Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Phương pháp thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.31 KB, 53 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
KHOA HĨA


TS. TRỊNH VĂN BIỀU

LƯU HÀNH NỘI BỘ - 2005

1


Lời nói đầu
Khoa học là một hoạt động xã hội đặc biệt của con người. Sự phát triển
của khoa học là một trong những cơ sở quan trọng của sự phát triển xã hội. Với
bất kỳ quốc gia nào, muốn giàu có và cường thịnh đều phải dựa vào các thành
tựu của khoa học. Vì thế, nghiên cứu khoa học là một trong những công việc có
tầm quan trọng đặc biệt. Hiện nay, không chỉ ở trong các trường đại học, các
viện nghiên cứu mà ở mọi cơ sở sản xuất, trên những cách đồng hay trong nhà
máy, xí nghiệp, hoạt động nghiên cứu khoa học đều đang được nhiều người hết
sức quan tâm. Trong các trường đại học, nghiên cứu khoa học đang là một hoạt
động quan trọng góp phần đào tạo nên những con người có bản lónh, có khả
năng sáng tạo, biết hòa nhập và thích ứng với cuộc sống. Tuy nhiên, công việc
nghiên cứu không chỉ đòi hỏi nỗ lực và sự quyết tâm mà còn cần được thực hiện
theo những phương pháp khoa học.
Chính vì vậy, cuốn tài liệu này được biên soạn nhằm giúp các sinh viên
và học viên cao học – những người mới bắt tay và làm quen với công việc nghiên
cứu, có những hiểu biết cơ bản về lý luận và phương pháp thực hiện một đề tài
khoa học. Vì điều kiện về thời gian, tài liệu chắc sẽ không thể tránh khỏi thiếu
sót, chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc.
Tác giả


2


Chương 1
KHOA HỌC VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1.1. KHOA HỌC
Theo Từ điển Tiếng Việt “Khoa học là hệ thống tri thức tích lũy trong quá trình lịch sử và
được thực tiễn chứng minh, phản ánh những quy luật khách quan của thế giới bên ngoài cũng
như về hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có khả năng cải tạo thế giới hiện
thực”.
Theo Lalande: “Khoa học là một hệ thống tri thức gồm những quy luật về tự nhiên, xã
hội và tư duy được tích luỹ trong quá trình nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn, được thể hiện
bằng những khái niệm, phán đoán, học thuyết. Nhiệm vụ của khoa học là miêu tả hiện tượng
một cách chính xác và phát hiện những quy luật khách quan của hiện tượng ngẫu nhiên để
giải thích và dự kiến chúng. Khoa học giúp con người ngày càng có khả năng chinh phục tự
nhiên và xã hội”.
“Khoa học là hệ thống tri thức về tự nhiên, về xã hội và tư duy, về những quy luật phát
triển khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy, hệ thống tri thức này được hình thành trong
lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội”. Đại bách khoa toàn thư Liên
xô, Quyển XIX, Tr. 241, bản tiếng Nga.
Khoa học là một hình thái ý thức xã hội, là một hoạt động xã hội đặc biệt của con người.
Khoa học luôn phát triển và hoàn thiện cùng với sự phát triển của xã hội (các phương tiện kỹ
thuật và khả năng nhận thức của con người).
Khoa học gồm 2 bộ phận phần gắn bó chặt chẽ với nhau là kiến thức khoa học và phương
pháp khoa học. Kiến thức khoa học ngoài việc giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới,
nó còn là nền tảng cho việc tiến hành, thực hiện các phương pháp khoa học. Ngược lại,
phương pháp khoa học lại giúp con người tích lũy được nhiều kiến thức hơn. Việc trang bị
phương pháp khoa học giúp cho người nghiên cứu nắm chắc kiến thức hơn, biết tìm kiếm,
phát hiện ra những kiến thức nới.
1.2. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

1.2.1. Nghiên cứu khoa học
Khoa học có mục đích khám phá những quy luật bản chất của thế giới để ứng dụng vào
đời sống. Nghiên cứu khoa học là hoạt động tìm tòi, khám phá bản chất và các quy luật vận
động của thế giới, là quá trình phát minh, sáng tạo ra những tri thức mớiø cho nhân loại. Khác
với hoạt động sản xuất tạo ra của cải vật chất, hoạt động nhận thức – nghiên cứu khoa học
tạo ra những giá trị nhận thức mới.
1.2.2. Tầm quan trọng của việc nghiên cứu khoa học trong các trường đại học
a) NCKH góp phần quan trọng trong việc hình thành tính năng động sáng tạo – một trong
những yêu cầu đặc biệt cần thiết của xã hội ngày nay. NCKH là một hoạt động không thể
thiếu được của sinh viên trong các trường đại học, là một trong những yêu cầu cơ bản đối với
quá trình đào tạo cán bộ. Qua NCKH những tri thức, kỹ năng kỹ xảo đã được tích lũy sẽ được
củng cố và mở rộng; đồng thời sinh viên được rèn luyện và phát triển khả năng phát hiện, đề
3


