Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

NGHIÊN CỨU PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LƯU THÔNG PHÂN BÓN VÔ CƠ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 80 trang )

NGHIÊN CỨU PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LƯU THÔNG PHÂN BÓN
VÔ CƠ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
1-/ TỔ CHỨC LƯU THÔNG PHÂN BÓN VÔ CƠ Ở VIỆT NAM-CÁC
GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN
1.1-/ Tổ chức lưu thông phân bón vô cơ thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch
hoá tập trung
1.1.1. Lưu thông phân bón vô cơ- một bộ phân của hệ thống cung ứng vật
tư kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân
Thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch tập trung ở Việt Nam có thể tính từ năm
1988 trở về trước. Đặc trưng cơ bản của cơ chế này là những vấn đề kinh tế trung
tâm của sản xuất: sản xuất mặt hàng gì, số lượng bao nhiêu, cách thức sản xuất và
sản xuất với giá cả nào, bán cho ai đều do nhà nước chỉ định. Do đó các chính sách
về lưu thông nói chung dược khái quát cô đọng là: thời kỳ độc quyền. Giai đoạn
này được đặc trưng bởi sự tập trung cao độ trong cung ứn vật tư- kỹ thuật. Việc
cung ứng vật tư kỹ thuật được tổ chức theo nguyên tắc ngành. Có nghĩa là:
- Các cơ quan cung ứng và cơ sở vật tư kỹ thụât gắn liền với từng Bộ từng
ngành.
- Việc phân phối sản phẩm có công dụng sản suất-kỹ thuật do các Bộ sản
xuất ra tiến hành
- Việc cung ứng vật tư- kỹ thuật, tức là loĩnh vực lưu thông của các tư liệu
dản xuất, tồn tại chỉ như là quá trình vật chất chứ không phải là lĩnh vực hoạt động
- Chức năng phối hợp liên ngành do uỷ ban kế hoạch nhà nước đảm nhận.
Ưu điểm cơ bản và duy nhất của hệ thống này là khả năng phối hợp chính
xác giữa kế hoạch sản xuất với kế hoạch tiêu thụ, tức là giữa cung ứng sản phẩm ở
cùng một cấp, tập trung ở một Bộ. Tuy nhiên nhược điểm của hệ thống này là : Do
mỗi bộ đều có cơ quan cung ứng riêng của mình, cho nên trên phạm vi cả nước xảy
ra tình trạng vận chuyển ngược chiều nhau, trùng lặp rất nhiều- các bộ đều vận
chuyển vật tư đến các cơ sở của mình trên khắp đất nước, và ngược lại.
Thời kỳ này, sản xuất nông nghiệp được tổ chức dưới hai hình thức: Hợp tác
xã sản xất nông nghiệp (thuộc sở hữu tập thể của nông dân); Nông trường quốc
doanh (thuộc sở hữu Nhà nước). Tuy có hai hình thức sở hữu và hai hình thức tổ


chức khác nhau song cả hai đều phải chịu sự quản lý và chỉ đạo chặt chẽ, thống
nhất của Nhà nước thông qua hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh và chỉ tiêu hướng dẫn.
Các cơ sở sản xuất nông nghiệp muốn sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất
như thế nào, phân phối các sản phẩm làm ra theo tỷ lệ thế nào, các sản phẩm thừa
tiêu thụ ở đâu, với giá bao nhiêu, tất cả đều phải theo sự chỉ đạo của Nhà nước.
Trong thời kỳ này kinh tế hộ nông dân dường như không được quan tâm, người
nông dân làm việc hoàn toàn thụ động theo sự chỉ đạo của ban quản lý hợp tác xã.
Với chủ trương từng huyện phải phấn đấu tự trang trải lấy nhu cầu lương thực trên
địa bàn của huyện mình và kiểm soát hết sức chặt chẽ việc giao lưu các loại nông
sản phẩm từ vùng này sang vùng khác, nên sản xuất nông nghiệp của Việt Nam
trong thời kỳ này chủ yếu là sản xuất lương thực và mang nặng tính tự cấp, tự túc.
Vì có chế như vậy, nên gần như nông dân không gắn bó với đồng ruộng, không
quan tâm đến công việc sản xuất nông nghiệp - các ban quản trị hợp tác xã thì phần
lớn trình độ chuyên môn và quản lý đều yếu kém, tham ô, lãng phí của tập thể, ít
quan tâm đến sản xuất. Nhu cầu phân hoá học trong thời kỳ này (chủ yếu là phân
Urê và phân lân) theo sự tính toán của các cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước là
khoảng 1 triệu tấn một năm (trong đó phân ure khoảng 800.000 tấn, phân lân
khoảng 200.000 tấn). Trong thời kỳ này Chính phủ Việt Nam cũng đã nhờ Chính
phủ Liên xô xây cho nhà máy Supe phốt phát Lâm thao - Phú Thọ chuyên sản xuất
phân lân (100.000 tấn/năm) và Chính phủ Trung quốc xây cho nhà máy phân đạm
Hà Bắc (60.000 tấn/năm), chuyên sản xuất ure và nhà máy phân lân Văn điển. Để
có phân hoá học cung cấp cho sản xuất nông nghiệp, buộc Nhà nước Việt Nam
phải tiến hành nhập phân của nước ngoài. Việc nhập khẩu phân bón trong thời kỳ
này là từ Liên Xô cũ và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông âu, thông qua các nghị
định thư giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ các nước. Theo phương thức này,
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước (nay là Bộ kế hoạch và Đầu tư ) và Bộ tài chính, thay
mặt Chính phủ Việt Nam nhận nợ và thanh toán nợ với nước bạn, sau mỗi kỳ kế
hoạch mà hai bên đã thoả thuận. Việc nhập phân bón theo nghị định thư có điểm
tốt là rất chắc chắn, song lại có nhược điểm rất lớn là phía bạn hàng lúc nào họ
giao lúc đó. Buộc phía Việt Nam cứ phải nhận vì thế thường diễn ra hiện tượng;

