Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Đề tài môn chính sách thương mại quốc tế: Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.08 KB, 52 trang )

1

LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Việt Nam đang dần tiến những bước chân vững chắc hội nhập vào nền
kinh tế thế giới với mong muốn trở thành quốc gia có nền kinh tế phát triển hàng
đầu trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đang tích cực thực hiện việc cắt
giảm thuế quan trong AFTA, ký hiệp định Việt Nam - Hoa Kì, cường quốc có
nền kinh tế đứng đầu thế giới, và đặc biệt là năm 2006, sau 11 năm tích cực đàm
phán, chúng ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Mở ra rất nhiều
triển vọng cho nền kinh tế Việt Nam. Trong q trình hội nhập đó, Việt Nam sẽ
là miền đất đầy hứa hẹn cho các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời thị trường
nước ngoài cũng sẽ là nơi mà nhiều doanh nghiệp Việt Nam hướng tới.
Trong xu thế hội nhập vô cùng năng động và sôi động đó, thì việc xảy ra
các tranh chấp là điều khơng thể tránh khỏi và cũng không dễ giải quyết được
một cách nhanh chóng và chính xác. Hiện nay, chúng ta có rất nhiều các phương
pháp giải quyết tranh chấp như: Hòa giải, Trọng tài, Tòa án…Nhưng phương
thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì đang ngày càng khẳng định được vị
thế, vai trị, và tính hấp dẫn trong việc giải quyết các tranh chấp.
Chính vì những lí do trên, tôi đã chọn đề tài: “ Giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế bằng trọng tài tại Việt Nam” nhằm tìm hiểu kĩ lưỡng về
phương thức giải quyết tranh chấp này, với mong muốn sẽ góp phần làm sáng tỏ
những vấn đề cơ bản về giải quyết tranh chấp trong hợp đồng thương mại quốc
tế, đồng thời chỉ ra một số hạn chế và đề suất một số kiến nghị nhằm phát triển
hơn nữa phương thức này ở Việt Nam.
2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Trọng tài là một trong những lĩnh vực rất rộng, liên quan đến nhiều lĩnh
vực khoa học. Trong khn khổ bài khóa luận này, tơi khơng có tham vọng và
trình độ cần thiết để giải quyết tất cả các vấn đề về trọng tài, mà tôi chỉ đi tập
trung làm rõ những quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại



2
quốc tế bằng trọng tài tại Việt Nam và phân tích thực trạng giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế bằng trọng tài, chỉ ra các tồn tại, và đưa ra các ý kiến để
hồn thiện.
3.Phương pháp nghiên cứu.
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở vận dụng các quan điểm của Đảng và
Nhà nước về kinh tế và pháp luật kết hợp với phương pháp duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin.
Ngồi ra, khóa luận cịn sử dụng phương pháp tổng hợp, đối chiếu, so sánh
phương pháp hệ thống gắn với quá trình nghiên cứu thực tiễn về trọng tài
4. Kết cấu của khóa luận.
Nội dung cơ bản của khóa luận ngồi phần mở đầu và phần kết luận, được
trình bày ở hai chương:
Chương I: Lí luận chung về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng
tài.
Chương II: Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết
tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài.


3
CHƯƠNG 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI

1.1. Tranh chấp trong thương mại quốc tế
1.1.1.Khái niệm thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế đã ra đời từ rất sớm và trải qua nhiều quá trình phát
triển khác nhau. Ở Việt Nam cũng vậy, sự ra đời của thương mại quốc tế gắn
liền với sự trao đổi, giao lưu buôn bán với các nước trong khu vực. Có thể nói

rằng, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế, thì khái niệm
thương mại quốc tế cũng dần hoàn thiện cả về nội dung và hình thức.
Theo quan điểm chung trên thế giới hiện nay, thì thương mại quốc tế
được hiểu là hành vi thương mại của thương nhân vượt ra khỏi phạm vi biên
giới quốc gia; cũng có thể gói gọn trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia tuy nhiên
được thực hiện bởi chủ thể là các thương nhân quốc tế hoặc giữa các chủ thể
trong một quốc gia nhưng đối tượng của hợp đồng nằm ở nước ngoài.
Ở Việt Nam, hoạt động thương mại được hiểu là hoạt động nhằm mục
đích sinh lời bao gồm các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu
tư, xúc tiến thương mại, và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác (khoản 1
Điều 3, Luật Thương mại năm 2005). Trong khi đó, việc mua bán hàng hóa quốc
tế được hiểu là việc xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa, theo đó hàng hóa được
đưa ra đưa vào lãnh thổ Việt Nam hoặc khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt
Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật. Nói cách
khác, thương mại quốc tế được hiểu là hoạt động thương mại vượt ra khỏi biên
giới quốc gia hoặc biên giới hải quan.
Với cách tiếp cận như trên, thì ở Việt Nam, hai thuật ngữ International
Trade (thương mại quốc tế) và International Commerce (kinh doanh quốc tế)
thường được hiểu chung một nghĩa là kinh doanh quốc tế.


4
Tuy nhiên, ở nhiều nước trên thế giới hai thuật ngữ này có nghĩa khác
nhau. Nếu International Trade là thuật ngữ chỉ các hoạt động thương mại quốc tế
do các quốc gia thực hiện thì International Commerce là thuật ngữ chỉ các hoạt
động thương mại do thương nhân tiến hành. Qua đó, có thể thấy cách tiếp cận
các khái niệm này ở các nước không giống với Việt Nam. Nếu Việt Nam lấy dấu
hiệu hành vi thương mại vượt ra khỏi biên giới quốc gia làm tiêu chí xác định
quan hệ thương mại quốc tế thì ở một số nước việc xác định quan hệ thương mại
quốc tế lại dựa vào tiêu chí chủ thể.

Qua phân tích ở trên, ta có thể rút ra định nghĩa về thương mại quốc tế
như sau: Thương mại quốc tế là hoạt động thương mại có yếu tố nước ngồi.
Các yếu tố nước ngồi trong thương mại quốc tế được xác định qua ba dấu hiệu:
chủ thể trong quan hệ thương mại là các bên có quốc tịch khác nhau hoặc có trụ
sở ở các nước khác nhau; sự kiện làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ
thương mại xảy ra ở nước ngoài; và đối tượng của quan hệ thương mại như hàng
hóa, dịch vụ, hoặc các đối tượng khác ở nước ngoài.

