Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP QUỐC DOANH Ở NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.74 KB, 24 trang )

THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
QUỐC DOANH Ở NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM
I. SƠ LƯỢC VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM
1. Hoàn cảnh ra đời và sự phát triển.
Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm ra đời từ ngân hàng Nhà nước quận
Hoàn Kiếm, trực thuộc ngân hàng Nhà nước thành phố Hà nội- ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, được thành lập ngày 1 tháng 5 năm 1951 theo sắc lệnh của chủ
tịch nước Hồ Chí Minh.Trước tháng 3 năm 1988, tức trước nghị định 53/HĐBT:
“Đổi mới hoạt động ngân hàng”, nhiệm vụ của ngân hàng là phục vụ công tác
tiền tệ, tín dụng, thanh toán trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, vừa thực hiện chức
năng quản lý, vừa thực hiện chức năng ngân hàng hoạt động theo kế hoạch của
Nhà nước và được Nhà nước bao cấp, do đó có sự đầu tư tín dụng tràn lan kém
hiệu quả.
Cùng với sự đổi mới nền kinh tế, hệ thống ngân hàng với vai trò là động
lực cho sự phát triển, cũng được đổi mới bắt đầu từ Nghị định 53/HĐBT ngày
26/3/1988 của hội đồng bộ trưởng (nay là chính phủ), đặc biệt là sự ra đời của
hai pháp lệnh ngân hàng năm 1994 (pháp lệnh ngân hàng nhà nước và pháp lệnh
về ngân hàng công ty tài chính và tổ chức tín dụng). Hệ thống ngân hàng Việt
nam đã có sự chuyển biến căn bản. Đó là việc chuyển đổi từ hệ thống ngân hàng
một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, trong đó:
+ Ngân hàng nhà nước Việt nam với tư cách là ngân hàng của các ngân
hàng, cùng với hệ thống chi nhánh ở các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương,
thực hiện chức năng quản lý nhà nước thông qua các chính sách về tiền tệ, về tín
dụng...
+ Các ngân hàng thương mại bao gồm ngân hàng thương mại quốc
doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, các hợp tác xã tín dụng... chuyên doanh theo từng lĩnh vực và
hoạt động theo phương thức hạch toán kinh doanh độc lập.
Như vậy trong hệ thống ngân hàng hai cấp đã phân chia rõ vai trò, nhiệm
vụ của các ngân hàng. Đó là nhiệm vụ quản lý hệ thống tài chính, tiền tệ của
ngân hàng nhà nước và nhiệm vụ kinh doanh của ngân hàng thương mại, tránh


được sự xen kẽ, chồng chéo vai trò nhiệm vụ của nhau.
Với sự đổi mới này, ngân hàng Nhà nước quận Hoàn Kiếm, đóng ở số
10 Lê Lai chuyển thành một ngân hàng thương mại cấp quận, trực thuộc Ngân
hàng Công thương Trung ương. Từ đó đến nay, với vai trò là một ngân hàng
thương mại quốc doanh, ngân hàng công thương Hoàn Kiếm đã tổ chức thực
hiện các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán trên địa bàn quận,
phục vụ cho nhu cầu kinh tế xã hội trong quận mình.
Ngân hàng công thương Hoàn kiếm trước kia đóng ở Lê lai nay chuyển
về 37 Hàng bồ, quận Hoàn kiếm, thành phố Hà nội và số 10 Lê lai trở thành một
phòng giao dịch của nó.