lúc sản xuất nông nghiệp cần phân thì không có phân, lúc không cần thì phân lại
về. Phân bón ở Việt Nam được nhập theo Nghị định thư và chủ yếu là của Liên Xô,
với giá thấp hơn giá thị trường Quốc tế. Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam ở thời
kỳ này đang gặp khủng hoảng nặng, kinh tế không phát triển, giá trị đồng tiền Việt
Nam liên tục giảm. Trước tình hình này. Chính phủ chỉ đạo không bán phân bón
bình thường mà áp dụng cơ chế bán đối lưu, gọi là bán theo hợp đồng kinh tế hai
chiều. Điều này có nghĩa là, Nhà nước bán phân bón cho nông dân theo số lượng
tương ứng với số lượng hàng nông sản mà nông dân bán cho Nhà nước (về mặt giá
trị), ở đây lấy tỷ lệ giữa urê và lúa làm tiêu chuẩn. Cơ chế bán phân bón theo hợp
đồng kinh tế hai chiều được chấp nhận là cơ chế có hiệu quả phù hợp với giai đoạn
kế hoạch tập trung bao cấp, vì để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng cho các đối tượng.
Nhà nước cần thiết phải nắm được hàng hoá nông sản trong tay nhằm kìm hãm bớt
sự mất giá đồng tiền trong nước. Nhà nước đã tổ chức ra một bộ máy thống nhất từ
Trung ương đến tận các huyện về quản lý và cung ứng các loại vật tư nông nghiệp
nói chung, phân bón nói riêng cho các hợp tác sản xuất và nông trường quốc doanh
- đó là hệ thống các Công ty vật tư nông nghiệp. Tất nhiên, cũng có một số Công ty
như Công ty chè, cà phê, cao su được phép nhận phân bón trực tiếp từ Trung ương,
không phải thông qua hệ thống Công ty vật tư nông nghiệp các cấp (số này không
nhiều, chỉ chiếm khoảng 10% trong tổng số phân bón được nhập về).Số 90% phân
bón còn lại Nhà nước trực tiếp giao cho Tổng Công ty vật tư nông nghiệp Việt
Nam tiếp nhận và phân phối cho các địa phương (tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương) qua các Công ty vật tư nông nghiệp tỉnh, thành phố, theo chỉ tiêu (từng tỉnh)
đã được Bộ nông nghiệp thoả thuận với Uỷ ban kế hoạch nhà nước và đã được ghi
vào chỉ tiêu kế hoạch của Chính phủ để giao cho các Bộ, các tỉnh và thành phố.
Sau khi nhận được phân bón do Tổng Công ty vật tư nông nghiệp theo chỉ tiêu kế
hoạch - Công ty vật tư nông nghiệp các tỉnh tiến hành phân phối cho các Công ty
vật tư nông nghiệp theo chỉ tiêu Uỷ ban nhân dân tỉnh đã duyệt và uỷ ban kế hoạch
tỉnh đã giao xuống từng huyện trọng tỉnh. Công ty vật tư nông nghiệp huyện (nơi
nào không có Công ty thì phòng nông nghiệp huyện đảm nhận), thực hiện việc
phân phối phân bón xuống cho các xã và các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp theo

chỉ tiêu mà Uỷ ban nhân dân huyện đã duyệt.
1.1.2. Màng lưới cung ứng phân bón vô cơ trong thời kỳ kế hoạch hoá tập
trung
Thời kỳ này: hệ thống cung ứng phân bón do Quốc doanh độc quyền được tổ
chức thành 2 cấp: cấp I (Tổng công ty vật tư nông nghiệp Trung Ương) cung ứng
đến kho cấp II (Tỉnh), Cấp II cung ứng cho cấp III (Cấp III thuộc cấp II quản lý);
Quốc doanh địa phương thực hiện cung ứng 90% nhu cầu phân bón trên địa bàn.
SƠ ĐỒ 1 - MÔ HÌNH CUNG ỨNG PHÂN BÓN VÔ CƠ THỜI KỲ KẾ HOẠCH
HÓA TẬP TRUNG
NƯỚC B N PH N HO HÁ Â Á ỌC TRÊN THẾ GIỚI
QUỐC DOANH CẤP I
NH NÀ ƯỚC VIỆT NAM X Y DÂ ỰNG KẾ HOẠCH
QUỐC DOANH VIỆT NAM CẤP II
QUỐC DOANH VẬT TƯ VIỆT NAM CẤP III
HỢP TÁC XÃ, TẬP ĐOÀN SẢN XUẤT
Nhập khẩu
Giao chỉ tiêu nhập khẩu
SƠ ĐỒ 2 - HỆ THỐNG TỔ CHỨC LƯU THÔNG PHÂN BÓN VÔ CƠ THỜI KỲ
KẾ HOẠCH HOÁ TẬP TRUNG
NHẬP KHẨU
Nh máy phân bónà
Tổng Công ty vật tư Nông nghiệp
Công ty vật tư Nông nghiệp tỉnh
Công ty vật tư Nông nghiệp huyện
Hợp tác xã Nông nghiệp
Nông dân
1.1.3. Vai trò của Nhà nước trong việc tổ chức lưu thông phân bón vô cơ
thời kỳ kế hoạch hoá tập trung.
Nhà nước quản lý tập trung, toàn diện và chặt chẽ. Số lượng và giá cả các loại
vật tư, cung ứng cho ai đều do Nhà nước quy định và giao kế hoạch pháp lệnh. Nhà

nước như là chủ thể sản sản xuất lại như vừa là chủ thể của kinh doanh, “nhà nước mua,
nhà nước bán, lãi Nhà nước thu, lỗ Nhà nước chịu bù”. Trong đó từ năm 1981 về
trước Nhà nước bán vật tư cho nông dân và thu lại bằng tiền. Các công ty cung ứng
phân bón của nhà nước được tổ chức thành một hệ thống với nhiều tầng nấc, cấp
nọ phải bán cho cấp kia theo chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh bắt buộc. Thực chất là
độc quyền cung ứng phân bón; thực hiện một chế độ nghiêm ngặt về cung ứng
phân bón cho người tiêu dùng theo định lượng, định xuất thông qua chế độ tem
phiếu. Tuy nhiên nhìn chung trong thời kỳ này, quan hệ trao đổi được hình thành
theo hướng có lợi cho người sản xuất, Nhà nước chủ trương khuyến khích người
nông dân sử dụng phân bón để nâng cao năng suất và sản lượng cây trồng, Nhà
nước không thực hiện việc tích luỹ trong khâu kinh doanh phân bón.Tỷ giá trao đổi
giữa phân bón và lúa trong giai đoạn này là :
Giá thu mua Giá bán urê Tỷ lệ
Thóc trong HĐ Trong HĐ Thóc/urê
- Đợt điều chỉnh
giá tháng 10/85 :
+ ĐB Bắc bộ 2,5 đ/kg 5,6 đ/kg 2,24
+ ĐB Nam bộ 1,75 đ/kg 5,0 đ/kg 2,85
- Đợt điều chỉnh
giá tháng 10/87:
+ ĐB Bắc bộ 31 đ/kg 62,5 đ/kg 2,0
+ ĐB Nam bộ 25 đ/kg 62,5 đ/kg 2,5
Với chủ trương thống nhất quản lý phân bón, vì thế các trạm kiểm soát mang
tính “ngăn sông cấm chợ” mọc lên như nấm ở khắp nơi, thị trường bị chia cắt theo
ranh giới hành chính; những người kinh doanh, buôn bán phân bón ngoài quốc
doanh bị coi là vi phạm pháp luật và có thể bị xử phạt cả hành chính và kinh tế. Từ
năm 1982 đến 1989 Nhà nước cung ứng vật tư cho nông dân để thu lại nông sản,
gọi là “đối lưu nông sản”. Tỷ lệ trao đổi được quy định tuỳ theo loại vật tư và theo
thời kỳ khác nhau: 1 kg Urea năm 1982-1984 tương ứng với 3 kg lúa, 1 kg phân
lân suppe quy định đổi 0,5-1 kg thóc, 1 kg kali đổi 0,3 kg thóc.