1.1.2.Tranh chấp thương mại quốc tế.
Trong quan hệ thương mại quốc tế, do nhiều nguyên nhân khác nhau như
sự khác biệt về ngôn ngữ, pháp luật, tập quán, …và nhất là sự thay đổi về điều
kiện thực hiện hợp đồng nên các tranh chấp phát sinh là điều khó tránh khỏi.
Hiện nay, trên thế giới, tranh chấp thương mại được hiểu chính là tranh
chấp phát sinh do khơng thực hiện hoặc thực hiện không đúng các thỏa thuận
trong hoạt động thương mại quốc tế. Bao gồm các hoạt động sau: mua bán hàng
hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển
hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường hàng không, đường
biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; đầu tư, tài chính,
ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác;
Ở Việt Nam, khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập
chính thức trong văn bản pháp luật là Luật thương mại năm 1997, tuy nhiên,
theo Luật thương mại, tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc


5
thực hiện không đúng, không đầy đủ hợp đồng trong hoạt động thương mại.
Như vậy, ta nhận thấy khái niệm trên có nội hàm rất hẹp so với quan niệm phổ
biến của các nước trên thế giới về thương mại.
Đến Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, tuy không trực tiếp đưa ra
định nghĩa về tranh chấp thương mại song với sự hiện diện của khái niệm “hoạt

động thương mại” theo nghĩa rộng đã tạo ra sự tương đồng trong quan niệm về
“thương mại” và “tranh chấp thương mại” của pháp luật Việt Nam với chuẩn
mực chung của pháp luật và thơng lệ quốc tế.
Từ đây, ta có thể rút ra định nghĩa, tranh chấp thương mại quốc tế là những mâu
thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình
thực hiện các hoạt động thương mại có yếu tố nước ngồi.

1.1.3.Các loại tranh chấp thương mại quốc tế
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều cách phân loại tranh chấp thương mại
quốc tế, mỗi cách người ta đều dựa trên những tiêu chí khác nhau để phân loại,
như: dựa vào chủ thể tham gia, dựa vào tính chất nội dung vụ việc tranh chấp,
dựa vào nội dung của hợp đồng… trong khn khổ khóa luận này, tác giả khóa
luận sẽ phân loại tranh chấp thương mại quốc tế dựa nội dung của hợp đồng
thương mại quốc tế qua một số loại hợp đồng điển hình.
1.1.3.1. Tranh chấp trong hợp đồng mua bán hàng hóa
Đây là loại hợp đồng phổ biến nhất hiện nay đối với hoạt động thương mại
quốc tế. Vì vậy, việc phát sinh tranh chấp từ loại hợp đồng này cũng rất phổ
biến.
Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa phát sinh khi bên bán giao hàng
khơng đúng đối tượng và chất lượng, không giao hàng đúng thời gian và địa
điểm, khơng bảo hành hàng hóa, bảo hành khơng đúng như đã cam kết trong
hợp đồng. Và bên mua không nhận hàng khi bên bán đã chuyển hàng cho bên
mua theo u cầu, khơng thanh tốn tiền mua hàng khi đến hạn …


6

1.1.3.2. Tranh chấp trong hợp đồng xây dựng
Trong nền kinh tế hiện nay, các nước có nền cơng nghiệp xây dựng phát
triển không chỉ đầu tư xây dựng trong nước, mà họ cịn mở rộng việc tìm kiếm

khách hàng vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Tranh chấp trong hoạt động xây
dựng quốc tế phát sinh khi một trong hai bên có các hành động như, bên nhận
thầu xây dựng không đúng, không đầy đủ, sai với thiết kế ban đầu,…và bên mời
thầu không giải ngân như đã thỏa thuận, khơng giải phóng mặt bằng kịp thời
làm chậm tiến độ thi công của bên nhận thầu …

1.1.3.3. Tranh chấp trong hợp đồng đại lý
Trong thời đại ngày ngày nay, bất kì một vị trí nào trong nền kinh tế cũng
phải được chun mơn hóa. Và hoạt động đại lý thương mại cũng không là
ngoại lệ, bởi nhu cầu về hoạt động này trong nền kinh tế hiện nay là rất lớn bởi
các ý nghĩa thiết thực mà nó mang lại. Tranh chấp trong loại hoạt động này sẽ
phát sinh ngay khi một trong hai bên nhận đại lý và bên sản xuất hàng hóa cho
đại lý làm trái với các quy định của hợp đồng mà họ đã ký với nhau như: bên
nhận đại lý bán không đúng sản phẩm mà nhà sản xuất hàng hóa cung cấp, nhà
sản xuất hàng hóa khơng giao hàng đúng thời hạn cho bên nhận đại lý như đã
cam kết…
Ngồi ra, cịn rất nhiều tranh chấp phát sinh từ các loại hoạt động thương
mại quốc tế khác như: Cung ứng dịch vụ, bảo hiểm, thăm dị, khai thác; tài chính
ngân hàng…

1.2. Trọng tài thương mại quốc tế - Một phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại quốc tế.
Trong xu thế tồn cầu hóa hiện nay, Trọng tài thương mại quốc tế được
coi là một phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến và hiệu quả nhất hiện
nay. Nó đem lại cho các thương nhân rất nhiều tiện ích khi tham gia vào đời
sống thương mại quốc tế. Vậy, Trọng tài thương mại quốc tế là gì?


7
Theo giáo trình Tư Pháp quốc tế - Trường đại học Luật Hà Nội, xuất bản

năm 2006, thì “ Trọng tài quốc tế là một phương pháp giải quyết tranh chấp có
yếu tố nước ngồi, mà trong đó các bên tranh chấp, thỏa thuận, lập ra hoặc chỉ
định ra một bên thứ ba và giao cho bên thứ ba đó quyền được phán xét tranh
chấp của họ, phán xét này buộc các bên phải thực hiện.
Theo Từ điển Luật học, Nxb Tư Pháp năm 2006, định nghĩa, “Trọng tài
quốc tế là cơ quan hoặc phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan
hệ pháp luật thuộc lĩnh vực điều chỉnh của tư pháp quốc tế mà pháp luật cho
phép giải quyết bằng trọng tài.”
Theo Điều 1492 của Bộ luật tố tụng dân sự mới của Pháp, thì trọng tài
quốc tế được hiểu đơn giản là trọng tài giải quyết tranh chấp quyền lợi trong
thương mại quốc tế.
Hơn nữa, theo mục 1.1.1 của khóa luận này, thì thương mại quốc tế được
hiểu là hoạt động thương mại có yếu tố nước ngoài. Các yếu tố nước ngoài trong
thương mại quốc tế được xác định qua ba dấu hiệu: chủ thể trong quan hệ
thương mại là các bên có quốc tịch khác nhau hoặc có trụ sở ở các nước khác
nhau; sự kiện làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ thương mại xảy ra
ở nước ngoài; và đối tượng của quan hệ thương mại như hàng hóa, dịch vụ, hoặc
các đối tượng khác ở nước ngồi.
Về tính thương mại của trọng tài quốc tế, Luật mẫu về trọng tài của
UNCITRAL tuy khơng đưa ra định nghĩa chính thức về khái niệm “thương mại”
nhưng đã nêu khái niệm này ở chú giải điều I như sau: Các quan hệ mang tính
chất thương mại bao gồm các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận
phân phối, đại diện hoặc đại lý thương mại, thuê mua xây dựng cơng trình; tư
vấn kỹ thuật; lixăng, đầu tư; tài chính ngân hàng, bảo hiểm; hợp đồng thăm dò,
khai thác; liên doanh và các hình thức hợp tác kinh doanh; vận tải hành khách,
hàng hóa bằng đường hàng khơng, đường sắt,đường bộ hoặc đường biển.
Theo Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế ngày 21/6/1985 của
UNCITRAL, thì Trọng tài sẽ mang tính chất quốc tế khi:



