Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH LỮ HÀNH DU LỊCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.09 KB, 17 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH LỮ
HÀNH DU LỊCH
I. KINH DOANH LỮ HÀNH - MỘT BỘ PHẬN QUAN TRỌNG TRONG HOẠT ĐỘNG DU
LỊCH.
I.1. Khái niệm về du lịch và khách du lịch.
I.1.1. Khái niệm về du lịch.
Thực tế hoạt động du lịch đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển của loài
người. Trong thời kỳ cổ đại Ai Cập và Hy Lạp, hoạt động du lịch còn mang tính tự
phát, đó là cuộc hành hương về đất thánh, các thánh địa, chùa chiền, các nhà thờ
Kitô giáo... Đến thế kỷ XVII, khi các cuộc chiến tranh kết thúc, thời kỳ Phục hưng
ở các nước Châu Âu bắt đầu, kinh tế - xã hội phát triển nhanh, thông tin, bưu diện
cũng như giao thông vận tải phát triển và thúc đẩy du lịch phát triển mạnh mẽ.
Thời kỳ du lịch hiện đại gắn liền với sự ra đời của Hãng du lịch lữ hành
Thomas Cook - người đặt nền móng cho việc phát triển các hãng du lịch lữ hành
ngày nay. Năm 1841 Thomas Cook đã tổ chức cho 570 người đi từ Leicestor tới
Loughborough với một mức giá trọn gói bao gồm các dịch vụ về thức ăn, đồ uống,
vui chơi và ca nhạc tập thể... Nhưng du lịch chỉ thực sự phổ biến cuối thế kỷ XIX
và bùng nổ vào thập kỷ 60 của thế kỷ XX khi cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật
lần thứ II đem lại những thành quả to lớn về kinh tế và xã hội. Con người sống
trong không gian "bê tông", "máy tính", tác phong công nghiệp đã quá mệt mỏi, họ
nảy sinh nhu cầu trở về với thiên nhiên, về với cội nguồn văn hoá dân tộc hay chỉ
đơn giản là nghỉ ngơi sau một thời gian lao động.
Như vậy, du lịch đã trở thành hiện tượng quen thuộc trong đời sống con
người và ngày càng phát triển phong phú cả về chiều rộng và chiều sâu.
Theo Tổ chức Du lịch thế giới (WTO) năm 1998 khách du lịch toàn cầu là
625 triệu lượt người, thu nhập từ du lịch là 448 tỷ đô la Mỹ, năm 1999 là 645 triệu
lượt người, năm 2000 là 692 triệu lượt người. Và dự báo lượng du khách đạt đến
783 triệu lượt người vào năm 2005 và 937 triệu lượt người vào năm 2010.
Vậy du lịch là gì ?
Tổ chức du lịch thế giới (WTO) định nghĩa:
"Du lịch bao gồm tất cả các hoạt động của một cá nhân đi đến và lưu lại tại