Hạn chế của tổ chức lưu thông phân bón vô cơ thời kỳ là:
Vật tư của Nhà nước bị thất thoát ở nhiều khâu.
Nhà nước không thu lại lượng nông sản tương ứng với số vật tư ứng ra.
- Theo báo cáo của Đoàn thanh tra thu mua nông sản (Quyết định số 315-
ngày 7/11/1987 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) cho thấy:
+ Chỉ trong 2 năm 89-87, 9 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long còn nợ vật tư
theo hợp đồng là 782.046 tấn thóc, tỷ lệ thất thu là 37%.
+ 5 tỉnh miền Bắc là Hải Hưng, Thái Bình, Hà Nam Ninh (cũ), Thanh Hoá,
Nghệ Tĩnh (cũ) còn nợ 213.725 tấn thóc, tỷ lệ thất thu 35,44%.
- Báo Nhân dân số 12.078 ngày 5/8/1987 đăng lại kết quả của các đoàn
thanh tra vật tư cho biết: trong 3 năm 1983-1985, riêng 9 tỉnh Đồng bằng sông Cửu
Long như sau:
+ Vật tư tính ra quy thóc: 3.699.410 tấn.
+ Đã thu được quy thóc: 2.593.218 tấn.
+ Còn lại chưa thu được: 1.106.192 tấn.
Tỷ lệ thất thu 29,9%.
- Như vậy từ 1983-1987, riêng Đồng bằng sông Cửu Long nợ lên tới
1.888.238 tấn thóc, tỷ lệ thất thu khoảng 30%.
- Nguyên nhân do:
a. Cán bộ chiếm dụng:
Theo báo cáo của Uỷ ban Thanh tra tỉnh An Giang từ 1983-1986 thì 5% số
nợ là do cán bộ chiếm dụng, trong đó chủ yếu là cán bộ hợp tác xã, tập đoàn sản
xuất, cán bộ xã. Nhiều cán bộ chiếm dụng vật tư quy ra hàng chục, vài chục tấn
thóc.
b. Do dân nghèo, do thiên tai:
- Uỷ ban Thanh tra tỉnh An Giang cho biết: 50% số nợ là do dân nghèo hoặc
thiên tai nên không có khả năng trả nợ.
- Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Bình trong công văn số 19/TT-UB ngày
19/4/1988 xin Nhà nước xoá nợ 2 năm 1986, 1987 là 24.691 tấn thóc với lý do vụ
chiêm xuân 86 sâu bệnh, rét kéo dài, năng suất giảm (chỉ bằng 70% so với năm

1985), vụ mùa 86 bị cơn bão số 5 gây thiệt hại nặng nền. Vụ chiêm xuân 87 do thời
tiết nóng ấm, sâu bệnh nhiều làm giảm năng suất, sản lượng.
c. Dùng vật tư vào mục đích khác:
Dùng vật tư vào mục đích khác xảy ra phổ biến ở các địa phương. Tình Hà
Sơn Bình (cũ) năm 1986 nhận 38.952 tấn phân đạm tiêu chuẩn của Nhà nước để
thu mua nông sản nhưng đến tỉnh, tỉnh đã giữ lại 3.499 tấn (8.9%); về đến huyện
huyện giữ lại 3.740 tấn (10%) (Báo cáo của đoàn thanh tra vật tư).
d. Tỷ lệ trao đổi có loại, có lúc không phù hợp:
Nhà nước quy định 1kg kali đổi 1,2 kg thóc nhưng nông dân nhiều nơi đề
nghị 0,3-0,4 kg thóc, có nơi đề nghị không thu thóc (chỉ bán thu tiền). Một kg supe
lân quy định đổi 1kg thóc: ở miền Nam nông dân chấp nhận nhưng ở miền Bắc
nông dân đề nghị 0,4-0,5 kg thóc; một số địa phương đề nghị không thu thóc.
e. Tổn thất do hao hụt:
Tổn thất do hao hụt xẩy ra rất lớn. Tổng kết của Uỷ ban khoa học kỹ thuật Nhà
nước về hao hụt phân đạm từ 1984-1986 cho loại phân urea rời như sau:
- Sang mạn tại vùng neo hao 3,4%.
- Vận chuyển đường thuỷ với cự li trên 50 km hao 7,0%.
- Bốc xếp, vận chuyển bằng ô tô với cự li trên 50 km hao 1,9%.
- Bảo quản, bốc xếp tại kho từ 10-25 ngày hao 0,4%.
- Đóng gói hao 2%.
Chỉ riêng 5 công đoạn trên đã hao 14,7%; chưa kể hao hụt trong khâu bảo quản
tại kho hợp tác xã và các khâu khác cho đến khi vật tư đến tay nông dân.
g. Gây căng thẳng về thiếu vật tư, điều hành của Nhà nước trở nên bận rộn:
Do giá vật tư quy định của Nhà nước thấp nên vật tư bị lợi dụng mua đi bán
lại để kiếm chênh lệch. Cũng do giá thấp nên địa phương và các ngành không dám
nhập vật tư ngoài kế hoạch vì nhập theo giá thị trường thế giới, bán theo giá quy
định của Nhà nước, sẽ lỗ vốn lớn. Vật tư lúc nào cũng ở trong tình trạng thiếu
nghiêm trọng, nhiều lúc gây thành “cơn sốt” giá.
Các cuộc họp để xử lý vật tư thiếu thường xuyên diễn ra ở các cấp, các
ngành, từ các cơ quan điều hành cao nhất của Chính phủ như Văn phòng Chính