8
- Vào thời điểm giao kết thỏa thuận trọng tài, các bên có trụ sở kinh doanh
ở các nước khác nhau, nếu các bên có nhiều trụ sở kinh doanh thì tính đến
trụ sở kinh doanh có quan hệ mật thiết nhất đối với thỏa thuận trọng tài,
còn nếu các bên khơng có trụ sở kinh doanh thì sẽ căn cứ theo nơi cư trú
thường xuyên của các bên; hoặc:
- Một trong các yếu tố sau đây ở ngoài lãnh thổ nơi các bên có trụ sở kinh
doanh: Nơi xét xử của trọng tài và nơi thực hiện phần chủ yếu của nghĩa
vụ trong quan hệ thương mại hoặc nơi có quan hệ mật thiết nhất với nội
dung tranh chấp. hoặc :
- Các bên đã thỏa thuận rõ ràng là nội dung chủ yếu của thỏa thuận trọng
tài liên quan đến nhiều nước.
Trọng tài quốc tế chính là một phương thức giải quyết tranh chấp do các
bên thỏa thuận lập ra hoạt động với tư cách là bên thứ ba độc lập, khách quan,
vô tư, đứng ra phân xử cho các bên khi xảy ra tranh chấp có yếu tố nước ngồi.
Và phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm.
Từ những khái niệm nêu trên chúng ta có thể nhận thấy trọng tài thương mại
quốc tế có một số đặc điểm chính sau:
- Là một cơ quan tài phán tư;
- Là kết quả của sự thỏa thuận giữa các bên tham gia tranh chấp;
- Nhằm giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thương mại quốc tế;
- Quyết định của trọng tài có giá trị chung thẩm.
Qua những phân tích đó, chúng ta đi đến kết luận rằng: Trọng tài thương mại
quốc tế là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ thương
mại quốc tế do các bên thỏa thuận lập ra để giải quyết tranh chấp.


9

1.3. Các nguyên tắc trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc

tế bằng trọng tài
1.3.1. Nguyên tắc thỏa thuận.
Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng
trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động
thương mại. Như vậy các bên có thể có thỏa thuận trọng tài trước khi có tranh
chấp hoặc sau khi có tranh chấp. Khác với việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án,
khi có tranh chấp phát sinh, bên có quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm có
quyền đệ đơn u cầu Tịa án có thẩm quyền giải quyết mà khơng cần có sự thỏa
thuận trước, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài địi hỏi phải có sự thỏa
thuận của các bên. Ngun tắc chung là “khơng có thỏa thuận giải quyết bằng
phương thức trọng tài khơng có tố tụng trọng tài”. Điều đó có nghĩa rằng, trọng
tài chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi được các bên chọn bằng một
thỏa thuận trọng tài. Nói cách khác thỏa thuận trọng tài là căn cứ để áp dụng
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài. Nguyên tắc này
xuất phát từ quyền tự do kinh doanh với tư các là quyền cơ bản của công dân
trong nền kinh tế thị trường, trong đó bao gồm cả quyền lựa chọn phương thức
giải quyết khi tranh chấp phát sinh.
Nguyên tắc này còn được thể hiện rõ nhất trong q trình tố tụng trọng
tài, đó là việc các bên thỏa thuận chọn địa điểm trọng tài, ngôn ngữ trọng tài,
thời gian trọng tài…

1.3.2. Nguyên tắc trọng tài viên phải độc lập khách quan vô tư khi giải
quyết tranh chấp
Sự độc lập của trọng tài viên thể hiện ở việc trọng tài viên khơng có lợi
ích trực tiếp hoặc lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp, không chịu sự chi phối
của bất kì cơ quan, tổ chức cá nhân nào khi giải quyết tranh chấp. Sự khách
quan được đảm bảo khi trọng tài viên thực hiện đúng vai trò của người thứ ba
phân xử đúng sai dựa trên những chứng cứ tài liệu, tình tiết của vụ việc và ra



10
quyết định theo quy định của pháp luật. Không thể coi trọng tài viên đã vô tư
trong khi làm nhiệm vụ nếu họ có quyền lợi liên quan đến vụ tranh chấp, hay
người thân thích của họ là một trong các bên tranh chấp…
Nếu có căn cứ cho rằng trọng tài viên có thể hoặc khơng độc lập, vơ tư
khi thực hiện nhiệm vụ thì trọng tài viên đó có thể bị thay thế. Thậm chí khi
quyết định trọng tài có hiệu lực, nếu có căn cứ chứng tỏ trọng tài viên đã vi
phạm nguyên tắc này thì quyết định trọng tài sẽ bị tịa án tun hủy.
Do vị trí quan trọng của các trọng tài viên trong quá trình giải quyết tranh
chấp, một số tổ chức trọng tài còn yêu cầu các trọng tài viên xác nhận bằng văn
bản rằng họ độc lập với các bên tranh chấp. Đây là vấn đề mà tòa án trọng tài
quốc tế thuộc phòng thương mại quốc tế ICC rất quan tâm. Tuy nhiên, ngồi
việc độc lập, khách quan, vơ tư, căn cứ vào pháp luật để giải quyết tranh chấp
thì trọng tài viên cịn cần phải tơn trọng sự thỏa thuận của các bên.

1.3.3. Nguyên tắc giữ bí mật nội dung vụ việc tranh chấp
Đây là nghĩa vụ của trọng tài viên khi giải quyết vụ việc vì một trong các
lý do để các bên đương sự lựa chọn trọng tài đó là bảo đảm tính bí mật của tranh
chấp. Do vậy, các trọng tài viên không được phép tiết lộ nội dung của tranh chấp
khi không được các bên đồng ý. Ngồi ra, ngun tắc này cịn được thể hiện ở
việc sẽ khơng có người ngồi được tham dự vào phiên xét xử trọng tài nếu các
đương sự không cho phép.

1.3.4. Nguyên tắc chung thẩm.
Theo đó, nội dung cơ bản của nguyên tắc này là khi Hội đồng trọng tài
công bố quyết định trọng tài, quyết định trọng tài có hiệu lực thi hành ngay, các
bên khơng có quyền kháng cáo, cũng như khơng tổ chức nào có quyền kháng
nghị. Khi xem xét yêu cầu hủy quyết định trọng tài, tòa án cũng khơng có quyền
xét lại. Ngun tắc này có nguồn gốc từ bản chất của tố tụng trọng tài là nhân
danh ý chí tối cao và quyền tự định đoạt của các đương sự. Các đương sự đã tín

nhiệm và lựa chọn người phán quyết, do vậy họ phải thực hiện phán quyết mà
người này đưa ra.