Hoàn kiếm là một trong những quận trung tâm của thành phố Hà nội, có
địa bàn rộng và là một trung tâm kinh tế văn hoá xã hội, là nơi tập trung nhiều
khu công nghiệp, thương nghiệp, nhiều doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp
tư nhân, hợp tác xã và nhiều hộ gia đình kinh doanh, đồng thời trên địa bàn
quận còn có nhiều trung tâm thương mại đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động của ngân hàng trong việc mở rộng quy mô kinh doanh tín dụng, thanh toán
và các dịch vụ khác. Mặc dù có những điều kiện thuận lợi đó nhưng trong hoạt
động kinh doanh, ngân hàng cũng gặp không ít những khó khăn do đặc điểm
phức tạp, sự biến động của nền kinh tế của quận gây nên:
Thứ nhất, phần lớn các doanh nghiệp là các doanh nghiệp vừa và nhỏ
vốn tự có thấp, với các phương án sản xuất kinh doanh không hiệu quả, điều này
không những hạn chế các khoản cho vay đối với các doanh nghiệp mà còn làm
giảm đi nguồn vốn huy động của ngân hàng .
Thứ hai, nguồn vốn tín dụng của ngân hàng chủ yếu là các khoản tiền
gửi tiết kiệm của dân cư, các khoản tiền gửi tạm thời của các tổ chức kinh tế,
thường là tiền gửi ngắn hạn nên đã hạn chế việc đầu tư vào các công trình dài
hạn, cho vay trung, dài hạn.
Thứ ba, sự biến động nền kinh tế quận trong thời gian gần đây đã làm
cho một số doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân, cá nhân kinh
doanh, hộ gia đình thua lỗ trong kinh doanh, mất khả năng thanh toán, không trả

được nợ, gây ra sự mất mát cho ngân hàng.
Tuy vậy trong thời gian gần đây, ngân hàng đã từng bước đi vào ổn định
và hoạt động kinh doanh ngày càng có hiệu quả hơn.
2. Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ các phòng ban và hoạt động cơ bản của
ngân hàng
a. Cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ của các phòng ban
Ngân hàng có đến 175 cán bộ công nhân viên, hầu hết cán bộ trong ngân
hàng đều có trên 5 năm công tác, số cán bộ đạt trình độ đại học và trên đại học
chiếm trên 80% tổng số cán bộ công nhân viên. Đội ngũ cán bộ ngân hàng nhìn
chung trẻ tuổi, có trình độ nghiệp vụ khá, năng động và đoàn kết trong công tác,
thường xuyên chú trọng đến việc đổi mới công tác tổ chức cán bộ, chú ý bồi
dưỡng trình độ nghiệp vụ của bản thân và tận tình trong việc bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ trẻ.
Ngân hàng công thương Hoàn kiếm được tổ chức thành 8 phòng ban tại
trụ sở chính và các phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm nằm rải rác trên địa bàn
quận.
Ban giám đốc
Phòng kế toánPhòng t.toánq.tếPhòng ngânquỹPhòng nguồn vốnPhòng kiểm soátPhòng vitínhPhòng hànhchínhPhòng giao dịchPhòng kinh doanh
Các quỹTK
Hệ thống tổ chức của chi nhánh ngân hàng công thương Hoàn kiếm có
thể được minh hoạ bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của ngân hàng công thương Hoàn kiếm
+ Ban giám đốc: Ban giám đốc gồm một phó giám đốc và hai phó giám
đốc. Trong hai phó giám đốc, một phó quản lý hoạt động kinh doanh của chi
nhánh, một phó phụ trách công tác hành chính. Ban giám đốc trực tiếp đề ra các
quết định, hướng dẫn thi hành, quản lý hoạt động của tất cả các phòng ban trong
chi nhánh trong phạm vi quyền hạn của mình. Ban giám đốc là người thông qua
các quyết định kinh doanh, ký các văn bản hợp đồng liên quan đến chi nhánh.
+ Phòng kinh doanh: Tất cả các nghiệp vụ tín dụng phát sinh trong quá
trình hoạt động đều phải thông qua phòng kinh doanh (trừ nghiệp vụ mua bán

ngoại tệ và chi trả kiều hối là thực hiện trực tiếp tại phòng thanh toán quốc tế).
