Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

KẾ HOẠCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH THỜI KỲ 2001-2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.38 KB, 17 trang )

KẾ HOẠCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH THỜI KỲ 2001-2005
I. QUAN ĐIỂM:
Quan điểm 1: Coi chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế vừa là vấn đề cần thiết phảI định
hướng vừa là động lực, là điều kiện để thực hiện các chiến lược về phát triển kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu ngành nói riêng sẽ làm
thay đổi tốc độ tăng trưởng, nếu chuyển dịch cơ cấu theo hướng phù hợp với những điều
kiện về nguồn lực của đất nước như vị trí địa lý, điều kiện tàI nguyên, đặc biệt trong thời
đạI ngày nay là nguồn lực lao động và vốn đầu tư cùng với đó biết tận dụng tốt các yếu tố
bên ngoàI như xu thế hoà bình hợp tác, cách mạng khoa học công nghệ và đặc biệt là xu
thế toàn cầu hoá đang dần trở thành xu thế chủ đạo sẽ thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh,
hiệu quả cao và bền vững.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh,
hiệu quả cao và bền vững. Từ đó chúng ta đưa đất nước ra khỏi tình trạng kếm phát triển,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, văn hoá của nhân dân;tạo nền tảng để đến đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đạI. Từ đó chúng ta có
nguồn lực để công nghiệp hoá hiện đạI hoá, chuyển dịch cơ cấu lao động v.v...và quay trở
lạI cơ cấu nền kinh tế một cách phù hợp với những điều kiện mới của đất nước.
Quan điểm 2: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phảI phù hợp với xu thế phát triển.
* Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đI đôI với thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môI trường.
Phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm, ngành,
lĩnh vực mà nước ta có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu, không
ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài. Tăng nhanh năng
suất lao động xã hội và nâng cao chất lượng tăng trưởng. Triệt để tiết kiệm, chống lãng
phí, tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển.
Tăng nhanh năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng và hiệu
quả giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đạI hoá. Đẩy mạnh việc
ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập khẩu. đI nhanh vào công nghệ hiện đại ở những
ngành những lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ
tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực. Công nghiệp hoá gắn với hiện
đại hóa ngay từ đầu và trong suốt giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức trong


các nhanh tố phát triển kinh tế, từng bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta.
Phát triển kinh tế gắn chặt với bảo vệ và cảI thiện môI trường thiên nhiên,giữ gìn đa
dạng sinh học. Chủ động phòng tránh và hạn chế tác đọng xấu của thiên tai. Coi yêu cầu về
môI trường là một tieu chí quan trọng đánh giá các giảI pháp phát triển.
* Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực, giảI phóng và phát huy mọi nguồn lực
Tiếp tục đổi mới sâu rộng, đồng bộ về kinh tế, xã hội và bộ máy nhà nước hướng vào
hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giảI
phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh vật chất, trí tuệ và
tinh thần của dân tộc, tạo động lực và nguồn lực phát triển nhanh, bền vững.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Tập trung tháo gỡ mọi vướng mắc, xoá bỏ mọi trở
lực để khơI đậy nguồn lực to lớn trong dân, cổ vũ các nhà kinh doanh và mọi người dân ra
sức làm giàu cho mình và cho đất nước. Tiếp tục cảI thiện môI trường đầu tư để thu hút tốt
hơn và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoàI. Nội lực là quyết định, ngoạI lực là
quan trọng, gắn kết với nhau thành nguồn lực tổng hựp để phát triển đất nước.
* Phát triển mạnh những ngành đang có lợi thế về lao động và tàI nguyên cùng với
qúa trình phát triển những ngành công nghệ cao.
Phát triển mạnh những ngành công nghiệp đang có lợi thế về lao động và tàI nguyên,
tạo ra được nhiều việc làm cho người lao động tăng thu ngoạI tệ, góp phần cảI thiện cán
cân thương mại. Đó là nhóm ngành nông sản, thuỷ sản như gạo, cà phê, cao su tự nhiên,
thuỷ sản...và những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như may mặc, da giầy. Lợi
thế của những sản phẩm này đang bị thu hẹp. Do đó càn chú ý nâng cao khả năng cạnh
tranh bằng việc đầu tư và công nghệ cao cho toàn bộ qúa trình từ sản xuất đến chế biến,
bảo quản, vận chuyển và tiêu thụ.
Phát triển những ngành công nghiệp quan trọng, có sức cạnh tranh trong thời gian
tiếp theo như:đIện-đIện tử, cơ khí, công nghệ thông tin. Trong đó công nghệ thông tin phảI
trở thành ngành mũi nhọn trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước.
* Coi trọng thị trường trong nước và nước ngoài
Từ kinh nghiệm của nước ta, các nước trong khu vực và trên thế giới cho thấy chúng
ta phảI coi trọng quan điểm này, đặc biệt với nước ta với dân số tương đối lớn nhưng tiềm

