Ý nghĩa của đòn bẩy
hoạt động trong doanh nghiệp
Tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần, dòng tiền tự do và tỷ số giá trên thu nhập là
các phương pháp sử dụng thường gặp để đánh giá hoạt động của một công ty
cũng như mức độ rủi ro của nó. Một phương pháp đo lường khác không mấy
nhận được sự quan tâm của các nhà đầu tư đó là đòn bẩy hoạt động, thể hiện
mối liên hệ giữa chi phí cố định và chi phí biến đổi của công ty.
Trong những thời gian tốt, đòn bẩy hoạt động có thể giúp công ty gia tăng tốc độ
tăng trưởng lợi nhuận. Nhưng trong những khoảng thời gian xấu, nó lại có thể
tạo ra một sự sụp giảm lợi nhuận nhanh hơn. Như vậy đòn bẩy kinh doanh của
công ty biến động cũng có thể nói cho biết rất nhiều về triển vọng của công ty đó.
Vậy đòn bẩy kinh doanh là gì?
leverage3.jpgĐịnh nghĩa theo cách phổ biến nhất, ngắn gọn nhất thì đòn bẩy
kinh doanh là sự phân tích mối quan hệ giữa chi phí cố định và chi phí biến đổi.
Đòn bẩy kinh doanh cao nhất khi công ty có tỷ lệ chi phí hoạt động cố định so với
chi phí hoạt động biến đổi cao. Điều này có nghĩa là công ty đang sử dụng nhiều
tài sản cố định hơn trong hoạt động của mình. Ngược lại, đòn bẩy kinh doanh
thấp nhất khi công ty có tỷ lệ chi phí hoạt động cố định so với chi phí hoạt động
biến đổi là thấp.
Một tỷ lệ đòn bẩy kinh doanh cao có thể tạo ra được một lợi ích rất lớn cho các
công ty. Tỷ lệ đòn bẩy kinh doanh cao có thể giúp doanh nghiệp tạo ra nhiều tiền
hơn từ mỗi doanh số tăng thêm( doanh số biên tế) nếu việc bán 1 sản phẩm
tăng thêm đó không làm gia tăng chi phí sản xuất. Doanh nghiệp hoàn toàn có
khả năng làm được điều này nếu như nó có thể lựa chọn, tài sản cố định như tài
sản, nhà xưởng và trang thiết bị cũng như số công nhân hiện hữu. Tức là nó có
thể tạo ra được tất cả sự tăng thêm này mà không cần sử dụng bất cứ một chi
phí tăng thêm nào. Vì hầu hết các chi phí đã là chi phí cố định. Do vậy, lợi nhuận
biên tế được tăng lên và thu nhập cũng tăng nhanh hơn.
Cách tốt nhất để giải thích về đòn bẩy hoạt động là chúng ta đi xem xét các ví
dụ. Lấy ví dụ như, một nhà sản xuất phần mềm như Microsoft. Phần lớn chi phí
trong cấu trúc chi phí của công ty này là chi phí cố định và được giới hạn để
phục vụ cho việc phát triển và chi phí marketing. Dù nó bán một hay 10 triệu bản
copy phần mềm Windows phiên bản mới nhất thì về cơ bản chi phí của Microsoft
vẫn không đổi. Vì vậy, một khi công ty bán được số lượng phần mềm đủ để bù
đắp chi phí cố định, cứ mỗi đô la tăng thêm trong doanh số bán hàng gần như sẽ
được chuyển hết thành lợi nhuận biên tế. Có thể nói Microsoft đã sử dụng một
đòn bẩy kinh doanh cao ấn tượng.
Ngược lại, một doanh nghiệp bán lẻ, ví dụ như Wal- Mart. Doanh nghiệp này có
mức độ đòn bẩy kinh doanh thấp. Công ty đã sử dụng chi phí cố định thấp ở
mức vừa phải trong khi chi phí biến đổi của nó lại rất lớn. Hàng hóa tồn kho để
bán được xem là chi phí lớn nhất của Wal- Mart. Với mỗi doanh thu sản phẩm
mà Wal-Mart bán được, nó phải trả cho nhà cung cấp sản phẩm đó 1 phần khá
lớn gọi là giá vốn hàng bán. Kết quả là, giá vốn hàng bán tiếp tục tăng lên khi
doanh thu bán hàng tăng lên.
Rủi ro kinh doanh
Đòn bẩy hoạt động của một doanh nghiệp có thể nói cho nhà đầu tư biết nhiều
điều về doanh nghiệp risk.jpgđó cũng như hồ sơ rủi ro của nó. Mặc dù đòn bẩy
hoạt động cao có thể tạo thêm lợi ích cho công ty. Các công ty có sử dụng đòn
bẩy kinh doanh cao cũng được xem là có khả năng biến động lớn khi nền kinh tế
có biến động và cũng chịu ảnh hưởng mạnh theo chu kỳ kinh doanh. Và như đã
nói ở trên, trong những khoảng thời gian tốt đẹp, một đòn bẩy hoạt động cao có
thể giúp tăng lợi nhuận. Nhưng các công ty có các chi phí “cột chặt" trong máy
móc, nhà xưởng, nhà đất và hệ thống kênh phân phối sẽ không thể dễ dàng cắt
giảm chi phí khi muốn điểu chỉnh theo sự thay đổi trong lượng cầu. Vì vậy, nếu
nền kinh tế có sự sụt giảm mạnh, thu nhập có thể “rơi tự do”. Đây là một rủi ro
kinh doanh rất đáng để nhà đầu tư lưu tâm.