11
Hơn nữa, bản chất của tố tụng trọng tài là tố tụng một cấp, do vậy, nếu
một bên không tự nguyện thi hành thì bên kia có quyền u cầu cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giúp đỡ.

1.4. Thỏa thuận Trọng tài
1.4.1. Khái niệm thỏa thuận Trọng tài.
Thỏa thuận trọng tài là sự thỏa thuận của các bên bằng văn bản, trong đó
thể hiện sự thống nhất ý chí của các bên mong muốn đưa tranh chấp của mình ra
giải quyết tại một trung tâm trọng tài.

1.4.2. Thời điểm lập và giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài
Theo quy định của pháp luật các nước cũng như trong các điều ước quốc
tế thì thỏa thuận Trọng tài có thể được lập vào thời điểm trước hoặc sau khi
tranh chấp xảy ra.
Trong trường hợp thỏa thuận Trọng tài được lập trước khi có tranh chấp
thì nó có thể là một điều khoản hợp đồng hoặc cũng có thể là một điều khoản
độc lập nằm ngoài hợp đồng.
Nếu khi tranh chấp xảy ra mà các bên chưa có bất kỳ một thỏa thuận trọng tài
nào thì các bên có thể lập một thỏa thuận trọng tài
Giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài khơng phụ thuộc vào việc nó được
lập trước hay sau khi có tranh chấp cũng như nó là một điều khoản của hợp đồng
hay một điều khoản độc lập, mà quan trọng là thỏa thuận đó phải được lập bởi
những chủ thể có thẩm quyền, phải là sự thống nhất ý chí của các bên, phải đáp
ứng được các yêu cầu về hình thức và nội dung của thỏa thuận trọng tài. Và đặc
biệt, giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài không phụ thuộc vào giá trị pháp lý

của hợp đồng.

1.4.3. Hình thức của thỏa thuận Trọng tài
Theo ý kiến của Giáo sư Philip Phusa, Trường đại học tổng hợp
(Paawngteong Át xát Pari II) thì hình thức thỏa thuận trọng tài có thể tồn tại
dưới một trong hai dạng sau:


12
- Hình thức thường dùng là điều khoản thỏa thuận Trọng tài, tức là một
điều khoản thể hiện trong hợp đồng và qua các bên của hợp đồng quy
định, với nhau nếu có một tranh chấp nảy sinh trong quá trình thực hiện
hợp đồng, nó sẽ được giải quyết bằng con đường trọng tài. Tất nhiên,
tranh chấp có thể xảy ra, cịn vào lúc này, nó khơng thể được xác định và
điều khoản đó thơng thường khơng chỉ định các trọng tài viên: như thế là
quá sớm, vì các bên khơng biết trước có một tranh chấp đối lập một ngày
nào đó, vào lúc nào, và vấn đề gì. Ngược lại sẽ là hợp thời nếu các bên,
ngay tại điều khoản thỏa thuận trọng tài thống nhất với nhau về kiểu trọng
tài sẽ có thể đưa ra thi hành sau này và những thể thức chỉ định các trọng
tài viên. Sau đây, ơng Đơminích Atse sẽ trình bày với các bạn điều đó
- Hình thức thỏa thuận thứ hai về trọng tài là “thỏa ước Trọng tài”. Nó
được thành lập sau khi nảy sinh tranh chấp. Các bên do đó, có thể xác
định mục tiêu vụ tranh chấp của họ và chỉ định một hay nhiều trọng tài
viên để giải quyết tranh chấp. Theo giả thiết, thỏa ước là một thỏa thuận
trọng tài chính xác hơn nhiều so với điều khoản thỏa thuận trọng tài, ít
nguy hiểm hơn vì các bên khi giao ước có hiểu biết đầy đủ nguyên nhân
tranh chấp, nhưng cũng vì lí do đó mà khó thực hiện giao kết hơn: vụ
tranh chấp đã đối lập, các bên trở lên ít thuận lợi cho một thỏa thuận giữa
họ với nhau.
Theo Công ước New York năm 1958, thì thỏa thuận Trọng tài bắt buộc

phải bằng văn bản. Tuy nhiên, trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ như
hiện nay, đã tạo nên rất nhiều phương thức liên lạc mới như Telex, Fax, Email
và chính điều này đã làm hạn chế cách hiểu đối với thuật ngữ “bằng văn bản”
trong công ước New York.
Để khắc phục hạn chế này, trong luật mẫu Trọng tài UNCITRAL tại điều
7(2) đã quy định: “một thỏa thuận Trọng tài sẽ được coi là bằng văn bản nếu nó
được chứa đựng trong một tài liệu được ký kết bởi các bên hoặc trong các thư,
điện tín, Telex, Fax, Email hoặc các phương tiện liên lạc khác ghi nhận thỏa


13
thuận đó hoặc qua trao đổi về đơn kiện và bản biện hộ trong đó thể hiện sự tồn
tại của thỏa thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận. Việc dẫn chiếu
trong hợp đồng tới một văn bản ghi nhận điều khoản trọng tài lập lên thỏa thuận
trọng tài với điều kiện hợp đồng này phải là văn bản và sự dẫn chiếu đó là một
bộ phận của hợp đồng.”
Còn theo Điều 9 Pháp lệnh Trọng tài 2003, thì thỏa thuận trọng tài cũng phải
được lập thành văn bản.
Tóm lại, một thỏa thuận trọng tài chỉ được coi là hợp pháp khi nó được
lập thành văn bản. Bởi lẽ, chỉ có thể xác lập bằng văn bản mới tạo nên tâm lý
yên tâm và tin tưởng cho các bên tham gia quan hệ thương mại, đồng thời là cơ
sở ràng buộc trách nhiệm của các bên khi phát sinh tranh chấp.

1.4.4. Nội dung của thỏa thuận trọng tài
Yêu cầu cơ bản đối với một thỏa thuận trọng tài là phải đơn giản và chính
xác. Đơn giản trong việc soạn thảo và chính xác trong việc lựa chọn các yếu tố
để đưa vào trong điều khoản trọng tài.
Ở mỗi Trung tâm Trọng tài khác nhau thường có những mẫu về nội dung
thỏa thuận trọng tài khác nhau. Do vậy các bên khi lựa chọn trung tâm trọng tài
nào giải quyết vụ việc thì nên chọn mẫu thỏa thuận trọng tài của Trung tâm

Trọng tài đó. Nhưng tựu chung lại thì một thỏa thuận trọng tài phải có những nội
dung cơ bản sau:
- Tên trung tâm trọng tài mà các bên đã lựa chọn để giải quyết tranh chấp.
- Tranh chấp được giải quyết tại trung tâm trọng tài.
- Hình thức trọng tài.
- Địa điểm trọng tài.
- Ngơn ngữ trọng tài.
Sau đây là một số mẫu về điều khoản trọng tài được các trung tâm trọng tài
khuyên dùng:
1. Mẫu điều khoản trọng tài UNCITRAL (cho trọng tài vụ việc) “bất kì tranh
chấp, tranh cãi hay khiếu kiện nào phát sinh từ hay liên quan đến hợp đồng này,