phủ, Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Bộ Nông nghiệp - Công nghiệp thực phẩm, Bộ
Thương mại, Bộ Tài chính đến các tỉnh, huyện. Chính phủ luôn bị chỉ trích là điều
hành kém, nhiều lần bị Quốc hội chất vấn vì để thiếu vật tư nông nghiệp. Tình hình
trên đã không có lợi cho cả Nhà nước và nông dân.
1.2-/ Tổ chức lưu thông phân bón vô cơ trong giai đoạn chuyển sang cơ chế
thị trường(1990-1999)
1.2.1. Quan điểm của nhà nước về tổ chức quản lý lưu thông phân bón vô
cơ trên thị trường ở Việt nam
Cùng với sự đổi mới chung của cơ chế kinh tế, từ tháng 5-1989 đến nay sự vô
lý trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung trên đã được Đảng và nhà nước ta chủ
trương bãi bỏ và thay vào đó là một chính sách thương mại đã được thay đổi căn
bản: Từ độc quyền chuyển sang tự do hoá lưu thông với nhiều thành phần kinh tế
cìng tham gia mua bán, kinh doanh phân bón đã làm sôi động thị trường phân bón
vô cơ. Tự do lưu thông với đặc trưng cơ bản của nó là thị trường không còn bị chia
cắt theo địa giới hành chính, tình trạng ngăn sông cấm chợ bị xoá bỏ, thị trường
phân bón thông suốt, các thành phần kinh tế cạnh tranh nhau trong kinh doanh;
người nông dân được tự do tìm kiếm nơi nào, tổ chức nào bán phân bón vô cơ rẻ
nhất để mua. Sự giải phóng cơ chế mua bán theo nghĩa vụ, đổi chác, phân phối đã
tạo thuận lợi cho hạch toán kinh doanh, lấy mục tiêu hiệu quả làm động lực đã giúp
cho việc điều hoà cung cầu phân bón tốt hơn, ngưòi nông dân phấn khởi đẩy mạnh
sản xuất. Trong các thành phần kinh tế tham gia tổ chức lưu thông phân bón hiện
nay các doanh nghiệp quốc doanh không còn được bao cấp, không còn độc quyền,
bản thân họ cũng bình đẳng như các thành phần kinh tế khác trong cơ chế mới với
những đặc trưng là: Thị trường bình đẳng thông suốt+ cạnh tranh+ Giá cả thoả
thuận+ Nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Đi đôi với hệ thống cung ứng phân bón
theo hướng tự do lưu thông Nhà nước cũng thực hiện tự do hoá giá cả- có nghĩa là
về cơ bản giá phân bón do thị trường quyết định. Tuy vậy, nhưng để nông dân được
hưởng mức giá bình ổn nhất là khi thời vụ cần có phân bón chăm sóc cây trồng
Nhà nước đang sử dụng quỹ bình ổn giá để hỗ trợ cho kinh doanh phân bón dự trữ
lưu thông một số lượng phân ure nhất định để chủ động bán ra ở thời điểm bình

thường cũng khi thời vụ hoặc ở thời điểm giá cả tăng cao, bảo đảm để nông dân
mua được đạm ure xoay quanh định hướng 1 ure tương đương 2 lúa mà nông dân
đồng bằng Sông Cửu Long và khoảng 1,5 lúa ở đồng bằng sông Hồng đã chấp
nhận.
Bước sang năm 1994, 1995 và đặc biệt là từ năm 1997 với Quyết định
140/TTg(07/3/1997) và quyết định 141/TTg của Thủ tướng Chính phủ đã đánh dấu
một bước đổi mới quan trọng về cơ chế quản lý của nhà nước đối với lĩnh vực lưu
thông, nhập khẩu phân bón. Với việc chỉ định các đầu mối nhập khẩu phân bón,
tuy nhiên các đầu mối nhập khẩu được sàng lọc, giảm bớt số lượng, coi trọng tiêu
chuẩn chất lượng và năng lực thực sự về tài chính, tiếp thị. Đã tạo điều kiện cho
các đơn vị kinh doanh phân bón chủ động giao dịch, ký kết hợp đồng Nhập khẩu
và cung ứng kinh doanh phân bón trên thị trường. Bên cạnh việc quản Nhập khẩu
phân bón vô cơ bằng đầu mối và hạn ngạch (Quyết định 336/CP ngày 06/4/1999
xác định hạn ngạch chỉ là định hướng), Nhà nước còn sử dụng các biện pháp hạn
chế nhập mạnh như tăng thuế suất, áp dụng chế độ phụ thu, cấm các đơn vị không
có đủ các điều kiện về tài chính, mạng lưới cung ứng nhập khẩu phân bón....Đây
chính là các biện pháp nhằm khắc phục tình trạng lãi nhập lỗ bỏ của các đơn vị
kinh doanh cung ứng phân bón vô cơ trên thị trường.
1.2.2. Hệ thống các cơ quan quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực lưu
thông phân bón vô cơ
Như trên đã phân tích, trong tổng khối lượng nhiều triệu tấn phân hoá học
tiêu dùng hàng năm thì sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 65%
nhu cầu về lân, chưa tới 10% nhu cầu về đạm, còn nhiều loại khác thì trong nước
vẫn chưa sản xuất được. Do vậy hàng năm nước ta vẫn phải bỏ ra hàng triệu USD
để nhập khẩu phân bón. Từ nhiều năm nay nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp
quản lý khác nhau, quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch, chỉ định các đơn vị đầu mối
được kinh doanh nhập khẩu; hỗ trợ giá cước vận chuyển phân bón Bắc-Nam lên
Miền núi, cho vay vốn sản xuất, dự trữ thời vụ phân bón với lãi suất ưu đãi... .Tuy
nhiên, những năm gần đây, hệ thống cung ứng phân bón phải đối mặt với những
thử thách to lớn và trải qua mấy nấc thăng trầm tương ứng với những phương sách

quản lý khác nhau của nhà nước. Có thể khẳng định trong cơ chế thị trường, không
thể thiếu vai trò quản lý vĩ mô, kế hoạch định hướng của nhà nước và sự phối hợp
đồng bộ của các cấp, các ngành với vấn đề quản lý và điều tiết phân bón vô cơ ở
nước ta. Công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực nhập khẩu và kinh doanh phân
bón vô cơ phải nhằm mục tiêu đưa việc nhập khẩu và kinh doanh phân bón vào nề
nếp, nhằm cung ứng đủ và kịp thời phân bón vô cơ trực tiếp đến hộ nông dân phục
vụ sản xuất với giá cả hợp lý, gắn việc cung ứng vật tư, dịch vụ (trước hết là phân
bón ) với việc thu mua lúa hàng hoá của nông dân thành một hệ thống bảo đảm sự
quản lý và điều hành của Nhà nước. Cụ thể là:
* Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm xây dựng kế
hoạch cân đối Cung- cầu phân bón trong từng vụ, của từng miền trong cả nước,
cùng Bộ thương mại theo dõi và kiểm tra tiến độ hàng về, tình hình Cung ứng và
giá cả phân bón trong cả nước, đề xuất ý kiến điều chuyển kịp thời lượng phân bón
cần nhập khẩu hàng năm phục vụ sản xuất nông nghiệp trình Chính phủ quyết
định.
* Bộ Công nghiệp thông báo việc sản xuất phân bón vô cơ trong nước hàng
năm và quy hoạch tổng thể chiến lược phát triển ngành sản xuất phân bón đến năm
2000 và 2010 theo hướng tăng nhanh sản xuất trong nước thay thế dần nhập khẩu với
hình thức tự vay vốn hoặc liên doanh để sản xuất phân bón.
* Bộ Thương mại chịu trách nhiệm, điều hành nhập khẩu phân bón theo kế
hoạch chung và cân đối của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chỉ định doanh
nghiệp nhập khẩu phân bón, thông báo chỉ tiêu nhập khẩu cho từng doanh nghiệp.
Từ đó Chủ tịch UBND tỉnh thành phố thông báo doanh nghiệp cho Bộ Thương mại,
Cục Hải quan, Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch đầu tư, các doanh nghiệp được thông báo
làm thủ tục nhập khẩu tại cơ quan Hải Quan.
* Ngân hàng Nhà nước Việt nam cùng Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ
nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định việc quản lý, sử dụng tiền bán hàng
của các doanh nghiệp nhập khẩu để đảm bảo thanh toán với nước ngoài khi đến
hạn. Khi được Chính phủ phê duyệt hạn ngạch nhập khẩu phân bón, Ngân hàng
Nhà nước Việt nam chỉ đạo các ngân hàng Thương mại bảo lãnh cho các doanh

