiện

< 1; theo Farrell (1957) khi

= 1 thì mức
độ hiệu quả của trại thứ i sẽ có vị trí trên đường
giới hạn khả năng sản xuất (frontier); và vì vậy
nó sẽ là trại nuôi hoạt động hiệu quả về mặt kỹ
thuật (technical efficiency). Lưu ý bài toán mô
hình tuyến tính cần giải I lần, mỗi lần cho một
trại nuôi, mỗi giá trị

tương ứng cho một trại
nuôi. [5].
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
 Hệ số hiệu quả kỹ thuật theo mô hình
phân tích màng dữ liệu (DEA) tối thiểu hóa đầu
vào trong trường hợp qui mô không ảnh hưởng
đến kết quả sản xuất nằm trong khoảng từ 0
đến bằng 1. Nếu hệ số này bằng 1 có nghĩa là
trại nuôi đạt hiệu quả kỹ thuật, nhỏ hơn 1 có
nghĩa là trại nuôi chưa đạt hiệu quả kỹ thuật.
Qua bảng 2, chúng ta thấy rằng hiệu quả kỹ
thuật của các trại nuôi tôm sú thương phẩm tại
thành phố Nha Trang biến động từ 0,500 đến

1,000 với giá trị trung bình và độ lệch chuẩn
tương ứng là 0,826 và 0,149. Kết quả này cho
thấy, hiệu quả kỹ thuật trung bình của các trại
nuôi tôm sú thương phẩm tại Nha Trang là
0,826 và trại nuôi kém hiệu quả nhất có hiệu
quả kỹ thuật trung bình là 0,500. Điều này chỉ ra
rằng các trại nuôi có hiệu quả kỹ thuật nhỏ hơn
1 nên tiến hành giảm thiểu các yếu tố đầu vào
hơn nữa để góp phần giúp cho trại nuôi đạt hiệu
quả kỹ thuật.
Bảng 2. Hiệu quả kỹ thuật của các trại nuôi tôm sú thương phẩm
tại thành phố Nha Trang, Khánh Hòa
Chỉ tiêu
Tổng số mẫu 64
Tỷ lệ % các trại nuôi hiệu quả 25
Hiệu quả kỹ thuật (

)
- Trung bình 0,826
- Khoảng biến thiên 0,500 – 1,000
- Độ lệch chuẩn 0,149
 Qua Bảng 2, chúng ta thấy rằng chỉ có
25% số trại nuôi tôm sú thương phẩm tại thành
phố Nha Trang đạt hiệu quả kỹ thuật, còn lại
75% trại nuôi chưa đạt hiệu quả kỹ thuật. Điều
này được thể hiện rõ qua hình 2, chúng ta dễ
nhận thấy rằng có rất ít hiệu quả kỹ thuật của
trại nuôi tôm sú thương phẩm tại Nha Trang
được phân phối tiệm cận với 1. Điều này chứng
minh rằng hầu hết các trại nuôi tôm sú thương

phẩm ở Nha Trang đã sử dụng lãng phí các yếu
tố đầu vào trong trường hợp qui mô không ảnh
hưởng đến kết quả sản xuất. Điều này sẽ góp
phần rất lớn giúp người nuôi tiết kiệm được chi
phí sản xuất các yếu tố đầu vào. Vấn đề đặt ra
,0
,0
,0
,
,








Xx
Qqst
Min
i
i
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản, số 4/2009
74
đối với 75% trại nuôi chưa đạt hiệu quả kỹ thuật
là họ có 3 phương án để giải quyết: thứ nhất là
giảm các yếu tố đầu vào; thứ hai là chuyển sang
nuôi đối tượng khác hoặc nghề khác; thứ ba là
chấm dứt hoạt động. Phương án 1 và phương

án 2 là hai phương án nên được người nuôi và
chính quyền địa phương quan tâm, chú ý,
phương án 3 là phương án cuối cùng để lựa chọn.
H ìn h 2: P h ân p hối h iệ u quả kỹ thuật của các trại n u ô i tôm sú
thư ơ n g phẩm tại th ành phố N h a T ran g, K h ánh H ò a
0.00
0.20
0.40
0.60
0.80
1.00
1.20
P 1
P 5
P 9
P 13
P 17
P 21
P 25
P 29
P 33
P 37
P 41
P 45
P 49
P 53
P 57
P 61
trại n u ô i
hi


u q u

k

th u

t
Hình 2. Phân phối hiệu quả kỹ thuật của các trại nuôi tôm sú thương phẩm
tại thành phố Nha Trang, Khánh Hòa
 Từ kết quả ở bảng 2, chúng ta sử dụng
25% số trại nuôi đạt hiệu quả kỹ thuật để tìm ra
5 yếu tố đầu vào hiệu quả kỹ thuật cho các trại
nuôi tôm sú thương phẩm tại Nha Trang. Kết
quả được thể hiện như bảng 3 với diện tích ao
trung bình là 0,8375 ha với khoảng biến thiên
(range) và độ lệch chuẩn (standard deviation –
SD) tương ứng là 0,08-2,5 và 0,6921; lao động
trung bình là 2,6875 người/vụ với khoảng biến
thiên và độ lệch chuẩn tương ứng là 1-6 và
1,4009, máy quạt nước trung bình là 2,375 cái
với khoảng biến thiên và độ lệch chuẩn tương
ứng là 2-3 và 0,5, độ sâu ao trung bình là 1,1
mét với khoảng biến thiên và độ lệch chuẩn
tương ứng là 0,7-2 và 0,3246 và chi phí hoạt
động trung bình là 76,4875 triệu đồng/vụ với
khoảng biến thiên và độ lệch chuẩn tương ứng
là 4,5-270 và 84,3233. Đây có thể coi như là
tiêu chuẩn kỹ thuật cho phép người nuôi cũng
như chính quyền địa phương tham khảo.

Vấn đề đặt ra đối với những ao nuôi có diện
tích quá lớn tức là sử dụng lãng phí thì người
nuôi nên giảm diện tích bằng cách chia ao thành
ao nuôi và ao chứa. Còn đối với những diện tích
ao nuôi nào quá nhỏ thì người nuôi nên tăng
diện tích lên để góp phần giúp ao nuôi đạt hiệu
quả kỹ thuật. Tương tự như thế, đối với số lao
động, số máy quạt nước, độ sâu của ao nuôi,
chi phí hoạt động nếu sử dụng lãng phí so với
hiệu quả kỹ thuật thì người nuôi nên giảm cho
phù hợp để tiết kiệm chi phí, ngược lại thì người
nuôi nên tăng để đạt được hiệu quả kỹ thuật
của trại nuôi.
Bảng 3. Năm yếu tố đầu vào hiệu quả kỹ thuật cho các trại nuôi tôm sú
thương phẩm tại Nha Trang, Khánh Hòa
Chỉ tiêu
Diện tích
ao (ha)
Lao động
(người/vụ)
Máy quạt
nước (cái)
Độ sâu
ao (mét)
Chi phí hoạt động
(triệu đồng/vụ)
Lớn nhất 2,5 6 3 2 270
Nhỏ nhất 0,08 1 2 0,7 4,5
Trung bình 0,8375 2,6875 2,375 1,1 76,4875
Độ lệch chuẩn 0,6921 1,4009 0,5 0,3246 84,3233

×