những điểm ngoài nơi ở thường xuyên của họ trong thời gian không dài hơn một
năm với mục đích nghỉ ngơi, công vụ và mục đích khác".
Ở Việt nam, khái niệm du lịch được nêu trong Pháp lệnh du lịch năm 1999
như sau:
"Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình
nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian
nhất định".
Từ các định nghĩa trên cho ta thấy du lịch là một hoạt động liên quan đến
một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức đi ra khỏi nơi cư trú thường xuyên của họ
bằng các cuộc hành trình ngắn ngày hoặc dài ngày ở một nơi khác với mục đích
chủ yếu không phải làm kiếm tiền. Quá trình đi du lịch của họ được gắn với các
hoạt động kinh tế, các mối quan hệ, hiện tượng ở nơi họ cư trú tạm thời.
Có rất nhiều cách phân loại du lịch. Căn cứ vào nhu cầu và mục đích của
chuyến đi du lịch, du lịch được phân thành du lịch nghỉ ngơi, du lịch chữa bệnh, du
lịch tham quan...; căn cứ vào thời gian và địa điểm của chuyến du lịch có du lịch
quanh năm, du lịch theo mùa; Căn cứ vào hình thức du lịch thì có du lịch theo tổ
chức và du lịch không qua tổ chức hay du lịch riêng lẻ. Trong chuyên đề này chúng
tôi quan tâm nhiều hơn đến việc phân loại du lịch theo tiêu thức địa lý chính trị.
Căn cứ vào tiêu thức địa lý, chính trị, dưới góc độ một quốc gia thì du lịch
được phân chia thành du lịch nội địa và du lịch quốc tế. Du lịch nội địa là loại hình
du lịch mà các mối quan hệ, các hiện tượng gắn với du lịch chỉ diễn ra trong phạm
vi lãnh thổ một quốc gia. Ngược lại, du lịch quốc tế là loại hình du lịch mà các
cuộc hành trình và lưu trú của một cá nhân bên ngoài phạm vi, lãnh thổ nước họ,
nghĩa là ở nước ngoài.
I.1.2. Khái niệm về khách du lịch.
Nhu cầu du lịch là một loại nhu cầu đặc biệt của con người, được khơi dậy
và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Khi trình độ sản xuất xã hội ngày càng cao,
các mối quan hệ trong xã hội ngày càng được hoàn thiện thì nhu cầu đi du lịch của
con người càng trở nên gay gắt. Để thoả mãn nhu cầu này các cơ sở kinh doanh du
lịch ra đời, và đối với họ, khách du lịch là đối tượng cần quan tâm hàng đầu.

Khi định nghĩa về khách du lịch, người ta thường căn cứ vào các tiêu thức
sau:
+ Phải rời khỏi nơi thường trú.
+ Mục đích chuyến đi: với mọi mục đích, trừ mục đích lao động kiếm tiền.
+ Giới hạn về thời gian: phải trên 24 giờ (hay ngủ lại một đêm) và nhỏ hơn
một năm.
Theo Pháp lệnh du lịch năm 1999, khách du lịch được hiểu:
"Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch trừ trường hợp đi
học, làm việc hoặc hành nghề để thu nhập ở nơi đến".
Khách du lịch được phân chia thành khách du lịch nội địa và khách du lịch
quốc tế. Theo Quy chế quản lý lữ hành của Tổng cục Du lịch Việt nam thì:
"Khách du lịch nội địa là công dân Việt nam rời khỏi nơi ở của mình không
quá 12 tháng, đi tham quan, nghỉ dưỡng, hành hương, thăm người thân, bạn bè,
kinh doanh... trên lãnh thổ Việt nam".
"Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt nam định cư ở nước
ngoài đến Việt nam không quá 12 tháng với mục đích tham quan, nghỉ dưỡng, hành
hương, thăm người thân, bạn bè, tìm hiểu cơ hội đầu tư kinh doanh...".
I.2. Sự ra đời hoạt động kinh doanh lữ hành và vai trò của nó trong hoạt
động du lịch:
Quan hệ giữa cung và cầu trong du lịch là mối quan hệ mâu thuẫn và phức
tạp, nó chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên trong cũng như bên ngoài. Do đó, sự
tồn tại và phát triển của hoạt động kinh doanh lữ hành du lịch là một tất yếu khách
quan để giải quyết sự mâu thuẫn này.
Thứ nhất, Cung du lịch mang tính chất cố định, còn cầu du lịch lại phân tán
khắp mọi nơi: các tài nguyên du lịch và các nhà cung cấp sản phẩm du lịch (khách
sạn, nhà hàng, dịch vụ vui chơi giải trí...) không thể mang được những giá trị của
sản phẩm của mình đến tận nơi ở thường xuyên của khách hay không thể mang
"rao bán" khắp nơi đến tay cho khách mà du khách phải tìm đến với các tài nguyên
và sản phẩm du lịch.
Như vậy, trong du lịch chỉ có dòng chuyển động ngược chiều từ cầu đến với