lực kinh tế hạn chế, khả năng cạnh tranh của hàng hoá còn thua kém nhiều nước, nhiều mặt
hàng còn đang thua ngay trên “sân nhà” thì cần áp dụng mô hình hỗn hợp một cách hợp lý,
hiệu quả tránh cực đoan hướng nền kinh tế theo một hướng thuần tuý, phảI vừa phát huy
lợi thế so sánh trong việc phát triển các ngành xuất khẩu, đồng thời phát triển thị trường
trong nước. Tức là chúng ta phảI chuyển dịch cơ cấu hợp lý theo yêu cầu của tiến trình hội
nhập và các thời kỳ khác nhau trong chu kỳ sản phẩm.
Quan điểm 3: Xây dựng cơ cấu phù hợp với xu thế của thế giới
* Hướng hội nhập:
Hiện nay xu thế quốc tế hoá đang tác động đến tất cả các nkt trên thế giới và đang
chuyển sang một hình thức phát triển cao hơn đó là xu thế toàn cầu hoá cùng đó là xu thế
hoà bình hợp tác, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ. Đó là những xu thế
khách quan mỗi quốc gia cần phải biết nắm bắt những cơ hội và đẩy lùi những thách thức
khó khăn. Những thuận lợi chúng ta được tiếp nhận đặc biệt phải kể đến sự chuyển giao
công nghệ tiên tiến và vốn từ nước ngoài, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu cơ cấu, rút
ngắn nhanh khoảng cách với các nước phát triển.
+Trước hết về công nghệ máy móc và công nghệ quản lý: Chúng ta cần lựa chọn hợp
lý những công nghệ, máy móc phù hợp với trình độ khai thác sử dụng và khả năng về vốn
trong điều kiện hiện tại và tương lai, tránh tình trạng nhập những công nghệ quá lạc hậu
hoặc quá cao, giá cả không phù hợp.
+Về vốn: Tạo môi trường đầu tư thông thoáng, đơn giản các thủ tục, phát triển, lành
mạnh hoá các thị trường lôi kéo các nhà đầu tư làm ăn lâu dài tại Việt Nam.
*Hướng công nghệ hoá,hiện đại hoá
Con đường công nghệ hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian,
vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước,
tận dụng mọi khả năng để đạt được trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ
thông tin và công nghệ sinh học; đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá tranh
thủ ngày càng nhiều hơn những thành tựu về khoa học công nghệ, từng bước phát triển
kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ về
đường lối, chính sách; có kết cấu hạ tầng hiện đại và có một số ngành công nghiệp nặng