Cho vay là nghiệp vụ chủ yếu của phòng này, bất kỳ cho vay bằng Việt nam
đồng hay ngoại tệ, cho vay ngắn hạn hay cho vay trung, dài hạn. Phòng được
chia thành hai bộ phận: bộ phận cho vay và bộ phận thu nợ. Nhiệm vụ của
phòng kinh doanh là thực hiện các công đoạn từ thẩm định dự án, tiếp xúc trực
tiếp với khách hàng, lập hồ sơ cho vay, theo dõi qua trình sử dụng vốn vay và
thực hiện nghiệp vụ thu nợ, xử lý các món nợ quá hạn, nợ khó đòi. Bên cạnh đó
phòng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh L/C trả chậm, bảo lãnh cho các
doanh nghiệp vay vốn nước ngoài... Phòng cũng thực hiện nghiệp vụ huy động
vốn nhưng đây không phải là công việc thường xuyên của phòng.
+ Phòng kế toán: Phòng kế toán được chia thanh hai bộ phận: kế toán
thanh toán và kế toán nội bộ. Các kế toán viên ở bộ phận kế toán thanh toán trực
tiếp giao dịch với khách hàng, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán hộ khách hàng
và thu phí dịch vụ và hạch toán các nghiệp vụ cho vay, nhận gửi... phát sinh
trong ngày. Kế toán nội bộ hạch toán các khoản chi phí, thu nhập phát sinh trong
quá trình hoạt động và hạch toán các khoản vốn điều chuyển.
+ Phòng thanh toán quốc tế: Phòng này còn có tên gọi là phòng kinh
doanh đối ngoại vì nhiệm vụ của nó là xử lý tất cả các nghiệp vụ liên quan đến
ngoại tệ. Các nghiệp vụ thanh toán quốc tế chủ yếu là mở thư tín dụng, nhờ thu,
chuyển tiền, mở tài khoản séc, chi trả kiều hối, mua bán ngoại tệ, nhận gửi tiết
kiệm ngoại tệ... Ngoài giao dịch với khách hàng phòng còn có nhiệm vụ hạch
toán các nghiệp vụ phát sinh tại phòng như một phòng kế toán. Tất cả các
nghiệp vụ phát sinh trong ngày được xử lý ngay. Cuối ngày tổng hợp cân đối
chung toàn chi nhánh.
+ Phòng ngân quỹ: Phòng này thực hiện nhiệm vụ thu chi tiền mặt trực
tiếp với khách hàng đến giao dịch với ngân hàng. Mọi nghiệp vụ phát sinh ở
phòng phải được cân đối, lên sổ quỹ cuối ngày.
+ Phòng nguồn vốn: Nhiệm vụ của phòng nguồn vốn là huy động vốn và
quản lý tất cả các nguồn vốn của ngân hàng, đó là các khoản tiền gửi, tiền vay,
vốn điều chuyển... Công việc chủ yếu của phòng là quản lý các quỹ tiết kiệm

(gồm 10 quỹ nằm rải rác khắp quận).
+ Phòng kiểm soát: phòng kiểm soát có thể thường xuyên hoặc định kỳ
kiểm tra hoạt động của tất cả các phòng ban về tính hợp pháp, hợp lệ trong hoạt
động, đồng thời phối hợp kiểm soát với đoàn kiểm soát trung ương khi cần thiết.
+ Phòng vi tính: phòng vi tính chịu trách nhiệm về mặt kỹ thuật máy tính
của ngân hàng liên quan đến các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, thanh toán bù
trừ, thanh toán liên ngân hàng..., đồng thời lập các báo cáo, lên cân đối định kỳ...
+ Phòng giao dịch: Chi nhánh có tới ba phòng giao dịch ở Đồng xuân,
Hàng da và ở Hàng gai. Mỗi phòng giao dịch gần giống như một ngân hàng thu
nhỏ, cũng có các nghiệp vụ cho vay, thu nợ, nhận tiền gửi... nhưng chỉ trong
phạm vi quyền hạn cho phép (Trưởng phòng chỉ được phép ký khế ước cho vay
trị giá dưới 10 triệu đồng) mọi phát sinh ở phòng được đưa về trung tâm vào
cuối ngày.