14
hoặc từ đó có sự vi phạm chấm dứt hay khơng, có hiệu lực pháp lí sẽ được giải
quyết bằng trọng tài theo các nguyên tắc tố tụng UNCITRAL hiện hành”.
Các bên có thể thêm vào đó:
- Cơ quan có thẩm quyền chỉ định là:…..(Tên cơ quan trọng tài)
- Số lượng trọng tài viên là:……
- Địa điểm trọng tài:…..
- Ngôn ngữ trọng tài:…..
2. Mẫu điều khoản trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế (Với trọng tài thể
chế)
“ Mọi tranh chấp phát sinh từ hay có liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải
quyết cuối cùng theo các quy tắc tố tụng từ hay có liên quan đến hợp đồng này
sẽ được giải quyết cuối cùng theo các quy tắc tố tụng trọng tài của Phòng
Thương mại Quốc tế bởi một hay nhiều trọng tài được chỉ định phù hợp với các
quy tắc đã nêu”
Trên cơ sở tiếp thu các điều khoản mẫu đó, Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt
Nam (VIAC) đã đưa ra điều khoản mẫu trọng tài như sau:

“Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này sẽ được giải quyết chung thẩm tại
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng thương mại và công
nghiệp Việt Nam, theo quy tắc tố tụng Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam.”

1.4.5. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài
Việc thiết lập thỏa thuận trọng tài có ý nghĩa quan trọng đối với các bên khi có
tranh chấp xảy ra cụ thể như sau:
- Tạo ra hiệu lực ràng buộc các bên: Điều này có nghĩa rằng khi tranh chấp xảy
ra các bên phải giải quyết tranh chấp đó tại trọng tài đã thỏa thuận mà khơng có
sự thỏa thuận nào khác.
- Thỏa thuận trọng tài có thể loại trừ sự can thiệp của tịa án vào q trình giải
quyết tranh chấp ít nhất là trước khi đưa ra phán quyết. Vì khi các bên đã có
thỏa thuận trọng tài mà một bên đưa tranh chấp ra tịa án thì tịa án sẽ từ chối thụ
lý vụ án đó và trả lại đơn kiện.


15
- Thỏa thuận trọng tài trao thẩm quyền cho trọng tài viên để giải quyết những
tranh chấp có thể có giữa các bên.
- Thỏa thuận trọng tài đã chọn ra địa điểm trọng tài thích hợp nhất để một phán
quyết được thi hành đúng luật.

1.5. Thẩm quyền của trọng tài
Căn cứ để xác định thẩm quyền trọng tài chính là thỏa thuận trọng tài và
các quy định của pháp luật về thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết các
tranh chấp thương mại quốc tế.
+ Thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài là hòn đá tảng của việc trọng tài. Thỏa thuận trọng tài thể
hiện sự nhất trí của các bên cùng đưa tranh chấp ra trọng tài giải quyết.
Khác với thẩm quyền của tòa án, thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm

quyền vụ việc, nếu được các bên có “vụ việc” lựa chọn đích danh. Thẩm quyền
của trọng tài khơng được phân định theo lãnh thổ, vì các bên có tranh chấp có
quyền thỏa thuận lựa chọn bất kì một tổ chức trọng tài nào để giải quyết tranh
chấp cho họ, không phụ thuộc vào nơi ở cũng như nơi đặt trụ sở của các bên,
cũng như không phân định theo cấp xét xử, vì chỉ có một cấp trọng tài và lại
càng không phân định theo sự lựa chọn của ngun đơn, vì trọng tài chỉ có thẩm
quyền giải quyết vụ việc nếu các bên có thỏa thuận trọng tài.
+ Tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại quốc tế
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có tính phổ biến và
được các thương nhân ưa chuộng. Tuy nhiên không phải mọi tranh chấp đều
được phép giải quyết bằng trọng tài, hay nói cách khác kể cả khi các bên thỏa
thuận trọng tài trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện để giải quyết tranh chấp phát sinh
giữa họ với nhau thì thỏa thuận trọng tài này cũng bị pháp luật coi là vô hiệu nếu
những loại tranh chấp này không được pháp luật cho phép giải quyết bằng trọng
tài.
Pháp luật trọng tài hầu hết các nước không liệt kê các tranh chấp được
phép giải quyết bằng trọng tài mà chỉ quy định những loại quan hệ pháp luật


16
nhất định nếu có tranh chấp phát sinh thì khơng được giải quyết bằng trọng tài.
Ví dụ: pháp luật của một số nước không cho phép giải quyết bằng trọng tài các
vụ việc hình sự, hành chính…với quan điểm cho rằng đây là những vấn đề thuộc
chính sách cơng cộng của quốc gia nên phải do cơ quan tài phán công giải quyết.
Hay các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, hợp đồng đại lý, hợp đồng lao
động…cũng là tranh chấp hạn chế giải quyết bằng trọng tài.
1.6. Các loại trọng tài thương mại quốc tế
Pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều công nhận trọng tài thương
mại quốc tế có hai loại chủ yếu và thường xun được áp dụng nhất, đó chính là:


1.6.1. Trọng tài Ad - hoc (trọng tài vụ việc)
Là loại trọng tài được thành lập bởi các bên đương sự, nhằm giải quyết
một vụ tranh chấp cụ thể nào đó. Sau khi giải quyết xong tranh chấp thì tự nó
giải thể. Hình thức trọng tài này có đặc điểm là:khơng có trụ sở cố định như
trọng tài thường trực, không lệ thuộc vào bất kì quy tắc xét xử nào.
Ưu điểm của trọng tài Ad - hoc là rất gọn nhẹ, và linh hoạt, thời gian xét
xử ngắn và hai bên dễ dàng đi đến thỏa thuận chung và chi phí ít.
Nhược điểm của trọng tài Ad - hoc là nó phụ thuộc rất nhiều vào sự hợp
tác của các bên. Và vì nó khơng có quy tắc tố tụng riêng cho nên nó phụ thuộc
vào hệ thống pháp luật nơi xét xử của trọng tài, và nó chỉ thích hợp với các tranh
chấp có giá trị vật chất nhỏ, ít phức tạp và đặc biệt, các bên tham gia tranh chấp
phải là những người am hiểu pháp luật, có kinh nghiệm xử lí tranh chấp và dày
dạn trên thương trường.
Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Luật đầu tư năm
2005, luật thương mại năm 2005 và đặc biệt là trong Pháp lệnh Trọng tài năm
2003) cũng đã ghi nhận quyền của các bên được lựa chọn trọng tài, kể cả trọng
tài Ad - hoc, nhằm giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thương mại quốc tế.