nghiệp được chỉ định nhập khẩu phân bón vay trả chậm nước ngoài và được lấy giá
trị hàng hoá phân bón nhập khẩu làm bảo đảm và ký quỹ với mức thấp nhất theo
quy định của Ngân hàng nhà nước Việt nam. Đối với một số doanh nghiệp được
giao nhập khẩu số lượng phân bón lớn để điều hoà cung cầu, bình ổn giá trong
nước, ngoài quy định chung, Ngân hàng cho vay và bảo lãnh theo số lượng phân
bón nhập cụ thể của từng doanh nghiệp để các doanh nghiệp thực hiện được chỉ
tiêu đã giao. Trường hợp có khó khăn về vốn, Bộ kế hoạch đẩu tư, Bộ Tài chính
cân đối trình Thủ tướng chính phủ cho phép sử dụng từ nguồn quỹ dự trữ ngoại tập
trung của Nhà nước để cho vay nhập phân bón.
*Ban vật giá Chính phủ, tuỳ từng trường hợp là cơ quan xác định mức trọ
giá cho từng mặt hàng, từng địa phương, xác định mức giá bán tối đa “giá trần”
cho từng mặt hàng.
*Tổng công ty Vật tư nông nghiệp chịu trách nhiệm: ngoài việc thực hiện
đầy đủ trách nhiệm như các doanh nghiệp khác còn phải từng bước tổ chức lại
mạng lưới bán buôn, đại lý bán phân bón trực tiếp đến nông dân, quản lý chặt chẽ
quỹ dự trữ lưu thông tư liệu sản xuất phân bón được nhà nước giao, chịu trách
nhiệm đảm bảo dự trữ lưu thông tư liệu sản xuất bằng ngoại tệ và bằng hiện vật
cho 3 miền Bắc, Trung, Nam, theo quy định; khi xảy ra đột biến giá và mất cân đối
quan hệ Cung- cầu phải kịp thời đưa lực lượng dự trữ lưu thông tư liệu sản xuất
can thiệp thị trường theo chỉ đạo của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn và Bộ
Thương mại nhằm ổn định Cung- cầu và giá phân bón trong cả nước.
*Đối với các loại phân hoá học là nguyên liệu sản xuất phân bón tổng hợp,
Bộ Thương mại thống nhất với Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ công
nghiệp, cho phép một số doanh nghiệp bảo đảm nhập đủ nguồn nguyên liệu cung
ứng cho các cơ sở sản xuất phân bón trong nước đã được Bộ công nghiệp cấp giấy
phép sản xuất và Bộ khoa học công nghệ và môi trường cấp giấy chứng nhận chất
lượng hàng hoá. Bộ công nghiệp rà soát, chấn chỉnh lại các doanh nghiệp sản xuất
phân bón tổng hợp, nhằm mục đích bảo đảm chất lượng hàng hoá và cân đối Cung-
cầu về phân bón tổng hợp.
*Ban chỉ đạo để điều hành hoạt động xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón

do một thứ trưởng Bộ Thương mại làm trưởng ban, bao gồm đại diện của Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ tài chính, Ngân hàng nhà nước, Tổng cục Hải
quan, một số tỉnh có sản lượng lúa hàng hoá lớn và hiệp hội XNK lương thực Việt
Nam.
SƠ ĐỒ 3 - CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ VÀ ĐIỀU TIẾT PHÂN BÓN VÔ CƠ THỜI
KỲ ĐỔI MỚI CƠ CHẾ KINH TẾ.
Nước bán phân bón trên thế giới
Các đầu mối nhập khẩu được chỉ định
CỬA H NG À ĐẠI LÝ B N LÁ Ẻ
TỔ CHỨC TRUNG GIAN PH N BÓNÂ
NÔNG D NÂ
Bộ công nghiệp
Bộ Nông nghiệp & PTNT, Bộ Thương mại
BỘ TÀI CHÍNH
NGÂN HÀNG
TỈNH TP
HẢI QUAN
VẬT GIÁ
BỘ KHĐT
Bộ KHCN-MT
1.2.3. Hệ thống cung ứng phân bón vô cơ thời kỳ đổi mới cơ chế kinh tế
Từ năm 1992 cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cơ chế kinh doanh
phân bón mang tính độc quyền, nhiều tầng nấc, giá cả áp đặt được xoá bỏ. Hệ
thống phân phối theo ngành dọc từ cấp I tới cấp III đã mất tác dụng. Thay vào đó
là nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh phân bón trên thị trường nội
địa để cung ứng cho người sản xuất. Quốc doanh địa phương chỉ cung ứng 20-
30%. Có thể nói hệ thống cung ứng được mở rộng, tư nhân tham gia cung ứng
phân bón ngày càng nhiều, phân bón không còn “chạy” vòng vèo như trước đây
mới tới được tay người sản xuất.
SƠ ĐỒ 4 - MÔ HÌNH CUNG ỨNG PHÂN BÓN HOÁ HỌC THỜI KỲ ĐỔI