Trong hoạt động, giữa các phòng ban luôn có mối quan hệ mật thiết với
nhau, hỗ trợ cho nhau để cùng thực hiện mục tiêu chung của ngân hàng. Các
phòng kinh doanh, phòng nguồn vốn, phòng kế toán thường xuyên giao dịch
trực tiếp với khách hàng, nắm bắt các thông tin, nhu cầu của khách hàng và tập
hợp, gửi lên ban giám đốc để ban giám đốc đề ra những quyết định đúng đắn
trong hoạt động.
b.Hoạt động cơ bản của ngân hàng.
Ngân hàng công thương chi nhánh Hoàn kiếm thực hiện đầy đủ các
nghiệp vụ của một ngân hàng thương mại: huy động, cho vay, trung gian thanh
toán... Các khoản huy động là tiền tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các tổ chức
kinh tế, cá nhân, các khoản tiền huy động từ phát hành kỳ phiếu, tiền vay các tổ
chức tín dụng, ngân hàng thương mại khác...Các khoản cho vay bao gồm cho
vay ngắn hạn, cho vay trung dài hạn, cho vay đối với ngành công nghiệp, ngành
nông nghiệp, thương nghiệp... Lãi cho vay là nguồn thu nhập chính của ngân
hàng. Ngoài ra, ngân hàng còn có các nguồn thu nhập khác như thu nhập từ phí
thanh toán hộ, thu nhập từ dịch vụ bảo lãnh...
II. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI NÓI CHUNG VÀ CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG
HOÀN KIẾM NÓI RIÊNG TRONG THỜI GIAN QUA.
1. Tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại.
Cùng với sự đổi mới của nền kinh tế hệ thống ngân hàng thương mại đã
có những chuyển mình mạnh mẽ trong thời gian qua, từ mặt cơ sở vật chất, trình
độ nghiệp vụ quản lý cũng như về mặt hoạt động.
Về mặt cơ sở vật chất, từ một hệ thống ngân hàng với cơ sở vật chất
nghèo nàn lạc hậu khi chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp đến nay, hầu hết
các ngân hàng đã được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất hiện đại, đó là máy tính,
máy rút tiền tự động, trang thiết bị khác phục vụ cho quá trình hoạt động. Tuy
nhiên, so với các nước trên thế giới và trong khu vực thì cơ sở vật chất của hệ
thống ngân hàng nước ta còn rất lạc hậu, cần phải đầu tư xây dựng mới, nâng
cấp thêm nữa để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế.
Về mặt trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên
trong ngân hàng đã từng bước được nâng cao. Nền kinh tế thị trường đã tạo ra
cho cán bộ ngân hàng cách nhìn nhận mới về hoạt động kinh doanh của ngân
hàng, đồng thời sự cạnh tranh trên thị trường đã tạo cho họ sự năng động trong
kinh doanh, loại bỏ dần những cán bộ có trình độ yếu kém. Cho đến nay có trên
80% cán bộ, nhân viên trong ngân hàng có trình độ đại học và trên đại học.
Về mặt hoạt động, nguồn vốn huy động từ nền kinh tế của ngân hàng
thương mại đã không ngừng tăng qua các năm. Có thể nói sự tăng trưởng mạnh
mẽ của nền kinh tế đã tạo ra tiềm năng về vốn cho các hoạt động của ngân hàng
thương mại. Ngược lại với hàng ngàn tỷ đồng vốn đầu tư, cho vay, ngân hàng
thương mại đã tạo ra khả năng phát triển mới cho nền kinh tế.
Chúng ta có thể thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng
thương mại qua sự hoạt động của chi nhánh ngân hàng công thương Hoàn kiếm
trong thời gian qua.
2. Hoạt động của ngân hàng công thương Hoàn kiếm
Quá trình đổi mới và phát triển của ngân hàng công thương Hoàn Kiếm
gắn liền với sự đổi mới của hệ thống ngân hàng Việt nam, là hệ quả của quá

trình đổi mới và phát triển kinh tế đất nước do Đảng và Nhà nước ta khởi xướng
và tổ chức thực hiện.