then chốt có năng lực nội sinh về khoa học công nghệ.
* Tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ giảm tỷ trọng nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế nước ta còn lạc hậu tỷ trọng nông nghiệp còn cao trong khi đó sản
xuất nông nghiệp có năng suất ngày càng tăng và sản phẩm nông nghiệp có nhu cầu ngày
càng giảm do đời sống ngày càng cao. Vì vậy, chúng ta cần giảm tỷ trọng của ngành này.
Nhu cầu về các hàng hoá công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng. Do đó chúng ta cần tăng
tỷ trọng những ngành này.
-Tỷ trọng của nông nghiệp sẽ giảm dần qua các năm đến năm 2005 chỉ còn 20-21%
trong cơ cấu GDP.
Trong đó giảm tỷ trọng trồng trọt, tăng tỷ trọng chăn nuôi; giảm tỷ trọng lâm nghiệp;
tăng tỷ trọng thuỷ sản; giảm tỷ trọng của trồng trọt và lâm nghiệp tương đối so với các
ngành khác nhưng vẫn tăng về tuyệt đối. Tăng tỷ trọng ngành có giá trị xuất khẩu cao.
-Chuyển đổi cơ cấu công nghiệp đi từ các ngành công nghiệp dựa trên lợi thế so sánh
về lao động tài nguyên sang các ngành công nghiệp chế biến sâu hơn. Phát triển các ngành
công nghiệp đi sau liên kết chặt chẽ và bền vững với các ngành đi trước. Nâng dần trình độ
công nghệ, tranh thủ đi nhanh đi thẳng vào công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Phát huy lợi
thế về nguồn nhân lực có trình độ cao.
-Phát triển các loại hình dịch vụ: thương mại, tài chính ngân hàng, du lịch, dịch vụ
hàng hải... đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống phù hợp với xu hướng của kinh tế thị
trường hiện đại, góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế cơ cấu lao động.
Quan điểm 4: Đảm bảo tính hiệu quả kinh tế-xã hội cao trong phương án chuyển dịch
cơ cấu ngành
Đây là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của phương án chuyển dịch cơ
cấu. Bao gồm mục tiêu sau:
-Chuyển dịch cơ cấu ngành phải tạo ra được giá trị gia tăng cao.
-Chuyển dịch cơ cấu phải sử dụng hiệu quả tối đa các nguồn lực.
+Đem lại tỷ lệ lọi nhuận cao nhất.
+Sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực: tăng tổng năng suất lao động toàn xã hội, giảm
thấp nhất tỷ lệ thất nghiệp, tăng cao nhất thời gian sử dụng lao động.
+Sử dụng triệt để năng suất máy móc;khai thác tối đa tính năng, tác dụng của máy móc.

Quan điểm 5: Chuyển dịch cơ cấu ngành phải đồng bộ
-Chuyển dịch cơ cấu phải được nhận thức ở mọi ngành,mọi cấp,mọi người dân.
-Chuyển dịch cơ cấu ngành phải đồng bộ với cơ cấu vùng cơ cấu thành phần kinh tế.
-Chuỷên dịch cơ cấu ngành phải phù hợp với chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực,
chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn, với trình dộ công nghệ.
-Chuyển dịch cơ cấu của mỗi ngành phải tính đến sự chuyển dịch cơ cấu của các
ngành khác. Phải tận dụng được hiệu quả, sản phẩm của các ngành khác.
II. ĐỊNH HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
1. Định dạng cơ cấu và lựa chọn một số ngành trọng điểm, mũi nhọn
Tiêu chuẩn và tiêu thức định dạng cơ cấu
Với tư cách là nội dung cốt lõi của đường lối công nghiệp hoá, việc định dạng cơ cấu
ngành trong những năm trước mắt có trọng tâm là xác định một tương quan cơ cấu hợp lý.
Về thực chất, tương quan đó không có gì khác hơn là ưu tiên đối với một số ngành nhất
định, là xác định những ngành trọng đIểm và mũi nhọn. Trước khi định dạng cơ cấu tổng
quát cần lựa chọn các ngành ưu tiên, cần làm rõ tiêu chuẩn cơ bản và những tiêu thức chính
để thực hiện sự lựa chọn đó ở nước ta trong những năm trước mắt.
Tiêu chuẩn cơ bản
Về nguyên tắc, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hiệu quả luôn luôn là tiêu
chuẩn cơ bản nhất để lựa chọn ngành trọng điểm, mũi nhọn. Việc xa rời nguyên tắc này
đồng nghĩa với việc phủ nhận rên thực tế vai trò điều tiết của cơ chế thị trường, đặc biệt là
vai trò việc phân bố các nguồn lực. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là:cần hiểu khái niệm hiệu quả
như thế nào cho thích hợp ? tương quan giữa hiệu quả kinh tế thuần tuý và hiệu quả kinh
tế-xã hội trong đó là như thế nào ? Có ba điểm cần đáng lưu tâm ở đây.
Thứ nhất, chúng ta đang xét đến các vấn đề chiến lược. Vì thế, hiệu quả xét trên quan
điểm dài hạn cần được coi là tiêu chuẩn chủ đạo. Điều đó không có nghĩa là sao nhãng
những lợi ngắn hạn song khi theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cao, lâu bền như là mục tiêu
hàng đầu thì việc ưu tiên bất cứ ngành nào trong giai đoạn đầu trước hết cũng phải nhằm
đích tạo dựng cơ sở tăng trưởng bền vững cho toàn bộ nền kinh tế ở giai đoạn sau, hướng
tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế và trình độ công nghệ-kỹ thuật của đất nước.
Thứ hai, để bảo đảm sự phát triển bền vững theo một mô thức tăng trưởng và phát

triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, rõ ràng không chỉ quan tâm đến hiệu
quả kinh tế thuần tuý. Các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế-xã hội như mức độ công ăn
việc làm, phân phối lợi ích do tăng trưởng đem lạI cho các tầng lớp dân cư khác nhau đặc
biệt là cho nông dân v.v...cần được tính đến như là những tiêu thức chủ yếu. Kinh nghiệm
phát triển của các nền kinh tế châu Á cho thấy hai yếu tố này về cơ bản có tác động cùng
chiều, thúc đẩy lẫn nhau. ở một cấp độ cao hơn, còn có thể nói rằng hiệu quả kinh tế, lợi
ích tăng trưởng chỉ có thể đạt mức tối đa khi nó gắn liền với sự bảo đảm một hiệu quả kinh
tế -xã hội đủ cao.
Thứ ba, những ngành được lựa chọn để ưu tiên phát triển cần phải là loại ngành có hệ
số tác động cao đến sự phát triển của tương đối nhiều ngành hơn. Nói khác đi, một mức
tăng trưởng cao của ngành ưu tiên sẽ phảI kéo theo sự tăng trưởng của nhiều ngành liên
quan không nằm trong sự ưu tiên. Phạm vi các ngành chịu sự tác động “lôI kéo tăng
trưởng” và mức độ tác động đến tốc độ tăng trưởng của một số ngành “bị lôi kéo” này từ
sự phát triển của một ngành nào đó tạo nên hiệu quả phát triển toàn bộ cả nó. Đây được coi
là tiêu chuẩn chung bắt buộc để lựa chọn ngành trọng đIểm, mũi nhọn.
Các tiêu thức chính lựa chọn ngành trọng điểm
Về đạI thể, các tiêu thức này có liên quan đến yêu cầu tận dụng các nguồn lực, hiệu
quả sử dụng vốn, bước chuyển bắt buộc do chu kỳ sản phẩm quy định và đến định hướng
tăng trưởng xuất khẩu.
*Do chỗ đIểm xuất phát kinh tế của nước ta là thấp, yêu cầu tối cao đặt ra cho việc
lựa chọn cơ cấu là tận dụng tối đa lợi thế về các nguồn sẵn có với chi phí thấp nhất về vốn.
Thoả mãn yêu cầu này bao gồm trong đó khả năng du trì chỉ số ICOR trung bình thấp của
nền kinh tế. Sự lựa chọn cụ thể sẽ căn cứ vào:
-Lợi thế về tài nguyên thiên nhiên xét. Xét theo chỉ số trữ lượng tài nguyên tính trên
đầu người. Nói chung, nước ta không phải là một nước giaù, kể cả khi so sánh với nhiều
nước trong khu vực. Song, trong bối cảnh nước ta hiện nay vẫn có thể chỉ ra một số nguồn
được coi là lợi thế phát triển. Những nguồn đó là: dầu khí, cơ sở nông nghiệp nhiệt đớivới
tiềm năng đa canh và trồng lúa nước, quạng apatit, quặng sắt và nhôm, nguồn nguyên liệu
sản xuất vật liệu xây dựng.
-Lợi thế về nguồn nhân lực (lao động). Thực ra, đối với nước ta hiện nay, vấn đề lao