cung, không có dòng chuyển động từ cung đến với cầu như phần lớn các sản phẩm
hàng hoá khác. Trong một phạm vi nào đó, người ta có thể nói cung du lịch tương
đối thụ động, cầu du lịch phải tìm đến với cung khi cầu không có đủ thông tin về
cung. Do vậy, phải xuất hiện một hoạt động trung gian là hoạt động lữ hành. Hoạt
động lữ hành nhằm cung cấp đầy đủ các thông tin về điểm du lịch, cơ sở lưu trú,
các dịch vụ khác du khách và làm động tác ghép nối các hàng hoá và dịch vụ tạo
thành một chương trình du lịch trọn gói phục vụ cho du khách.
Thứ hai, Cầu du lịch mang tính chất tổng hợp còn cung du lịch mang tính
chất đơn lẻ. Khi đi du lịch, khách du lịch có nhu cầu về mọi thứ, từ tham quan các
tài nguyên du lịch tới việc ăn ngủ, đi lại, làm visa, hộ chiếu... cũng như thưởng
thức các giá trị văn hoá tinh thần. Có nghĩa là, ngoài những nhu cầu hàng ngày,
khách du lịch còn rất nhiều nhu cầu đặc biệt khác. Đối lập với tính tổng hợp nhu
cầu của khách du lịch thì khách sạn chủ yếu đáp ứng nhu cầu lưu trú, công ty vận
chuyển chỉ đảm bảo việc tự sắp xếp, bố trí các hoạt động để có một chuyến du lịch
như ý muốn.
Thứ ba, Các cơ sở kinh doanh du lịch gặp khó khăn trong thông tin quảng
cáo, khách du lịch thường không có đủ thời gian, thông tin và khả năng tự tổ chức
các chuyến du lịch với chất lượng cao, phù hợp nhu cầu. Do vậy những thông tin
về cung không thể trực tiếp đến với khách du lịch, bản thân khách du lịch lại gặp
phải những khó khăn đi du lịch như: ngôn ngữ, thủ tục xuất nhập cảnh, tiền tệ,
phong tục tập quán, sự hiểu biết về điểm du lịch và tâm lý lo ngại... Vì vậy mà giữa
khách du lịch với các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch có nhiều bức tường chắn
ngoài khoảng cách về địa lý.
Cuối cùng, do kinh tế phát triển, thu nhập của mọi tầng lớp tăng lên không
ngừng. Khách du lịch ngày càng yêu cầu được phục vụ tốt hơn, chu đáo hơn. Họ
chỉ muốn có một công việc chuẩn bị duy nhất đó là chi phí trả cho chuyến du lịch.
Tất cả những công việc còn lại phải có sự sắp xếp chuẩn bị của các cơ sở kinh
doanh du lịch.
Chính vì những lý do trên mà tất yếu phải xuất hiện một tác nhân có khả
năng liên kết cung và cầu để giải quyết các mâu thuẫn. Tác nhân đó chính là các

Công ty lữ hành du lịch nói chung và Công ty lữ hành quốc tế nói riêng, những
người thực hiện các hoạt động kinh doanh lữ hành.
Vậy hoạt động kinh doanh lữ hành là gì ? Theo Tổng cục Du lịch Việt nam
(Quy chế quản lý lữ hành ngày 29/4/1995) thì:
"Kinh doanh Lữ hành (Tour Operators Business) là việc thực hiện các hoạt
động nghiên cứu thị trường, thiết lập các chương trình du lịch trọn gói hay từng
phần, quảng cáo và bán các chương trình này trực tiếp hay gián tiếp qua các trung
gian hoặc văn phòng đại diện, tổ chức thực hiện chương trình và hướng dẫn du lịch.
Các doanh nghiệp lữ hành đương nhiên được phép tổ chức mạng lưới đại lý lữ
hành".
Những doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh lữ hành đó là các Công
ty lữ hành, Công ty lữ hành ra đời đã giúp cho khách du lịch có điều kiện thuận lợi
và cảm thấy thoải mái, yên tâm hơn, bớt hao tổn thời gian và tiền của trong chuyến
du lịch. So với việc tự tổ chức một chuyến đi của cá nhân thì giá của chuyến đi
thông qua các Công ty lữ hành là tương đối rẻ. Về phía các nhà cung cấp, nhờ có
các Công ty lữ hành mà họ bớt đi được phần nào sự thụ động trong việc tiêu thụ
sản phẩm, bớt được sự rủi ro vì lượng khách bất thường, tăng được khả năng thu
hút khách cũng như việc tiêu thụ sản phẩm của mình để tập trung vào việc sản
xuất, mở rộng quy mô và đa dạng hoá sản phẩm, tạo ra các dịch vụ du lịch mới
phục vụ nhu cầu của khách du lịch.
Công ty lữ hành còn đóng vai trò trung gian, bán và tiêu thụ sản phẩm của
các nhà cung cấp dịch vụ du lịch, trên cơ sở đó, rút ngắn hoặc xoá bỏ khoảng cách
giữa khách du lịch với các cơ sở kinh doanh du lịch. Công ty lữ hành còn thu hút
và tổ chức gửi khách tới các điểm du lịch, tạo điều kiện cho các cơ sở kinh doanh ở
đó khai thác với mức tốt nhất công suất hoạt động của hệ thống cơ sở vật chất kỹ
thuật của mình. Hơn thế nữa, nếu là những Tập đoàn lữ hành Du lịch mang tính
chất toàn cầu sẽ góp phần quyết định tới xu hướng tiêu dùng du lịch trên thị trường
hiện tại và tương lai.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH LỮ HÀNH.
II.1. Khái niệm về Công ty Lữ hành.