Chuyển từ một chi nhánh ngân hàng nhà nước sang một chi nhánh ngân
hàng thương mại, ngân hàng công thương Hoàn kiếm đã hoà nhập kịp thời với
sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Tập thể lãnh đạo và cán bộ công nhân
viên chi nhánh ngân hàng công thương Hoàn kiếm đã phấn đấu thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ được giao với mục tiêu kinh tế then chốt “phát triển an
toàn vốn, tôn trọng pháp luật trong hoạt động và có lợi nhuận cao”.
Với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận ngân hàng luôn chú trọng đổi mới
trong mọi lĩnh vực hoạt động của mình nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng
cao của xã hội. Trong hoạt động, ngân hàng đã từng bước thoát khỏi từ những
nghiệp vụ tiền tệ tín dụng cổ truyền, phát huy mở rộng các nghiệp vụ mới như
kinh doanh mua bán vàng bạc, ngoại tệ thực hiện nghiệp vụ tín dụng thuê mua,
chiết khấu chứng từ, nghiệp vụ bảo lãnh mua bán hàng hoá, dịch vụ chuyển tiền
nhanh trong nước, nghiệp vụ thanh toán quốc tế... Ngân hàng ý thức được rằng
một nền kinh tế thị trường đang phát triển hàm chứa một sự canh tranh khốc liệt.
Với thị trường Hà nội, bao gồm nhều thành phần kinh tế hoạt động, từ các ngân
hàng quốc doanh, ngân hàng cổ phần đến các chi nhánh ngân hàng thương mại
nước ngoài thì chỉ có ngân hàng nào có cơ sở vật chất hiện đại, cung cấp các
dịch vụ đa dạng, tiện lợi thì mới có thể đứng vững và phát triển được trên thị
trường, do vậy, ngân hàng công thương Hoàn kiếm đã và đang hiện đại hoá, đa
dạng hoá các nghiệp vụ của mình bằng công nghệ hiện đại, không chỉ ở trung
tâm mà đến từng quầy giao dịch, quỹ tiết kiệm.
Dù qua bao thăng trầm của nền kinh tế cũng như của hoạt động trong hệ
thống ngân hàng thương mại, đến nay ngân hàng đã khẳng định được vị trí của
mình trên thương trường, đứng vững và phát triển trong cơ chế mới của nền kinh
tế thị trường. Ngân hàng đã chủ động mở rộng mạng lưới giao dịch, đa dạng hóa
các loại hình kinh doanh dịch vụ tiền tệ, ngân hàng đã liên tục tăng cả về nguồn
vốn, cả về sử dụng vốn, thay đổi cơ cấu đầu tư, phục vụ sự phát triển nền kinh
tế.

Tuy nhiên trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
nước ta có xu hướng chững lại, hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó
khăn. Các tổ chức kinh tế trong nước, kể cả các doanh nghiệp quốc doanh,
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hầu hết rơi vào tình trạng kinh doanh thua lỗ.
Tình trạng thiếu vốn đầu tư mua sắm thiết bị, máy móc nên vẫn dùng công nghệ
cũ, lạc hậu, kém hiệu quả dẫn đến sản phẩm sản xuất có chất lượng kém, không
đủ sức cạnh tranh với hàng nhập và sản phẩm của các công ty liên doanh kể cả
về mặt chất lượng, cả về mặt mẫu mã và giá thành. Hiện nay trong hầu hết các
doanh nghiệp, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ còn non yếu, khả năng điều
hành không theo kịp với nhịp độ phát triển của nền kinh tế trong cơ chế mới.
Tình trạng này cộng với sự biến động của nền kinh tế trong thời gian qua: sự
tăng đột ngột của tỷ giá hối đoái, sự tác động của khủng hoảng tiền tệ của các
nước trong khu vực đã gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là
các doanh nghiệp trong ngành xuất nhập khẩu. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh
thua lỗ mất khả năng thanh toán các khoản nợ cho ngân hàng, và chiếm đa số là
các doanh nghiệp tư nhân, cá nhân kinh doanh và hộ gia đình vay vốn.