MỚICƠ CHẾ KINH TẾ.
NƯỚC B N PH N HO HÁ Â Á ỌC TRÊN THẾ GIỚI
C C Á ĐẦU MỐI NHẬP KHẨU
BỘ NÔNG NGHIỆP V PH T TRIÀ Á ỂN NÔNG THÔN
CÁC TỔ CHỨC TRUNG GIAN CUNG ỨNG PHÂN
Cửa h ng đà ại lý bán lẻ
NÔNG D NÂ
1.2.4. Các chính sách và công cụ quản lý, điều tiết lưu thông phân bón vô
cơ của Nhà nước (1990-1999)
1.2.4.1 Phân phối, giá cả, kế hoạch hoá
Từ năm 1990 đến nay, đã có những thay đổi cơ bản và chính điều này đã tạo
nên một bước ngoặt mới trong hoạt động lưu thông phân bón vô cơ. Sự thay đổi
này biểu hiện trên các mặt sau:
- Điều hành giá bán hợp lý hơn: Trước kia giá bán do Nhà nước quy định và
thường là rất thấp so với giá thị trường tự do, thì nay:
+ Phân bón nhập từ các nước xã hội chủ nghĩa được bán theo giá không
bị lỗ.
+ Phân bón nhập từ các nước khác được phép bán với giá nông dân chấp
nhận được.
- Bỏ việc dùng phân bón để trao đổi nông sản và thay vào đó là bán thu bằng
tiền.
- Cải tiến cách giao kế hoạch: chỉ tiêu kế hoạch nhập khẩu, cung ứng chỉ có
tính chất hướng dẫn, không phải là kế hoạch pháp lệnh như trước.
Đó là 3 vấn đề có tính chất quyết định đến tổ chức lưu thông phân bón. Có
thể nói rằng năm 1990 là năm bắt đầu có bước ngoặt trong cơ chế quản lý vụ phân
bón.
1.2.4.2./ Các chính sách khác:
1.2.4.2 1 Trợ giá phân bón vô cơ
Chủ trương: trước kia khi phân bón vô cơ được cung ứng theo kế hoạch, giá
bán được thống nhất trong cả nước. Từ năm 1989-1990 phân bón vô cơ được bán

theo cơ chế thị trường nên có sự chênh lệch về giá giữa các vùng xa và vùng gần
trong đó chủ yếu là các vùng miền núi do đường xa, lại xấu nên chi phí vận tải lớn,
giá phân bón bán đến nông dân cao hơn vùng xuôi. Để khắc phục tình trạng này,
đảm bảo cho giá các vùng tương đối thống nhất Nhà nước đã có chính sách bù giá
cho các vùng này.
Trong các năm 1991,1992,1993 Nhà nước cũng đã có trợ giá cước phân bón
cho các tỉnh miền núi, thể hiện trong các văn bản sau:
a. Ngày 9 tháng 8 năm 1991, Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng đã có thông
báo số 2598/PPLT về việc trợ cấp cước phí vận chuyển phân đạm lên các tỉnh miền
núi với nội dung chủ yếu là:
- Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đồng ý trợ cấp cước phí vận chuyển phâm
đạm từ cảng nhập khẩu đến kho trung tâm của các tỉnh miền núi để đảm bảo giá
bán phân đạm tại tỉnh miền núi bằng giá bán tại các tỉnh đồng bằng và trung du.
- Bộ Tài chính trợ cấp trực tiếp cho Tổng công ty vật tư nông nghiệp thuộc
Bộ nông nghiệp - CNTP theo quyết toán vận chuyển thực tế.
- Việc trợ cấp này được thực hiện từ vụ đông xuân 1991-1992.
b. Ngày 10-7-1992, Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng lại có công văn về việc
trợ cấp cước phí vận chuyển lên các tỉnh miền núi.
c. Ngày 7-12-1993, Uỷ ban vật giá Nhà nước đã có quyết định số 38-
VGCP/NTS về mức trợ cước vận chuyển phân lân hữu cơ vi sinh từ kho doanh
nghiệp sản xuất đến kho trung tâm các tỉnh miền núi.
d. Ngày 25-3-1994, Văn phòng Chính phủ có văn bản số 1497/KTTH thông
báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ về việc trợ cước vận chuyển phân lân vào
phía Nam như sau:
+ Năm 1994 tiếp tục thực hiện việc trợ cấp một phần cước vận chuyển phân
lân do các xí nghiệp sản xuất ở phía Bắc đưa vào phía Nam theo nguyên tắc Nhà
nước sẽ bù phần chênh lệch giữa giá vốn phân lân vận chuyển vào đến ga trung
chuyển ở phía Nam và giá thị trường hình thành ở trong đó. Ban Vật giá Chính phủ
và Bộ Tài chính chính xác định một số trạm trung chuyển cho phù hợp ở phía
Nam.

Việc trợ cước các năm này chủ yếu chỉ cho 15 tỉnh miền núi trong đó có 11
tỉnh miền núi phía Bắc và 4 tỉnh Tây Nguyên. Chi phí trợ cước được giao cho
ngành hàng (Tổng công ty Vật tư nông nghiệp hoặc Tổng công ty phân bón và hoá
chất cơ bản).
d. Ngày 15-4-1994 Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 1960/KTTH về
một số chính sách đối với việc đưa hàng hoá lên miền núi phục vụ đồng bào các
dân tộc trong đó ghi rõ:
- “Nhà nước thực hiện trợ giá và trợ cước vận chuyển đối với 7 mặt hàng:
muối i ốt, thuốc chữa bệnh, dầu hảo thắp sáng, giấy viết học sinh, vải mặc phục vụ
đồng bào dân tộc và phân bón, thuốc trừ sâu”.
- Cự ly trợ cước được áp dụng như sau: Đối với vải mặc phục vụ đồng bào
dân tộc và phân bón, thuốc trừ sâu tính từ kho giao hàng của các doanh nghiệp
thuộc trung ương quản lý đến trung tâm các huyện.
- Từ nay kinh phí trợ cước từng mặt hàng được cấp trực tiếp cho Uỷ ban
nhân dân các tỉnh theo chế độ “kinh phí uỷ quyền” (trừ muối iốt, việc trợ giá thông
qua chương trình quốc gia về chống bướu cổ do Bộ Y tế chủ trì).
- Giao cho Uỷ ban dân tộc và miền núi chủ trì cùng các ngành liên quan thực
hiện.
Đây là chủ trương toàn diện về trợ cước (kể cả cho không) nhiều mặt hàng
cho đồng bào miền núi.
e. Ngày 17-5-1994, Uỷ ban dân tộc và miền núi có văn bản số 290/UB-TH
về việc thực hiện đưa hàng lên miền núi theo Quyết định trên của Thủ tướng Chính
phủ.
+ Uỷ ban dân tộc và miền núi là cơ quan phối hợp chung, chịu trách nhiệm
về việc tổ chức thực hiện, xác định vùng cao, miền núi, dân số, cự li, để làm căn cứ
tính toán.
+ Uỷ ban kế hoạch Nhà nước cân đối, xác định lượng hàng hoá đưa lên miền
núi.
+ Ban vật giá Chính phủ xác định mức trợ giá cho từng mặt hàng, từng địa
phương, xác định mức giá bán tối đa “giá trần” cho từng mặt hàng.