Hãy xem xét công ty phát triển phần mềm Inktomi. Trong suốt những năm 1990,
tức là thời điểm ban đầu của việc kinh doanh phần mềm, nhà đầu tư đã vô cùng
kinh ngạc trước doanh thu cũng như lợi nhuận của nó. Công ty chi 10 triệu đô la
cho việc phát triển mỗi kênh phân phối kỹ thuật số và các chương trình phần
mềm chứa bộ nhớ kỹ thuật số. Với sự phát triển của Internet, phần mềm của
Inkitomi đã có thể được phân phối đến với người tiêu dùng mà gần như là không
tốn chi phí. Nói cách khác, công ty đã tiến gần đến với chi phí bán hàng bằng 0.
Sau khi chi phí phát triển cố định đã được thu hồi đầy đủ, mối doanh số bán tăng
thêm, công ty gần như được hường trọn thành lợi nhuận. Thế mà, chỉ sau cuộc
khủng hoảng trong thị trường công nghệ dotcom năm 2000, Inktomi đã lâm vào
tình trạng tệ hại, lúc này đòn bẩy kinh doanh đã cho thấy "mặt tối" của nó. Vì
doanh số đã rớt xuống thê thảm, lợi nhuận cũng nhanh chóng rớt theo đến mức
khiến người ta choáng, trong quý 1 năm 2001, Inktomi lỗ 58 triệu đô la, trong khi
quý 1 năm 2000, lợi nhuận của công ty đang là 1 triệu đô la. Qủa là sự sụt giảm
nhanh đến chóng mặt.
Mức độ đòn bẩy kinh danh cao sẽ phải liên quan đến việc tính toán doanh số để
bù đắp chi phí cố định mà công ty đã sử dụng và để bù đắp vị thế rủi ro của các
cổ đông. Một tỷ lệ đòn bẩy kinh doanh cao trong suốt thời kỳ suy thoái của nền
kinh tế có thể trở thành gót chân Asin, tạo áp lực lên lợi nhuận biên tế và do vậy
lợi nhuận bị thu nhỏ lại là điều không thể tránh khỏi.
Thật sự thì các công ty như Inktomi, với đòn bẩy kinh doanh cao, sẽ có sự biến
động lớn hơn trong lợi nhuận hoạt động và giá cổ phần của nó. Kết quả là, nhà
đầu tư cần xem xét các công ty một cách cẩn thận với các công ty như vậy.
Đo lường mức độ đòn bẩy kinh doanh
leverage.gifKhi một công ty sử dụng nhiều chi phí cố định thì phần trăm thay đổi
trong lợi nhuận liên quan đến sự thay đổi trong doanh số sẽ lớn hơn phần trăm
thay đổi trong doanh số. Với chi phí hoạt động cố định lớn, một 1% thay đổi
trong doanh số sẽ tạo ra một sự thay đổi lớn hơn 1% trong lợi nhuận hoạt động.
Thước đo của hiệu ứng đòn bẩy được đề cập trong tỷ lện DOL. Tỷ lệ này chỉ ra
mức độ phản ứng của lợi nhuận khi doanh số thay đổi. Nói rõ hơn, DOL là phần
trăm thay đổi trong thu nhập ( EBIT) chia cho phần trăm thay đổi trong doanh số
sản lượng bán hàng.
DOL được xác định bằng công thức sau:
DOL= Qx(P-V) / (Qx(P-V) -F)
Trong đó:
Q= số lượng hàng hóa được sản xuất( đối với DN sản xuất) hoặc được bán( đối
với DN thương mại)
V= Chi phí biến đổi trên mỗi đơn vị sản phẩm
P= Giá bán hàng hóa
F= Chi phí hoạt động cố định
Để hiểu rõ hơn, ví dụ như công ty phần mềm, vừa mới đầu tư 10 triệu đô la vào
việc phát triển và marketing cho chương trình ứng dụng mới nhất của nó, dự
định bán 45 đô la một bản copy. Công ty phải chi phí 5 đô la để bán mỗi bán
copy này. Sự thay đổi trong doanh số khi đạt đến 1 triệu bản copy như sau. Tính
toán DOL, ta được:
Q = 1.000.000 bản copies
V = $5
P =$45
F= $10.000.000
DOL = 1.000.000x ($45-$5) / (1.000.000 x($45-$5) - $10.000.000)
DOL =1.33
Như vậy, công ty phần mềm này có DOL là 1.33. Nói cách khác, cứ mỗi 25%
thay đổi trong doanh số sẽ tạo ra 1.33 x 25% =33% thay đổi trong lợi nhuận hoạt
động.
Không may, trừ khi bạn là người trong nội bộ, bằng không sẽ rất khó khăn để
bạn có được các thông tin cần thiết để đo lường DOL của công ty. Tuy nhiên
thay vào đó, bạn hãy xem xét chi phí cố định và chi phí biến đổi, những yếu tố
đầu vào then chốt đối với đòn bẩy kinh doanh. Sẽ rất ngạc nhiên nếu công ty
không có các thông tin về cấu trúc chi phí, nhưng bạn cũng phải biết rằng các
công ty không bị đòi hỏi phải công khai những thông tin như thế trong các bản
báo cáo phát hành ra công chúng.
Nhà đầu tư có thể tự tính DOL ước lượng bằng cách lấy sự thay đổi trong lợi
nhuận hoạt động của doanh nghiệp chia cho sự thay đổi trong doanh số bán
hàng.
DOL = (Thay đổi trong EBIT) / ( Thay đổi trong doanh số bán hàng)
Dựa vào bản cáo cáo thu nhập, nhà đầu tư có thể tính toán được sự thay đổi
trong lợi nhuận hoạt động và doanh số bán hàng. Lấy sự thay đổi trong EBIT