động có hai mặt, nguồn lao động rất dồi dào và rẻ là lợi thế lớn nhưng đây chỉ là lợi thế
tiềm năng.Trên thực tế, nước ta đang đối mặt với khía cạnh thứ hai của vấn đề lao
động:thiếu công ăn việc làm, trình độ tay nghề của người lao động thấp, tạo ra một áp lực
phát triển rất nặng nề. Việc tạo ra nhiều chỗ việc làm để tận dụng lao động đang là một yêu
cầu cấp bách hàng đầu cho bất cứ sự lựa chọn cơ cấu nào.
Lôgic tự nhiên dẫn tới sự kết luận rằng sử dụng nhiều lao động là tiêu thức chủ yếu
nhất để lựa chọn ngành trọng điểm.
-Tổ hợp hai tiêu thức trên, chúng ta có tiêu thức thứ ba:chỉ số ICOR thấp để xác dịnh
ngành trọng điểm. Khái niệm tổ hợp ở đây hàm một nghĩa rất rõ ràng chỉ số ICOR thấp là
tiêu thức tinh lọc số ngành được chọn là ngành trọng điểm theo trật tự ưu tiên của các
ngành được lựa chọn theo hai tiêu thức trên.
*Đối với yêu cầu mang tính kỹ thuật của việc lựa chọn ngành trọng điểm (bước
chuyển bắt buộc do chu kỳ sản phẩm quy định, của định hướng tăng trưởng xuất khẩu),
cần phân tích một số tính quy định trên một góc độ khác:mối tương quan giữa tính tất yếu
kỹ thuật của qúa trình chuyển dịch cơ cấu với những đòi hỏi thị trường (thị trường quốc tế
và trong nước).
Nguyên tắc tổng quát rút ra từ đó là việc xác định các ngành trọng điểm, xếp hạng
trật tự ưu tiên của chúng là mức độ thoả mãn bốn tiêu chuẩn đó. Ngành nào thoả mãn càng
đầy đủ bốn tiêu chuẩn thì xếp hạng ưu tiên càng cao và ngược lại.
Các tiêu thức chính để xác định ngành mũi nhọn
Trước tiên, cần nói rằng về cơ bản, ngành mũi nhọn phải là ngành đáp ứng các tiêu
thức đặt ra cho ngành trọng điểm. Tuy nhiên, mức độ đáp ứng tổ hợp tiêu thức trên có thể
được xem xét trong một tương quan “lỏng”hơn: có những tiêu thức đặt ra nghiêm ngặt hơn
(định hướng xuất khẩu, chỉ số ICOR thấp), có những tiêu thức không đòi hỏi nghiêm ngặt
lắm (định hướng sử dụng tài nguyên). Sự thay đổi trong tiêu thức lựa chọn này được quy
định bởi ngành trọng điểm còn phải đáp ứng một số yêu cầu khác mang tính đặc trưng:tạo
sức thúc đẩy cho qúa trình đổi mới công nghệ-kỹ thuật trong nền kinh tế.
Trật tự các tiêu thức chính để xác định ngành mũi nhọn:
-Định hướng công nghệ-kỹ thuật tiên tiến;
-Định hướng xuất khẩu;

-Định hướng sử dụng các lợi thế về nguồn lực trước tiên là nguồn lao động;
-Chỉ số ICOR thấp.
Thực ra, bốn tiêu thức trên có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau (chế định lẫn
nhau). Tất cả chúng đều hướng tới những mục tiêu dài hạn của nền kinh tế: tăng trưởng
nhanh với hiệu quả sử dụng nguồn vốn cao, tăng nguồn thu nhập ngoại tệ (được coi là
nguồn lực khan hiếm nhất hiện nay), tạo nhiều việc làm theo định hướng tăng trưởng đã
lựa chọn.
Tuy nhiên ngành ngành mũi nhọn, trong sự phân biệt với ngành trọng điểm, còn
nhằm một mục tiêu thậm chí còn dài hạn hơn:định hướng công nghệ-kỹ thuật cho toàn bộ
nền kinh tế. Đây được coi là tiêu thức chủ yếu nhất để xác định tư cách ngành mũi nhọn
trong giai đoạn tới ở nước ta.

×