Đã tồn tại khá nhiều định nghĩa khác nhau về Công ty lữ hành xuất phát từ
các góc độ khác nhau trong việc nghiên cứu các Công ty lữ hành. Mặt khác bản
thân hoạt động du lịch nói chung và lữ hành du lịch nói riêng có nhiều biến đổi
theo thời gian. Ở mỗi một giai đoạn phát triển, hoạt động lữ hành du lịch luôn có
những hình thức và nội dung mới.
Thời kỳ đầu tiên: Công ty lữ hành được đinh nghĩa như là một pháp nhân
kinh doanh chủ yếu dưới hình thức là đại lý, đại diện của các nhà sản xuất (khách
sạn, hãng ôtô, tàu biển...) bán sản phẩm tới tận tay người tiêu dùng với mục đích
thu tiền hoa hồng.
Thời kỳ phát triển cao hơn: Công ty lữ hành được hiểu không phải là một
trung gian thuần tuý, mà còn tự tạo ra các sản phẩm của mình bằng cách tập hợp
các sản phẩm riêng rẽ như dịch vụ khách sạn, vé máy bay, ôtô, tàu thuỷ và các
chuyến tham quan thành một sản phẩm (chương trình du lịch) hoàn chỉnh và bán
cho khách hàng du lịch với một mức giá gộp, đặc biệt Công ty lữ hành là người có
quyền quyết định chất lượng sản phẩm của mình.
Ở Việt nam, theo Quy chế quản lý lữ hành của Tổng cục du lịch thì: "Doanh
nghiệp lữ hành là đơn vị có tư cách pháp nhận, hạch toán độc lập được thành lập
nhằm mục đích sinh lợi bằng việc giao dịch, ký kết hợp đồng du lịch và tổ chức thực
hiện các chương trình du lịch đã bán cho khách du lịch".
Theo cách phân loại của Tổng cục du lịch Việt nam thì các Công ty lữ hành
gồm 2 loại: Công ty lữ hành quốc tế và Công ty lữ hành nội địa.
"Công ty Lữ hành quốc tế có trách nhiệm xây dựng, bán các chương trình du
lịch trọn gói hoặc từng phần theo yêu cầu của khách du lịch để trực tiếp thu hút
khách đến Việt nam và đưa công dân Việt nam, người nước ngoài vào cư trú tại Việt
nam đi du lịch nước ngoài, thực hiện các chương trình du lịch đã bán hoặc ký hợp
đồng uỷ thác từng phần, trọn gói cho Lữ hành nội địa".
II.2. Cơ cấu tổ chức của một Công ty Lữ hành.
Mỗi một Công ty lữ hành nói chung và Công ty lữ hành quốc tế nói riêng đều
có một cơ cấu tổ chức nhất định sao cho phù hợp với quy mô, điều kiện, chức năng
kinh doanh... của từng công ty. Ở Việt nam, mô hình cơ cấu tổ chức của một Công

ty lữ hành du lịch có quy mô trung bình được thể hiện bằng sơ đồ sau:

×