+ Bộ Tài chính xác định phương án cấp phát kinh phí uỷ quyền.
+ Uỷ ban Nhân dân các tỉnh miền núi và các tỉnh có miền núi tổ chức lưu
thông, cung ứng đủ hàng thiết yếu đến tận tay đồng bào theo giá quy định, chịu
trách nhiệm triển khai đầy đủ chính sách trợ giá, cấp phát không thu tiền cho đồng
bào theo quy định của Chính phủ.
f. Ngày 16/7/1994, Ban vật giá Chính phủ đã có quyết định số 18/VGCP-
KHCS về mức trợ cước vận chuyển muối i ốt, thuốc chữa bệnh, giấy viết học sinh,
vải, dầu hoả, phân bón, thuốc trừ sâu đến trung tâm tỉnh, huyện, cụm xã thuộc các
tỉnh miền núi, trong đó ghi rõ:
Căn cứ tình hình cung cầu, giá cả thị trường tại địa phương và tiền hỗ trợ về
cước vận chuyển Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định hoặc hướng dẫn các doanh nghiệp
quy định giá bán lẻ các mặt hàng được trợ giá nhưng không vượt mức giá bán lẻ tối
đa tại địa phương do Nhà nước quy định hoặc hướng dẫn.
Tại văn bản này Ban vật giá Chính phủ cũng đã quy định 1202 mức trợ cước
khác nhau cho 39 tỉnh, thành phố. Mức trợ cước cao nhất là 1.025.000 đồng/tấn
cho vận chuyển thuốc bảo vệ thực vật lên huyện Mèo Vạc của tỉnh Hà Giang và
mức thấp nhất là 28.500 đồng/tấn cho việc vận chuyển phân bón từ tỉnh đến trung
tâm huyện Ninh Hải thuộc tỉnh Ninh Thuận.
g. Ngày 27-7-1994, Ban vật giá Chính phủ đã có văn bản số 21/VGCP-NTS
về việc trợ cước vận chuyển phân bón, thuốc bảo vệ thực vật.
h. Ngày 25-8-1994, Ban vật giá Chính phủ đã có văn bản số 02/VGCP-NTS
về việc hướng dẫn thực hiện quyết định số 18/VGCP-KHCS.
i. Ban vật giá Chính phủ đã có các văn bản số 41 và 42/VGCP-NTS ngày 5-
10-1994 về việc trợ cước vận chuyển phân vi sinh từ kho Nhà máy phân lân vi sinh
Thanh Ba (Vĩnh Phú) đến trung tâm các huyện miền núi Vĩnh Phú và các huyện
của một số tỉnh miền núi; văn bản số 46, 47, 48/VGCP-NTS ngày 13/10/1994 về
việc trợ cước vận chuyển phân vi sinh từ kho Nhà máy phân vi sinh Quảng Trị và
Quảng Ngãi và các tỉnh Tây Nguyên; văn bản số 66/VGCP-NTS ngày 30/11/1994
về việc trợ cước vận chuyển phân bón nhập khẩu tại kho bán hàng của Công ty vật
tư kỹ thuật nông nghiệp tỉnh Phú Yên đến trung tâm các huyện miền núi vùng Tây

Nguyên.
Kinh phí:
+ Năm 1994 đã trợ cước kế hoạch khoảng 60 tỷ đồng, trong đó:
- Trợ cước 200 nghìn tấn phân bón cho các tỉnh miền núi khoảng 30 tỷ
đồng.
- Trợ cước vận chuyển 300 nghìn tấn phân lân đi vào Nam khoảng 29,2
tỷ đồng.
+ Năm 1995 trợ cước cho 500 nghìn tấn với tổng kinh phí khoảng 79 tỷ
đồng, trong đó:
- Trợ cước 232.000 tấn phân bón cho các tỉnh miền núi khoảng 49 tỷ đồng
(bình quân khoảng 211 đồng/kg).
- Trợ cước vận chuyển 282.000 tấn phân lân đi vào Nam khoảng 29,5 tỷ
đồng.
Tổng số có 39 tỉnh được trợ cước với diện tích canh tác 3,2 triệu ha. Chính
sách trợ cước đã có tác dụng tốt, khuyến khích đồng bào các dân tộc miền núi
trong sản xuất nông nghiệp.
Tuy vậy việc thực hiện trong 2 năm 1994-1995 có những tồn tại sau:
- Định mức phân bón sử dụng: hiện nay chỉ tính bình quân khoảng 72-100 kg
phân bón các loại cho một ha gieo trồng và cây lâu năm. Với cách tính này thì các tỉnh
có các cây trồng yêu cầu thâm canh cao như cao su, chè, cà phê sẽ không đủ phân bón.
Các tỉnh khác có mức độ thâm canh thấp thì tạm đủ.
Do vậy các tỉnh ở Tây Nguyên thường có nhu cầu rất lớn, chỉ đáp ứng được
40% nhu cầu.
Về cấp kinh phí: Tuy chủ trương của Nhà nước cấp theo “kinh phí uỷ
quyền” nhưng theo cách cân đối ngân sách hiện nay trên địa bàn tỉnh nên nhiều địa
phương vì không thu đủ nên đã không chỉ đủ theo yêu cầu kế hoạch cho trợ cước.
Do vậy đề nghị Nhà nước nên bán giá vật tư bình thường còn phần kinh phí
này nên trợ cấp cho vùng khó khăn.
1.2.4.2 2 Vấn đề dự trữ
Năm 1991, Chính phủ đã quyết định cho dự trự 7 vạn tấn urêa. Năm 1994

Chính phủ đã nâng mức dự trự lưu thông lên 10% tổng số phân bón sử dụng trong
năm. Với mức dự trữ nhu vậy có thể ổn định được phân bón khi thị trường có đột
biến. Ngoài ra, năm 1997, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn lập quỹ dự trữ lưu thông phân bón với số lượng 100.000 tấn
ure theo cơ chế nhà nước cấp vốn lưu động hoặc doanh nghiệp làm nhiệm vụ dự
trữ vay vốn ngân hàng để thực hiện, Ngân sách Nhà nước cấp bù lãi suất. Số lượng
phân ure dự trữ này đã có tác dụng rất lớn trong việc cân đối Cung- cầu , bình ổn
giá cả phân bón trong cả nước.
2-/ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LƯU THÔNG PHÂN BÓN VÔ CƠ Ở VIỆT
NAM TRONG GIAI ĐOẠN CHUYỂN SANG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
(1990-1999)
2.1-/ Cầu phân bón vô cơ trên thị trường Việt nam và xu hướng vận động
2.1.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu phân bón vô cơ
Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển hoàn hảo, có nền nông
nghiệp phát triển cao, cơ cấu các loại cây trồng tương đối ổn định thì nhu cầu phân
vô cơ của người nông dân chủ yếu phụ thuộc vào thu nhập của người nông dân,
song ở Việt Nam nhu cầu phân vô cơ hiện tại còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố đó là:
Thứ nhất, phụ thuộc vào sự phát triển của diện tích gieo trồng.
Việt Nam chỉ có khoảng 7 triệu ha đất nông nghiệp, song do Việt Nam nằm
trong vùng nhiệt đới gió mùa, mưa nhiều, nắng cũng nhiều, thời tiết nóng ẩm
quanh năm. Các loại cây ngắn ngày, nếu giải quyết vấn đề tưới tiêu nước, vấn đề
phòng trừ sâu bệnh... thì có thể làm cho diện tích gieo trồng của đất nước tăng lên
qua từng năm. Việt Nam còn 3 triệu ha đất có khả năng nông nghiệp có thể khai
hoang để chuyển thành đất nông nghiệp, song thực ra diện tích đất khai hoang chỉ
đủ cho diện tích đất nông nghiệp bị mất đi hàng năm do chuyển sang đất xây dựng
cơ bản, vì thế diện tích gieo trồng tăng chủ yếu là do tăng vụ mà có.
Theo con số thống kê thì năm 1999 so với năm 1989 diện tích gieo trồng của
Việt Nam đã tăng lên 2.932.800 ha, bình quân mỗi năm tăng lên khoảng
276.114ha. Trong đó cây hàng năm tăng 1.415.000 ha. Bình quân mỗi năm tăng
201.142ha, diện tích tăng này chủ yếu là do tăng vụ mà có, cây lâu năm tăng