Trước sự biến động và sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế, hoạt
động kinh doanh của ngân hàng lại càng khó khăn hơn, nhất là trong bối cảnh
của ngân hàng công thương Hoàn kiếm với sự thua lỗ nặng trong năm 2000, sự
thay đổi cơ bản về mặt nhân sự và thay đổi trong định hướng hoạt động, chiến
lược kinh doanh.
Mặc dù vậy, ngân hàng công thương Hoàn kiếm đã từng bước khắc
phục hậu quả, nỗ lực trong hoạt động, dần dần cải thiện được tình hình kinh
doanh, đạt được những thành tựu lớn trong nhiều lĩnh vực trong năm qua.
a. Công tác huy động vốn.
Nguồn vốn huy động là điều kiện tiên quyết, là tiền đề của mọi hoạt
động kinh doanh tiền tệ trong ngân hàng. Ngân hàng thực hiện phương châm đi
vay để cho vay, ngân hàng chỉ có thể cho vay khi đã có nguồn vốn dồi dào.
Trong năm qua ngân hàng công thương Hoàn kiếm đã nỗ lực trong việc huy
động vốn bằng việc mở rộng mạng lưới giao dịch đến các cơ sở, đến các trung

tâm thương mại qua các quầy giao dịch, quỹ tiết kiệm bố trí rải rác khắp quận.
Đồng thời kết hợp với đổi mới phong cách lề lối làm việc, đa dạng hoá phương
thức huy động vốn, tạo điều kiện cho khách hàng gửi tiền, mua kì phiếu... Qua
quá trình hoạt động , ngân hàng đã củng cố đựơc lòng tin của khách hàng trong
quận, khách hàng đến giao dịch với ngân hàng ngày càng đông, điều đó được thể
hiện ở sự tăng lên không ngừng của nguồn vốn huy động trong thời gian qua.
Bảng 1: Nguồn vốn huy động của ngân hàng công thương
Hoàn kiếm
(Đơn vị: 1.000.000 đồng)
Chỉ tiêu 2000 Tỷ
trọng 96
2001 Tỷ
trọng 97
Tỷ lệ
97/96
I. TGKH 46947 13,89 207579 38,68 442,00
1. TGKH=VND 46511 13,76 100896 18,80 216,90
- không kỳ hạn 45415 13,44 69663 12,98 153,40
- có kỳ hạn 993 0,29 31196 5,81 314,20
- tiền gửi khác 103 0.03 37 0,01
2. TGKH=ngoại tệ 436 0,13 106683 19,88
- không kỳ hạn 436 0,13 22581 4,20
- có kỳ hạn 84102 15,68
II. TGTK 290879 86,10 329116 61,32 113,15
1. TGTK=VNĐ 290504 86,00 304694 56,77 104,88
- không kỳ hạn 25952 76,82 10746 20,02 41,40
- có kỳ hạn 264552 9,18 293948 36,75 111,00
2. TGTK=ngoại tệ 375 0,11 24422 4,55
Tổng 337826 536695 158,90
Vốn ở ngân hàng công thương Hoàn kiếm được huy động từ nhiều nguồn khác

nhau:
+ Tiền gửi của khách hàng, bao gồm cả tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ
hạn, tiền gửi bằng Việt nam đồng, bằng ngoại tệ. Nguồn vốn này chiếm khoảng
20% tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng. Riêng năm 2001 nguồn này
chiếm đến 38,7% tổng nguồn vốn, tăng từ 46.947 năm 2000 lên 207.579 triệu
đồng năm 2001. Đây là một bước tăng mà nguyên nhân chính của nó là sang
năm 2001, ngân hàng đã lấy lại được lòng tin của khách hàng và hoạt động của
dịch vụ thanh toán trong ngân hàng tăng lên mạnh mẽ.
+ Tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi tiết kiệm là nguồn vốn huy động chủ yếu
của ngân hàng chiếm tới 86% tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng năm
1999, 80% năm 2000 và 61% năm 2001. Tuy gảm về tỷ trọng, nhưng so với
năm 2000, nguồn vốn này tăng 38.237 triệu đồng hay tăng 13%.
Ngoài hai nguồn vốn chủ yếu trên, ngân hàng còn huy động bằng nhiều
nguồn vốn khác nhau như: bán kỳ phiếu, vay các tổ chức tín dụng, ngân hàng
thương mại khác... và một nguồn vốn tương đối lớn , đáp ứng cho nhu cầu vốn
cấp bách của ngân hàng là vốn điều chuyển từ ngân hàng công thương trung
ương hay từ các ngân hàng thương mại khác. Đây là nguồn vốn phụ bổ trợ cho
nguồn vốn của ngân hàng khi cần thiết nên không xuất hiện thường xuyên trong
các khoản mục vốn.
Năm 2000, với sự biến động trong nọi bộ ngân hàng, cùng với sự biến
động của nền kinh tế , nguồn vốn ngân hàng huy động được giảm đi so với năm
1999, chỉ đạt được 337.826 triệu đồng, hay đạt mức 81% so với năm 1999.
Sang năm 2001, ngân hàng đã lấy lại được sự thăng bằng, ổn định. Nguồn vốn
tăng lên nhanh chóng, từ 337,826 triệu đồng năm 2000 lên 536.695 triệu đồng
năm 2001, tăng 55,9% so với năm 2000, và tăng 28,5% so với năm 1999.
So với năm 1999, 2000, nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ của ngân
hàng đã tăng lên một cách mạnh mẽ. Năm 1999, nguồn ngoại tệ huy động chỉ
đạt 106 triệu đồng hay 0,025% tổng nguồn vốn huy động, năm 2000, nguồn
ngoại tệ đã tăng lên 811 triệu đồng, đạt 0,24% nguồn vốn, đến năm 2001, nguồn
ngoại tệ huy động được đạt 24,4% tổng vốn huy động hay 131.105 triệu đồng.

Năm 2001 nguồn vốn băng ngoại tệ của ngân hàng rất dồi dào, đây là điều kiên
hết sức thuận lợi cho ngân hàng trong hoạt động tài trợ cho ngoại thương.
Nói chung nguồn vốn huy động ở ngân hàng công thương Hoàn kiếm
thường cao hơn các ngân hàng khác và cao hơn so với nhu cầu cho vay. Hàng
năm, ngân hàng thường không sử dụng hết vốn huy động và phải điều chuyển về
ngân hàng công thương trung ương hay điều chuyển đến các chi nhánh khác chứ
không rơi vào tình trạng khó khăn thiếu vốn như ở một số ngân hàng khác.
b. Công tác sử dụng vốn.
Chất lượng và hiệu quả là vấn đề quyết định đến sự tồn tại và phát triển
của ngân hàng thương mại. Gần đây, sự phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường trên địa bàn Hà nội đã tạo cho hoạt động tín dụng
những thời cơ mới, trong khi đó, địa bàn quận Hoàn kiếm rộng lớn, là nơi tập
trung nhiều doanh nghiệp, nhiều xí nghiệp, nhiều trung tâm thương mại, lại là
một trong những quận trung tâm của thành phố, rất thuận lợi cho ngân hàng
công thương Hoàn kiếm trong các hoạt động của mình. Với những thuận lợi đó,
trong những năm qua, ngân hàng công thương Hoàn kiếm đã không ngừng mở
rộng quy mô của tín dụng, cũng như không ngừng nâng cao chất lượng của
chúng.
Với nguồn vốn huy động lớn, thường lớn hơn nhu cầu đầu tư, ngân hàng
công thương Hoàn kiếm đã không ngừng tìm kiếm cơ hội đầu tư cho vay, khối

×