VẤN ĐỀ THIẾT LẬP VÀ ĐIỀU CHỈNH CÁN CÂN
THANH TOÁN QUỐC TẾ
Chương này trình bày những khái niệm và nội dung cơ bản của cán cân thanh
toán Quốc tế. Sau đó, đề cập đến nguyên tắc bút toán và phân tích cán cân thanh
toán. Cuối chương sẽ đưa các cơ chế điều chỉnh và những kinh nghiệm điều chỉnh
cán cân thanh toán ở một số nước phát triển.
1.1 Khái niệm cán cân thanh toán quốc tế:
Xét dưới một góc độ nhất định, các định nghĩa về cán cân thanh toán trong
những sách kinh tế vĩ mô, tài chính quốc tế về cơ bản là giống nhau. Tuy vậy, quan
điểm của quỹ tiền tệ (IMF) được trình bày trong "Sổ tay cán cân thanh toán"
(1993) được coi là chính thức mà các thành viên khi lập cán cân thanh toán phải
tuân theo. Theo đó, cán cân thanh toán Quốc tế được định nghĩa như sau:
"Cán cân thanh toán là một bản thống kê được thành lập một cách có hệ thống
các giao dịch kinh tế của một nướcvới phần còn lại của thế giới trong một khoảng
thời gian nhất định. Các giao dịch, chủ yếu là giữa người cư trú và người không cư
trú, gồm các luồng trao đổi về hàng hoá, dịch vụ và thu nhập; các giao dịch về tài
sản và các khoản nợ tài chính của một nước với phần còn lại của thế giới. Bản thân
một giao dịch được nhìn nhận như một luồng kinh tế phản ánh sự phát sinh, sự
biến đổi, sự trao đổi, sự chuyển giao, hay sự thanh toán các giá trị kinh tế và dẫn
đến sự thay đổi về quyền sở hữu hàng hoá và /hay các tài sản tài chính, cung cấp
các dịch vụ, hay cung cấp lao động và vốn".
Tóm lại: Cán cân thanh toán của một nước là bản ghi chép toàn bộ giao dịch
kinh tế giữa người cư trú của nước lập báo cáo với người cư trú của phần còn lại
của thế giới trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm) bao gồm
các giao dịch về hàng hoá, dịch vụ, thu nhập, các tại sản khác và các khoản nợ tài
chính, các khoản chuyển giao một chiều.
Như vậy, cán cân thanh toán là tài khoản đối ngoại trong hệ thống các tài khoản
quốc gia. Tình trạng của nó sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoái, đến
tình hình ngoại hối, đến toàn bộ nền kinh tế của một nước đặc biệt là lĩnh vực kinh
tế đối ngoại .
1.2 Phân tích nội dung của cán cân thanh toán quốc tế:
1.2.1 Nội dung của cán cân thanh toán Quốc tế:
Theo cuốn Sổ tay của cán cân thanh toán Quốc tế xuất bản lần thứ 4 của Quỹ
tiền tệ Quốc tế (IMF), cán cân thanh toán Quốc tế gồm những khoản mục sau: Tài
khoản vãng lai, tài khoản vốn và tài chính, tài khoản dự trữ. Ngoài ra, do khó khăn
trong việc thu thập số liệu của tất cả các giao dịch của một số nước với thế giới bên
ngoài nên trong cán cân thanh toán còn có tài khoản sai sót.
A. Tài khoản vãng lai:
Tài khoản vãng lai hay còn gọi là cán cân vãng lai là một bộ phận chính hình
thành lên bảng cán cân thanh toán của một nước. Nó phản ánh đầy đủ mọi giao
dịch có giá trị kinh tế xảy ra giữa những người cư trú và không cư trú. Cụ thể:
Trong tài khoản vãng lai bao gồm các hạng mục: Hàng hoá, dịch vụ, thu nhập,
chuyển giao vãng lai một chiều.