17

1.6.2. Trọng tài thường trực (hay còn gọi là trọng tài quy chế)
Là trọng tài có tổ chức được thành lập để hoạt động một cách thường
xuyên, có trụ sở và điều lệ và có quy tắc xét xử riêng. Hội đồng trọng tài có thể
là một trọng tài viên duy nhất được chọn trong số trọng tài viên niêm yết tại
trung tâm trọng tài, hoặc có thể là ba trọng tài (mỗi bên chọn ra một trọng tài
viên, còn trọng tài viên thứ ba do hai trọng tài viên được chọn bầu ra hoặc do
chủ tịch trung tâm trọng tài chỉ định).
Hình thức trọng tài này có rất nhiều ưu điểm, nhưng nổi bật là các ưu
điểm sau:

Do có quy tắc tố tụng được quy định một cách chặt chẽ, được cơng bố
cơng khai, nên q trình trọng tài thường trực được thực hiện theo các trình tự,
thủ tục rất nghiêm túc. Các tổ chức trọng tài thường xuyên sửa đổi quy chế với
sự cố vấn của các chuyên gia giàu kinh nghiệm để phù hợp với các thay đổi
trong các hệ thống pháp luật của các nước và cả trong thực tiễn giao dịch thương
mại quốc tế. Hầu hết, các tổ chức trọng tài thường trực có đội ngũ trọng tài viên
có trình độ cao, là các chun gia giỏi thuộc các lĩnh vực, do vậy có đủ điều kiện
để thiết lập một hội đồng trọng tài công bằng, khách quan, đảm bảo được quyền
lợi chính đáng cho các bên. Tiền thù lao của trọng tài thường trực cũng được
tính theo một cơ sở nhất định chứ khơng tùy tiện như Ad - hoc.
Hiện nay trên thế giới có khoảng hơn 100 tổ chức Trọng tài Quốc tế
(Trọng tài thường trực). Trong số đó, có một số trung tâm uy tín cao như: Tịa
án Trọng tài Quốc tế của Phòng Thương mại Quốc tế Paris (ICC) thành lập năm
1919, Tòa án Trọng tài Quốc tế London (LCIA) thành lập năm 1917, Hiệp hội
Trọng tài Hoa Kỳ (AAA) thành lập năm 1926, Trung tâm Quốc tế giải quyết các
tranh chấp về đầu tư (ICSID) thành lập năm 1965, Trung tâm trọng tài khu vực
Kuala lumpur thành lập năm 1978…Ngày 28 tháng 4 năm 1993 Trung tâm
Trọng tài Quốc tế Việt Nam VIAC đã được thành lập và ngày càng khẳng định
được vị trí quan trọng trên thị trường trọng tài quốc tế.


18
Như vậy, hầu hết các trọng tài thương mại quốc tế - loại trọng tài thường
trực - đã được thành lập ở các quốc gia. Mặc dù có sự khác nhau về tên gọi, về
tổ chức, về quy tắc xét xử …,nhưng chúng đều có chung một đặc điểm là: với
vai trị là tổ chức phi chính phủ, trọng tài thương mại quốc tế được thành lập
nhằm giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, đặc biệt là tranh
chấp trong hợp đồng thương mại quốc tế, có ưu thế nhất định so với tịa án trong
việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các giao dịch dân sự quốc tế.


1.7. Ưu điểm của trọng tài thương mại quốc tế trong giải quyết
các tranh chấp thương mại quốc tế
Trọng tài quốc tế ngày càng được sử dụng rộng rãi nhằm giải quyết các
tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực như: Dân sự, lao động, đầu tư … có yếu
tố nước ngồi. Đặc biệt trọng tài đã trở thành một trong những phương thức chủ
yếu để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng thương mại quốc tế
(hợp đồng mua bán ngoại thương). Vậy trọng tài thương mại quốc tế có những
ưu điểm gì khiến hầu hết các thương nhân đều lựa chọn để giải quyết tranh chấp
trong hợp đồng thương mại quốc tế?
- Thứ nhất, do hình thức này có thủ tục tiện lợi, linh hoạt và nhanh chóng.
Khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài các bên được tự do lựa chọn thủ
tục tố tụng. Tính chất đơn giản, linh hoạt, mềm dẻo về mặt tố tụng trọng tài
là điều hấp dẫn đối với các bên trong việc lựa chọn giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài. Thủ tục tố tụng trọng tài thường đơn giản hơn nhiều so với
thủ tục tố tụng tại tòa án. Nếu khởi kiện tại tòa án, các bên phải tuân thủ các
nguyên tắc tố tụng rất nghiêm ngặt và phức tạp. Trái lại, giải quyết bằng
trọng tài, trong một số trường hợp, các bên có thể định ra cả nguyên tắc, trình
tự, thủ tục trọng tài (ví dụ, trọng tài ad - hoc). Đây là điểm khác biệt lớn với
phương thức giải quyết tranh chấp bằng tịa án. Vì khi giải quyết tranh chấp
tại tịa án, các bên phải tuân theo các trình tự thủ tục phức tạp tại Tịa án mà
pháp luật đã có quy định sẵn. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới các bên tranh
chấp, nó khơng chỉ gây khó khăn cho họ trong việc theo đuổi vụ kiện, mà


19
mặt khác nó cịn tạo ra sự khơng cơng bằng trong trường hợp tịa án giải
quyết vụ việc đó mà một trong hai bên mang quốc tịch, hoặc tòa án cả hai
bên khơng mang quốc tịch. Vì lúc đó, nó sẽ tạo ra các lợi thế rất lớn về mặt
ngôn ngữ, pháp luật cho bên có cùng quốc tịch với tòa án.
- Thứ hai, Phán quyết của trọng tài thường chính xác, khách quan, có độ tin

cậy cao.
Vì các bên được quyền tự lựa chọn trọng tài viên cho mình, nên các trọng
tài viên thường là những chuyên gia có kinh nghiệm, họ am hiểu sâu sắc về
các lĩnh vực chun mơn liên quan đến hợp đồng. Họ có thể là các luật sư,
hay các chuyên gia giàu kinh nghiệm trong các lĩnh vực như thương mại, tài
chính ngân hàng…Đồng thời, trọng tài viên được chọn phần lớn là những
người đã quen biết và có tín nhiệm cao với các bên. Họ có kinh nghiệm giải
quyết tranh chấp thuộc các lĩnh vực chuyên môn (thương mại, đầu tư, bảo
hiểm…) hơn hẳn các thẩm phán ở tịa án, do đó, thời gian xét xử sẽ ngắn,
quyết định của trọng tài sẽ sát thực, hợp lí và có độ tin cậy cao. Đồng thời,
quyết định của trọng tài dường như không bị chi phối bởi yếu tố chính trị điều thường gặp trong các phán quyết của tịa án. Vì thế, nó sẽ mang tính
khách quan hơn các phán quyết của tịa án.
- Thứ ba, Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ln có khả năng giữ bí mật
rất cao.
Đối với các bên tham gia hợp đồng thương mại quốc tế, thì việc giữ bí
mật các vụ kiện là rất quan trọng. Bởi bí mật nghề nghiệp, uy tín trên thương
trường có ý nghĩa sống còn đối với họ. Đặc biệt là những bí mật liên quan đến bí
quyết cơng nghệ, chất lượng sản phẩm, bí quyết kinh doanh…Nếu những bí mật
này bị tiết lộ, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh trong tương
lai của họ. Vì thế các thương nhân không một ai muốn tiết lộ các bí mật đó ra
bên ngồi. Nhưng khi tranh chấp xảy ra, thì họ phải nhờ đến sự phân giải của
bên thứ ba, khi đó, mặc nhiên những bí mật đó có thể bị tiết lộ nhất là khi giải
quyết tại tòa án bởi một trong các nguyên tắc xét xử tại tịa án là cơng khai. Bởi


20
vậy, khác với nguyên tắc xét xử công khai tại tịa án, thì trọng tài lại hoạt động
theo ngun tắc xét xử kín, các quyết định của trọng tài khơng được công khai,
nếu không được sự đồng ý của các bên. Do đó, xét xử bằng trọng tài vừa giúp
các bên giữ được bí mật kinh doanh, vừa giữ được uy tín trên thương trường.