518.200ha. Trong số này cây công nghiệp lâu năm tăng 402.900ha (chủ yếu là do
khai hoang trồng mới) và cây ăn quả tăng 63.000 ha (chủ yếu là do cải tạo các
vườn tạp mà có).
Giả thiết rằng, các điều kiện khác không có gì thay đổi thì chính việc tăng
diện tích gieo trồng đã làm cho nhu cầu phân vô cơ tăng lên, 1ha một năm cần
khoảng 200 kg các loại phân vô cơ. Riêng việc tăng diện tích mỗi năm cũng làm
cho nhu cầu phân bón vô cơ tăng thêm 55.228 tấn.
Thứ hai, phụ thuộc vào loại cây trồng.
Tập đoàn cây trồng của Việt Nam hết sức phong phú đa dạng: có cây lương
thực, cây công nghiệp, cây rau đậu, cây ăn quả, cây dược liệu, cây thức ăn cho gia
súc. Song trong từng loại cây có hàng chục, hàng trăm loại cây cụ thể. Ví dụ, riêng
cây lương thực ở Việt Nam đã có các loại: lúa , ngô, khoai, sắn, đỗ ..(trừ đỗ tương),
đồng thời cũng có thể tính cả cây khoai tây nữa.
Trong tập đoàn cây trồng đó, không phải cây nào người nông dân Việt Nam
cũng dùng phân bón vô cơ để bón trong quá trình sản xuất. Thực tiễn sự phát triển
của nền nông nghiệp Việt Nam mấy chục năm vừa qua đã cho thấy, phân bón vô cơ
hầu như 80% là dùng bón cho cây lúa, các loại cây trồng khác, chỉ bón có 20% mà
thôi (các cây này chủ yếu là caphê, chè, mía, rau, hoa). Các loại cây còn lại người
ta thường dùng phân xanh, phân chuồng, phân rác.Tất nhiên, như thế không có
nghĩa là các loại cây trồng khác không cần dùng phân vô cơ, rất cần song vì khả
năng có hạn, nên trước hết người ta phải ưu tiên cho các loại cây trồng giữ vai trò
chủ yếu (bảo đảm an ninh lương thực Quốc gia, tạo ra hàng hoá lớn phục vụ cho
xuất khẩu ...).
Bởi vậy, khi khả năng đầu tư của người nông dân ngày một tăng thì các loại
cấy trồng được bón phân vô cơ cũng sẽ được mở rộng thêm và như vậy nhu cầu
phân vô cơ sẽ tăng.
Thứ ba, phụ thuộc vào thu nhập của người nông dân
Về mặt lý thuyết thì dường như người nông dân nào của Việt Nam cũng hiểu
được rằng, muốn nâng cao năng suất cây trồng phải có sự đầu tư thoả đáng, đặc
biệt là đầu tư phân bón. Song với một đất nước 80% dân số sống ở nông thôn, trên

70% lực lượng lao động của toàn xã hội làm việc trong nông nghiệp nhưng đất
nông nghiệp lại quá ít (tính bình quân đầu người vào loại ít nhất thế giới). Đã thế
lại chịu sự tàn phá nặng nề của 2 cuộc chiến tranh trong suốt 30 năm, do đó người
dân, nhất là nông dân nghèo cho đến nay GDP bình quân ở nông thôn mới đạt
khoảng 200 USD/năm /người, thì nông dân khó có thể đem nhiều tiền để mua phân
bón, bởi lẽ họ còn nhiều nhu cầu khác cần thiết hơn. Theo đánh giá của một số
chuyên gia, người dân nước ta chưa đủ khả năng để dùng phân bón vừa đủ. So với
định mức của Hội phân bón Quốc tế(IFA), mức phân bón cho cây lúa, cam, chè ở
Việt nam chỉ đạt 50%, cho cây cà phê chỉ đạt 70%, khoai sắn chỉ đạt 6- 7%. Mấy
năm gần đây, nhờ thu nhập của người nông dân có tăng lên, do đó việc đầu tư mua
phân bón có khá hơn.
Thứ tư, phụ thuộc vào tập quán sản xuất và trình độ thâm canh của
từng vùng trong nước.
Xuất phát từ điều kiện tự nhiên- kinh tế - xã hội cụ thể, lãnh thổ Việt Nam
được chia thành, vùng kinh tế và sinh thái khác nhau:
- Vùng Trung Du và miền núi Bắc Bộ
- Vùng đồng bằng sông Hồng
- Vùng khu 4 cũ
- Vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ
- Vùng Tây Nguyên
- Vùng Đông Nam Bộ
- Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long
Dưới đây là diện tích cây trồng mỗi vùng .
BIỂU SỐ 3: DIỆN TÍCH CÂY TRỒNG PHÂN THEO VÙNG Ở VIỆT NAM
Đơn vị tính: 1000 ha
Vùng 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Cả nước 8978,2 9040 9409,7 9752 9979,7 10172,4 10496
Miền núi- trung du bắc bộ 1348,2 1314,2 1377,2 1492,1 1521,6 1512,8 1528
Đồng bằng sông Hồng 1475,1 1436 1441,4 1397,3 1412,3 1401,4 1400
Khu 4 cũ 1091,6 1076,6 1078,8 1133 1117,5 1134,3 1141

Duyên hải miền trung 801,7 802 835,8 849,6 867,1 862,8 875
Tây nguyên 457,6 464,7 473,6 500,1 524 533,8 631
Đông nam bộ 838,3 850,9 881,8 935,7 1.000,2 1096,8 1133

×