1. Hạng mục hàng hoá: Hạch toán tất cả các khoản thu từ xuất khẩu hàng hoá
và các khoản chi để nhập khẩu hàng hoá. Bảng cân đối thu chi của phần này được
gọi là cán cân thương mại . Thông thường đây là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong tài khoản vãng lai . Tất cả các số liệu xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá được
ghi chép trong cán cân thanh toán được tính theo giá FOB hoặc FAS.
2. Hạng mục dịch vụ: Hạch toán các khoản thu từ xuất khẩu và chi để nhập
khẩu các loại hình dịch vụ. Bảng cân đối thu và chi của phần này được gọi là cán
cân dịch vụ. Theo tiêu chuẩn của IMF, hạng mục này có thể phân chia thành:
a. Dịch vụ vận chuyển: cước phí, hành khách, các khoản khác
b. Dịch vụ du lịch: bao gồm các chi phí khách sạn và nhà trọ, các chi phí du
lịch khác (nhà hàng, các chuyến thăm quan...).
c. Các dịch vụ khác. Bao gồm:
- Dịch vụ chính phủ:
+Các giao dịch của các Đại sứ quán, các nhà tư vấn, các cơ quan quân sự
quốc phòng.
+Các giao dịch với các cơ quan khác như: Phái đoàn viện trợ, các phái
đoàn du lịch Chính phủ, thông tin và các văn phòng thúc đẩy thương mại.
- Dịch vụ tư nhân:
+Các dịch vụ thông tin và tin học.
+Các dịch vụ xây dựng.
+Các dịch vụ bảo hiểm.
+Các chi phí bản quyền và giấy phép.
+Các dịch vụ tài chính.
+Các dịch vụ kinh doanh khác.
+Các dịch vụ phục vụ cá nhân.
3. Hạng mục thu nhập: Hạch toán tất cả các khoản thu nhập từ hai yếu tố sản
xuất: Lao động và vốn. Thu nhập từ lao động gọi là thu nhập của người lao động.
Thu nhập từ vốn gọi là thu nhập đầu tư.
a. Thu nhập của người lao động bao gồm lương, thưởng và các khoản thu
nhập khác bằng tiền hoặc bằng hàng do người không cư trú trả cho người cư trú và
ngược lại.
b. Thu nhập đầu tư bao gồm:
+Thu nhập đầu tư trực tiếp (các khoản thu nhập đầu tư và tái đầu tư)
+Thu nhập đầu tư vào giấy tờ có giá (thu nhập do nắm giữ cổ phiếu, trái
phiếu,các giấy tờ có giá và các công cụ tài chính khác).
+Thu nhập đầu tư khác: các khoản thu về tài sản của người cư trú
4. Hạng mục chuyển giao vãng lai một chiều: Ghi chép các khoản chuyển
giao dưới dạng không hoàn lại như quà tặng, viện trợ và các khoản chuyển giao
khác bằng tiền mặt hoặc hiện vật giữa người cư trú và người không cư trú cho mục
đích tiêu dùng này bao gồm:
a. Chuyển giao khu vực chính phủ
- Các khoản viện trợ không hoàn lại (các khoản chuyển giao bằng tiền hoặc
bằng hàng ví dụ như quà tặng về thực phẩm, quần áo, thuốc men và hàng tiêu dùng
khác với mục đích cứu trợ)
- Các khoản chuyển giao khác
b. Chuyển giao khu vực phi chính phủ
Chuyển tiền của người lao động bao gồm những khoản chuyển tiền của công
nhân lao động ở nước ngoài hơn một năm chuyển về nước. Tiền lương của lao
động ở nước ngoài dưới một năm cần hạch toán trong mục thu nhập của người lao
động.
Các khoản viện trợ của tổ chức phi chính phủ (như tổ chức chữ thập đỏ quốc
tế...) bằng tiền hoặc bằng hàng hoặc trợ giúp dưới hình thức kỹ thuật.