- Thứ tư, quyết định trọng tài có giá trị chung thẩm
Sau khi trọng tài đưa ra phán quyết thì phán quyết đó có hiệu lực bắt
buộc thi hành với các bên, các bên khơng có quyền kháng cáo hay kháng nghị.
Đây là điểm khác biệt và cũng là ưu điểm hơn hẳn của phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài so với tòa án vì bản án, quyết định của tịa án có thể bị
kháng cáo lên tịa án cấp trên. Như vậy, có thể dẫn tới tình trạng dây dưa kéo dài
gây tốn kém cả về thời gian và tiền bạc lại ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh.
Ưu điểm này xuất phát từ quyền định đoạt của các bên, từ việc tự do lựa
chọn phương thức trọng tài đến lựa chọn trọng tài viên cũng như thủ tục tố tụng.
Do vậy khi quyết định trọng tài đã được đưa ra thì các bên có nghĩa vụ thực
hiện. nếu có khó khăn trong việc thi hành thì có thể nhờ đến sự giúp đỡ của cơ
quan tư pháp.


21

CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG
MẠI QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI TẠI VIỆT NAM

2.1. Lược sử hình thành và phát triển của Trọng tài Thương mại
Quốc tế tại Việt Nam
Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế bằng trọng tài đã
được biết đến từ rất sớm trên thế giới và đang dần phổ biến ở hầu hết các nước
có nền kinh tế phát triển trên thế giới.
Lịch sử hình thành của trọng tài thương mại quốc tế có thể khái quát
bằng ba từ: tương đối sớm, thậm chí trước cả cơ chế tài phán cơng là tịa án.
Ở Việt Nam, xuất phát từ nhu cầu thực tế, có những nét đặc thù của nền
kinh tế, chính trị, xã hội nên hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài phát
triển muộn hơn nhiều nước trên thế giới. Quá trình hình thành và phát triển của
trọng tài thương mại quốc tế ở Việt Nam có thể chia làm hai giai đoạn. Giai

đoạn 1 là từ 1960 - 1993, giai đoạn 2 là từ 1993 đến nay.

2.1.1. Giai đoạn từ 1960 - 1993.
- Trọng tài kinh tế nhà nước:
Ở nước ta, trọng tài kinh tế Nhà nước xuất hiện và phát triển cùng với chế
độ hợp đồng kinh tế. Trọng tài kinh tế xuất hiện khi hợp đồng kinh tế trở thành
công cụ quan trọng trong quản lí kinh tế.
Đến năm 1960, miền Bắc đã cơ bản cải tạo xong nền kinh tế và bắt tay
vào việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Nền kinh tế bắt đầu được quản
lí theo kế hoạch tập trung, thống nhất, thủ tướng chính phủ đã ban hành Nghị
định 04 - TTg ngày 04/01/1960 ban hành kèm theo điều lệ tạm thời về chế độ
hợp đồng kinh tế. 10 ngày sau đó, ngày 14/01/1960, thủ tướng chính phủ ban
hành nghị định số 20 - TTg về việc tổ chức ngành trọng tài kinh tế.
Theo nghị định này, trọng tài kinh tế được tổ chức ở cấp trung ương, khu,
thành phố, tỉnh và bộ với chức năng chủ yếu là xét xử các tranh chấp hợp đồng


22
kinh tế. Cho đến năm 1974, hội đồng trọng tài kinh tế chỉ là một tổ chức gồm
các thành viên kiêm chức ở các ngành: Tài chính, ngân hàng, vật giá, kế hoạch,
và hoạt động theo chế độ họp định kì mỗi q một lần.
Ngày 23/02/1962, chính phủ ban hành NĐ 29/CP quy định các nguyên tắc
thủ tục chính thức của hội đồng trọng tài. Tiếp đến năm 1965, nhà nước ban
hành NĐ 94/CP đổi tên gọi các hội đồng trọng tài thành hội đồng trọng tài kinh
tế nhấn mạnh vai trị của cơ quan trọng tài trong cơng tác quản lí kinh tế và
khẳng định các chức năng đặc thù của nó là giải quyết các tranh chấp kinh tế.
Đến năm 1975, chính phủ ban hành nghị định 54/CP/1975 về chế độ hợp
đồng kinh tế và ít ngày sau đó, ngày 14/4/1975, chính phủ ban hành nghị định
75/CP về điều lệ và tổ chức hoạt động của trọng tài kinh tế nhà nước. Theo nghị
định này, trọng tài kinh tế được thành lập như một cơ quan nhà nước có chức

năng quản lí cơng tác hợp đồng kinh tế với nội dung: giữ vững kỉ luật nhà nước
về công tác hợp đồng kinh tế, giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế về
xử lí vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế.
Với NĐ 24 - HĐBT ngày 10/8/1981 Hội đồng trọng tài kinh tế được
thống nhất gọi là trọng tài kinh tế, ngạch trọng tài viên được thành lập. Ngày
14/4/1984 Hội đồng bộ trưởng đã ban hành NĐ 62 - HĐBT quy định rõ hơn
chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của trọng tài kinh tế Bộ,
tỉnh, huyện. Trọng tài kinh tế huyện được thành lập theo nghị định này.
Như vậy, trong quãng thời gian từ 1960 đến 1981, trên cơ sở các văn bản
pháp luật của nhà nước, về hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế, cơ quan trọng
tài kinh tế đã khẳng định được vai trị của mình trong việc đề cao tinh thần trách
nhiệm quản lí, ý thức tổ chức kỉ luật của các xí nghiệp cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện nghĩa vụ kí kết hợp đồng kinh tế, góp phần đảm bảo hồn thành
chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước. Với tư cách là cơ quan quản lí nhà nước, thẩm
quyền của trọng tài kinh tế ở đây đương nhiên là trách nhiệm, do đó khơng có cơ
sở để đặt ra vấn đề pháp lí về giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế
trong giai đoạn này.