B. Tài khoản vốn và tài chính:
Tài khoản vốn và tài chính là tổng hợp tất cả các giao dịch ghi chú những thay
đổi về tổng tài sản, những khoản có và nhữmg khoản nợ tài chính nước ngoài của
một nước. Các giao dịch chủ yếu trong hạng mục vốn và tài chính bao gồm:
1. Chuyển giao vốn một chiều bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại cho
mục đích đầu tư, các khoản nợ được xoá giữa người cư trú và người không cư trú,
các loại tài sản của người cư trú di cư mang ra nước ngoài và của người không cư
trú di cư vào nước lập báo cáo.
2. Các giao dịch về tài sản phi tài chính bao gồm các tài sản vô hình như bản
quyền, nhãn hiệu thương mại, bằng sáng chế, giấy phép kinh doanh, hợp đồng thuê
mua, hoặc các hợp đồng chuyển nhượng khác.
3. Đầu tư trực tiếp là việc nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào một nước sở tại
vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư thu lợi nhuận
theo quy định của luật đầu tư nước ngoài của nước sở tại.
4. Đầu tư gián tiếp là việc người không cư trú đầu tư vào giấy tờ có giá như cổ
phiếu, trái phiếu dài hạn, trái phiếu ngắn hạn, các công cụ thị trường tiền tệ và các
công cụ phái sinh do người cư trú phát hành.
5. Đầu tư khác bao gồm các khoản vay dài hạn, trung hạn, ngắn hạn, các khoản
tiền mặt và tiền gửi không được liệt kê trong các khoản mục 1,2,3,4 và tài khoản
dự trữ chính thức.
C. Tài khoản dự trữ:
Ghi lại những thay đổi về tài sản dự trữ của cơ quan quản lý tiền tệ để tài trợ và
điều hoà sự mất cân đối của cán cân thanh toán. Nó có thể là những dạng sau:
1. Vàng tiền tệ: Vàng tinh chế thuộc sở hữu của các cơ quan quản lý tiền tệ.
Các giao dịch bằng vàng tiền tệ chỉ xảy ra giữa các ngân hàng Trung ương các
nước hoặc với các tổ chức tiền tệ Quốc tế.
2. Quyền rút vốn đặc biệt (SDR): Đơn vị tiền tệ của quỹ IMF.
3. Ngoại hối: Các phương tiện có giá trị được dùng để tiến hành thanh toán
giữa
các quốc gia (ví dụ: Ngoại tệ tiền mặt, tiền gửi và các phương tiện thanh toán Quốc
tế ghi bằng ngoại tệ...)
D. Sai sót thống kê: Phản ánh phần chênh lệch do sai sót thống kê của tất cả
các hạng mục trong cán cân thanh toán.
1.2.2 Phân tích nội dung cán cân thanh toán :
Phân tích cán cân thanh toán là một trong những cơ sở quan trọng để các nhà
hoạch định chính sách đưa ra những chính sách thích hợp cho từng thời kỳ. Cán
cân thanh toán Quốc tế cần phải được phân tích ở nhiều khía cạnh khác nhau, trong
mối quan hệ với các tài khoản kinh tế vĩ mô khác và trong các mối quan hệ giữa
các hạng mục của cán cân thanh toán.
A. Dư thừa và thiếu hụt cán cân thanh toán.
Theo hệ thống kế toán bút toán kép, tổng các khoản ghi nợ bằng tổng các khoản
ghi có cán cân thanh toán luôn cân bằng. Về nguyên tắc, các giao dịch được ghi
trong cán cân thanh toán được chia làm hai loại chính: giao dịch tự định và giao
dịch điều chỉnh. Giao dịch tự định là những giao dịch được thực hiện vì lợi ích của
bản thân chúng. Điểm đặc trưng của giao dịch tự định là chúng được thực hiện độc
lập không phụ thuộc vào trạng thái của cán cân thanh toán của nước lập báo cáo.
Tất cả các giao dịch khác được gọi là giao dịch điều chỉnh. Các giao dịch điều
chỉnh không được thực hiện vì lợi ích của chính nó. Đúng hơn, khi các giao dịch tự
định để lại một lỗ hổng cần phải được bù đắp thì giao dịch điều chỉnh phải được
thực hiện để bù đắp lỗ hổng đó (vì thế mà giao dịch tự điều chỉnh còn được gọi là
giao dịch bù đắp).
Hãy tưởng tượng một đường nằm ngang được vẽ xuyên qua một bảng cán cân
thanh toán. Phía trên đường tưởng tượng đó, đặt tất cả các giao dịch tự định; phía
dưới, đặt các giao dịch điều chỉnh. Khi số dư các giao dịch tự định bằng không (có
nghĩa là các khoản thu tự định bằng các khoản chi tự định), cán cân thanh toán là
cân bằng. Khi tổng các khoản thu tự định (những khoản có) lớn hơn tổng các
khoản chi tự định (những khoản nợ), thì có một thặng dư; và khi tổng số các
khoản thu tự định nhỏ hơn tổng số các khoảnchi tự định, thì có một thâm hụt.
Trong mỗi trường hợp, sự đo lượng mất cân bằng kế toán (thặng dư hay thiếu
hụt) được xác định bằng chênh lệch giữa tổng số những khoản thu tự định và
tổng số những khoản chi tự định.
Do cán cân thanh toán là đồng nhất thức, chúng ta luôn có:
Tổng các giao dịch tự định+tổng các giao dịch điều chỉnh=0
Hay: Tổng các giao dịch tự định = -Tổng các giao dịch điều chỉnh
Do đó, đo lường sự mất cân bằng các cân thanh toán cũng có thể xác định như
là số âm của chênh lệch giữa các khoản thu và chi của giao dịch điều chỉnh.
Tuy nhiên, sự phân biệt giữa giao dịch tự định và giao dịch điều chỉnh trong
thực tế là không rõ ràng do đó không có cách đo lường kế toán duy nhất về sự mất
cân bằng cán cân thanh toán. Nói chung, để phản ánh trạng thái của cán cân thanh
toán quốc tế của một nước người ta thường dùng cán cân tổng thể (tổng hợp cán
cân vãng lai và cán cân vốn và tài chính). Tuy nhiên, cán cân tổng thể đôi khi
không được đánh giá chính xác bằng cán cân vãng lai bởi vì nó không phản ánh
đúng năng lực sản xuất hay khả năng cạnh tranh kinh tế của một nước. Chẳng hạn,
khi một nước thặng dư cán cân thanh toán, điều này nghe có vẻ lành mạnh nhưng
nếu đi sâu vào phân tích từng chỉ tiêu lại thấy cán cân vãng lai bị thiếu hụt lớn và
được tài trợ hoàn toàn bằng vay nợ, đầu tư nước ngoài. Do đó, sự phân tích thoả
đáng về cơ cấu tài trợ liên quan đến sự ổn định các cân vãng lai trong tương lai là
rất cần thiết.
B. Phân tích tài khoản vãng lai:
Như ta đã biết, trong cán cân thanh toán, cán cân vãng lai giữ vai trò quan đặc
biệt quan trọng. Vì vậy, khi phân tích cán cân thanh toán cần phải chú trọng phân
tích cán cân vãng lai và số dư tài khoản vãng lai.
Các nhà kinh tế học cho rằng những định nghĩa khác nhau thể hiện những mặt
khác nhau của cán cân vãng lai. Trên thực tế, có bốn định nghĩa về cán cân vãng lai
và sự lựa chọn định nghĩa nào phụ thuộc vào mục đích phân tích.