23
Năm 1986, quán triệt đường lối của Đảng về phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, cùng với sự thay đổi về chủ trương kế hoạch, pháp luật
của nhà nước, pháp luật về trọng tài kinh tế, cũng có sự thay đổi đáng kể, đánh
dấu sự ra đời của pháp lệnh trọng tài kinh tế, ngày 10/11/1990.
Với phương châm, vừa đảm bảo tính kế thừa những kinh nghiệm quý báu
của thực tiễn 30 năm hoạt động của trọng tài, vừa quán triệt tư tưởng đổi mới
của Đảng. Pháp lệnh trọng tài đã tạo ra cơ sở pháp lí quan trọng cho cơ quan
trọng tài thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, góp phần duy trì và phát triển
quan hệ kinh tế, đẩy mạnh sản xuất lưu thông hàng hóa, phịng ngừa và xử lí vi
phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, việc kí kết hợp đồng kinh tế
khơng cịn là kỉ luật Nhà nước, là nghĩa vụ nữa mà là quyền của các đơn vị kinh
tế, sự tồn tại cơ quan trọng tài với tư cách là cơ quan nhà nước để quản lí cơng
tác hợp đồng kinh tế là không cần thiết nữa.
Kể từ ngày 01/7/1994, ở nước ta sẽ khơng cịn có trọng tài kinh tế nhà
nước nữa. theo luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật tổ chức tòa án nhân
dân, được quốc hội thơng qua ngày 28/12/1993. Tịa kinh tế đã được thành lập
trong tòa án nhân dân tối cao và tòa án nhân dân tỉnh để xét xử các vụ án kinh tế
theo pháp luật.
Ngiên cứu kinh nghiệm giải quyết tranh chấp - thương mại ở một số nước
thấy rằng, tranh chấp thương mại kinh tế được giải quyết thơng qua trọng tài
thương mại và tịa án thương mại hay tịa án thường.
Ngày 05/9/1994, Chính phủ đã ra NĐ 116/CP về tổ chức và hoạt động của
trọng tài kinh tế, tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh có thể lựa chọn hình thức
giải quyết tranh chấp cho phù hợp, thuận tiện.
- Hội đồng trọng tài ngoại thương và hội đồng trọng tài hàng hải
Trong giai đoạn này, song song với mơ hình trọng tài kinh tế nhà nước là
mơ hình trọng tài kinh tế có tính chất xã hội nghề nghiệp. Đó là: Hội đồng trọng


24
tài ngoại thương và hội đồng trọng tài hàng hải đặt bên cạnh phịng thương mại
và cơng nghiệp Việt Nam.
Hội đồng trọng tài ngoại thương được thành lập ngày 30/4/1963 bởi nghị
định 59/CP có chức năng chính là giải quyết các tranh chấp liên quan đến
thương mại hàng hóa mà một bên mang quốc tịch Việt Nam.
Hội đồng trọng tài hàng hải được thành lập ngày 05/10/1963 bởi nghị
định 153/CP có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ hàng
hải, là một trong số các bên là cá nhân, pháp nhân, nước ngoài hoặc các bên
tranh chấp đều là cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài.

Mặc dù hoạt động với tư cách là tổ chức xã hội nghề nghiệp, song hai tổ
chức trọng tài này chỉ là sản phẩm của nền kinh tế kế hoạch tập trung cho nên
cũng chỉ phù hợp với tình hình thực tế lúc đó mà thơi.

2.1.2. Giai đoạn từ 1993 đến nay.
Trước đòi hỏi của thực tế, và sự lạc hậu của pháp luật trọng tài trong
nước, ngày 28/04/1993, thủ tướng chính phủ ra quyết định 204/1993/TTg về
việc thành lập trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam trên cơ sở hợp nhất hai hội
đồng trọng tài ngoại thương và hội đồng trọng tài hàng hải.
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam được ghi nhận là tổ chức phi chính
phủ được thành lập bên cạnh phịng thương mại và cơng nghiệp Việt Nam có
“Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh tế quốc tế
như các hợp đồng mua bán ngoại thương, các hợp đồng đầu tư, du lịch, vận tải
và bảo hiểm quốc tế, chuyển giao cơng nghệ, tín dụng và thanh tốn quốc tế”.
Ngày 16/02/1996, theo tinh thần của nghị quyết số 114/TTg của thủ tướng
chính phủ, thẩm quyền của trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam được mở rộng:
ngoài thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế quốc tế, trung tâm có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp nội địa khi các đương sự có yêu cầu.
Sự ra đời của trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, phần nào thể hiện
được quan điểm mở cửa, chủ trương khuyến khích việc giải quyết tranh chấp
kinh tế bằng trọng tài của Đảng và nhà nước ta, song chỉ mình trung tâm đó


25
chưa thể đáp ứng được nhu cầu giải quyết tranh chấp ngày càng nhiều trong nền
kinh tế nước ta. Chính vì lẽ đó, ngày 05/9/1994, chính phủ ban hành nghị định
116/CP quy định về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của các trung tâm trọng
tài với tư cách là tổ chức xã hội nghề nghiệp ở các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương như Trung tâm trọng tài kinh tế Hà Nội, Trung tâm trọng tài kinh tế
Thăng Long, Trung tâm trọng tài kinh tế Sài Gòn,…

Tại điều 1 nghị định 116/CP, quy định, các trung tâm có trọng tài có thẩm
quyền giải quyết “ Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế; các tranh chấp giữa công
ty với thành viên công ty; giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến
việc thành lập và giải thể công ty; các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ
phiếu, trái phiếu”. Pháp luật quy định các trung tâm có thẩm quyền như vậy
song mỗi trung tâm có thể xác định lĩnh vực hoạt động cho mình tùy thuộc vào
khả năng chuyên môn của các trọng tài viên.
Sau gần 10 năm hoạt động (từ 1993 đến năm 2002) trung tâm trọng tài
quốc tế Việt Nam (VIAC) và các trung tâm trọng tài khác đã thể hiện được vai
trò nhất định trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại nói chung và tranh
chấp hợp đồng thương mại quốc tế nói riêng. Tuy nhiên, trong q trình hoạt
động của các trung tâm này, đã bộc lộ nhiều bất cập trong pháp luật trọng tài
Việt Nam như: thiếu các quy định cụ thể; điều chỉnh khơng tồn diện; một số
nội dung cịn lạc hậu khơng có tính thực tiễn, không phù hợp với trọng tài khu
vực cũng như trên thế giới…
Nhằm loại bỏ các rào cản của pháp luật đối với sự phát triển của trọng tài
cũng như để đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng phương thức này ngày
càng gia tăng, đồng thời thể hiện sự tôn trọng luật chơi chung trong bối cảnh hội
nhập quốc tế. Ngày 25/02/2003, UBTVQH đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài
thương mại mở ra một giai đoạn phát triển mới của trọng tài Việt Nam nói
chung và Trọng tài Thương mại Quốc tế nói riêng. Đây là văn bản điều chỉnh
khá tồn diện và có tính thực tiễn trong lĩnh vực thương mại. Hơn thế nữa nội


×