Thứ nhất: cán cân vãng lai đo lường các giao dịch kinh tế của một nước với
phần còn lại của thế giới về hàng hoá, dịch vụ, thu nhập và chuyển giao một chiều
(định nghĩa trong Rivera-Batiz, 1989, trang 119). Hay nói cách khác, cán cân vãng
lai là tổng của chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ (X-M)
cộng với thu nhập yếu tố ròng từ nước ngoài (NF) và chuyển khoản ròng từ nước
ngoài (NTR). Theo định nghĩa này, tài khoản vãng lai (CA) sẽ bằng:
CA= X-M+NF+NTR
Theo định nghĩa này, Khi thâm hụt ngân sách vượt quá 5% đến 6% GDP có thể
có vấn đề và cần chú ý yếu tố nào đã gây ra thâm hụt. Liệu có phải do người dân
đã nhập quá nhiều hàng hoá và dịch vụ? Phần thâm hụt do tiêu dùng bùng nổ có
thể được tài trợ bởi phần rút ra từ các tài khoản dự trữ hoặc tăng các khoản nợ.
Trong cả hai trường hợp đều có thể gây ra nhiều vấn đề song tăng các khoản nợ,
đặc biệt là các khoản vay ngắn hạn có thể cho thấy dấu hiệu của một nền kinh tế
suy yếu và các chính sách gia cần có những hành động khẩn trương. Người đảm
nhiệm công tác phân tích cán cân thanh toán cần được cung cấp đầy đủ các thông
tin chi tiết để cố vấn cho các nhà hoạch định chính sách giúp họ đưa ra các quyết
định đúng đắn và kịp thời.
Thứ hai: cán cân vãng lai được định nghĩa như chênh lệch giữa thu nhập và chi
tiêu của nền kinh tế .
Vì vậy: CA= Y- A
A= C + I + G
Y: thu nhập A: chi tiêu C: tiêu dùng tư nhân
I : Đầu tư tư nhân G: Chi tiêu và đầu tư của chính phủ.
Định nghĩa này được Alexander đưa ra vào năm 1950. Từ định nghĩa trên ta
thấy, cán cân vãng lai của một nước chỉ có thể được cải thiện bằng sự tăng tương
đối của thu nhập quốc dân so với chi tiêu hay sự giảm tương đối chi tiêu so với thu
nhập quốc dân.
Thứ ba: cán cân vãng lai là chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư của toàn bộ nền
kinh tế.
CA= S - I
S : Tiết kiệm trong nước I : Đầu tư trong nước CAlà cán cân vãng lai
Nếu chia tổng tiết kiệm (S) và đầu tư (I) của toàn bộ nền kinh tế thành các phần
về khu vực chính phủ và tư nhân. Ta có:
CA=(Sp+Sg)-(IP+Ig) hay CA=(Sp-Ip)+(Sg-Ig)
Công thức trên cho thấy cán cân vãng lai bằng chênh lệch của khu vực tư nhân
cộng khu vực chính phủ. Vì vậy, khi đề ra các biện pháp, chính sách nhằm cải
thiện cán cân vãng lai phải nghiên cứu tác động của chúng tới hành vi tiết kiệm và
đầu tư. Nếu thâm hụt tài khoản vãng lai xuất hiện do các hoạt động đầu tư mạnh thì
phần thâm hụt này cần được tài trợ bởi đầu tư trực tiếp tại nước báo cáo hoặc phần
tăng trong các khoản vay bên ngoài hay bởi đầu tư chứng khoán. Tỷ lệ thâm hụt tài
khoản vãng lai tương đối lớn (6% hoặc 7%) có thể là bền vững nếu nó liên quan
đến các hoạt động đầu tư trực tiếp mạnh ở nước báo cáo.
Thứ tư: khi công dân một nước cho vay hay mượn một lượng tiền của nước
ngoài, họ đã tạo ra một quan hệ tài sản với phần còn lại của thế giới. Vì vậy, khi
phân tích tiết kiệm và đầu tư, phải tính đến nguồn tài chính nước ngoài. Từ đó, có
thể định nghĩa tài khoản vãng lai như những thay đổi trong tài sản nước ngoài ròng
của quốc gia lập báo cáo với phần còn lại của thế giới.
CA= B*
t
- B
t-1
*
B*
t
: Tài sản nước ngoài ròng giai đoạn hiện tại.
B
t-1
*: Tài sản nước ngoài ròng giai đoạn trước .
Định nghĩa này được Sarch và Larrain mở rộng từ định nghĩa trên. Theo đó, các
thay đổi tài sản nước ngoài ròng có thể bù đắp được tình trạng thâm hụt của tài
khoản vãng lai. Thặng dư tài khoản vãng lai có nghĩa là nước này đang tích luỹ tài
sản quốc tế ròng. Ngược lại, thâm hụt tài khoản vãng lai nghĩa là nước này đang
giảm dần tài sản quốc tế ròng hoặc tăng thêm nghĩa vụ nợ nước ngoài. Như vậy: có
thể định nghĩa tài khoản vãng lai là sự thay đổi vị thế đầu tư quốc tế ròng của một
nước .
Như vậy, để tìm ra nguyên nhân dẫn đến sự thâm hụt tài khoản vãng lai cũng
như đưa ra những biện pháp điều chỉnh có hiệu quả để cải thiện tình trạng, cần phải
có sự phân tích cụ thể từng khoản mục trong cán cân vãng lai, đặc biệt là cán cân
thương mại.
Thâm hụt cán cân vãng lai không phải bao giờ cũng xấu, điều đó còn phụ thuộc
vào khả năng thanh toán của một nước. Khả năng thanh toán được đánh giá thông
qua các chỉ số vĩ mô như: tỷ lệ xuất khẩu/GDP, tỷ giá hối đoái thực tế, tiết kiệm
với đầu tư nội địa. Nếu một quốc gia có tỷ lệ xuất khẩu/GDP lớn, tỷ giá hối đoái ổn
định và sát với thực tế, mức tiết kiệm và đầu tư cao thì thâm hụt cán cân thương
mại nếu có cũng ít khả năng gây ra khủng hoảng kinh tế. Một tiêu chí quan trọng
khác để đánh giá tình trạng cán cân thanh toán quốc tế của một nước là khả năng
chịu đựng của cán cân thanh toán vì nó chú ý đến những yếu tố nói trên. Đối với
một nước có nợ nước ngoài ròng dương và thâm hụt cán cân vãng lai, một "điểm
uốn" giữa thâm hụt và thặng dư là cần thiết để đảm bảo khả năng thanh toán và khả
năng chịu đựng. Một tiêu chuẩn cần được xét đến khi đánh giá khả năng chịu đựng
là liệu "điểm uốn" có thể đạt được một cách suôn sẻ và không gây những bất ổn
cho nền kinh tế khi cán cân thương maị đảo chiều đột ngột từ thâm hụt sang thặng
dư, không tạo ra sự thay đổi lớn trong chính sách (ví dụ: chính sách thắt chặt đột
ngột) và không gây ra tình trạng rệu rã của nền kinh tế.
Sơ đồ 1: Mối quan hệ kinh tế vĩ mô cơ bản
XK h ng hoá v dà à ịch vụ
Trừ
NK h ng hoá v dà à ịch vụ
Thu nhập
quốc dân
khả dụng
(SNDI)
Chi
tiêu
(A)
Cộng
Thu nhập ròng
Cộng
Chuyển giao ròng nước ngo ià
Chênh lệch
T i khoà ản vãng
lai của cán cân
thanh toán (CA)
Tất cả các khoản mục bù đắp
để cân bằng cán cân vãng lai
Chênh lệch giữa tiết kiệm
v à đầu tư Quốc gia (S-I)
Thay đổi về t i sà ản ngoại tệ
ròng của các tổ chức phi ngân
h ngà
Chênh
lệch
khu
vực tư
nhân
Chênh
lệch khu
vực
chính
phủ
Cộng