xuất cái mới, cải tiến và nâng cao chất lượng công việc. Đây là sự khác nhau cơ bản giữa
sinh viên đại học và học sinh phổ thông.
- Về bản chất NCKH là một hoạt động sáng tạo, NCKH góp phần hình thành khả năng
sáng tạo – một yêu cầu quan trọng của người lao động mới hiện nay.
- Phương pháp dạy học ở đại học ngày càng tiếp cận với phương pháp NCKH, trong đó
sinh viên chuyển dần từ phương pháp học tập theo con đường angorit - tiếp nhận và tái hiện
sang con đường orixtic - tìm tòi sáng tạo. Phương pháp dạy học và phương pháp NCKH luôn
luôn gắn bó với nhau, hỗ trợ cho nhau trong quá trình đào tạo ở đại học.
- NCKH giúp sinh viên thích ứng nhanh với nghề nghiệp khi ra trường. Sinh viên càng có
kỹ năng NCKH thì thời gian thích ứng nghề nghiệp càng ngắn.
- NCKH giúp sinh viên phát triển khả năng tư duy – một năng lực rất cần thiết cho hoạt
động học tập. Nếu có tư duy tốt thì học một sẽ biết mười.
- NCKH có vai trò và ý nghóa quan trọng đối với sinh viên trường sư phạm, đó là điều
kiện để sinh viên vận dụng những tri thức Tâm lí học, Giáo dục học và kiến thức chuyên
ngành vào thực tiễn dạy học, từ đó sinh viên dần dần nắm được kiến thức cơ bản của lí luận

giáo dục, lí luận dạy học, phương pháp dạy học bộ môn cũng như đặc điểm phát triển tâm lí
lứa tuổi của học sinh, đồng thời biết vận dụng có hiệu quả vào quá trình giáo dục. NCKH là
một con đường hình thành và rèn luyện cho người sinh viên phẩm chất, năng lực của người
cán bộ khoa học, đặc biệt là hệ thống kỹ năng NCKH. Chất lượng đào tạo, khả năng làm
việc của sinh viên khi ra trường phụ thuộc nhiều vào khả năng độc lập, sáng tạo của họ hơn
là khối lượng kiến thức họ tiếp thu được ở đại học.
b) NCKH góp phần quan trọng trong việc bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ giảng viên các
trường đại học. NCKH góp phần nâng cao chất lượng dạy của giáo viên và chất lượng học
của học sinh, có nghóa là đã nâng cao hiệu quả của quá trình giáo dục và đào tạo. NCKH
giúp giáo viên hoàn thành tốt công việc giảng dạy. Người thầy giáo muốn vươn lên trở thành
giáo viên giỏi phải biết nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo trong dạy học. Lao động NCKH là loại
lao động trí tuệ cao cấp có những chuẩn mực chặt chẽ đòi hỏi không chỉ kiến thức sâu rộng
mà còn cả những phẩm chất trung thực, khách quan, chính xác, sáng tạo. NCKH là biện pháp
chủ yếu để bồi dưỡng cán bộ, nâng cao chất lượng giảng dạy. Muốn trở thành giáo viên giỏi
không có con đường nào khác là phải tự học, tự vươn lên. Giáo viên muốn thành công trong
giảng dạy thì phải NCKH. Qua đó giáo viên còn thấy niềm vui của sự sáng tạo và công việc
dạy học sẽ trở nên hấp dẫn, hứng thú.
Muốn sinh viên trở thành những con người sáng tạo, trước hết cần có những ông thầy
sáng tạo. Trong thực tế, một số giáo viên hay áp đặt, không muốn học sinh có ý kiến khác
với mình. Đó là những giáo viên không qua NCKH nên không đánh giá đúng tầm quan trọng
của tư duy độc lập của học sinh. Những giáo viên đã kinh qua NCKH sẽ rất quý tư duy độc
lập, luôn luôn động viên khuyến khích sự sáng tạo của học sinh, luôn ủng hộ cái mới. Nếu
không có NCKH thì cũng không thể có tác phong nghiên cứu. Thầy phải có kiến thức vững
vàng, có tác phong nghiên cứu và có nhiều kinh nghiệm NCKH thì mới có thể gợi cho sinh
viên lòng ham thích, tính tò mò, mới có thể giúp sinh viên phát triển tư duy sáng tạo.
c) NCKH đề xuất những lý thuyết mới, mô hình giáo dục mới, nội dung và phương pháp
mới làm cơ sở khoa học cho những chủ trương và biện pháp cải cách giáo dục. Bất cứ sự đổi
mới nào trong giáo dục cũng nhất thiết phải dựa vào việc nghiên cứu thực tiễn giáo dục.
4



1.2.3. Những điều kiện cần thiết với người nghiên cứu
a) Có thực tế giáo dục.
b) Nắm được những lý luận cơ bản về phương pháp NCKH.
c) Có những nét tính cách cần thiết cho NCKH:
- tò mò,
- hoài nghi,
- độc lập,
- chính xác,
- kiên trì,
- nghiêm túc,
- cẩn thận,
- say mê với công việc,
- mạnh dạn, dám nghó dám làm,
- tinh tế, nhạy cảm.
d) Có những khả năng/ năng lực tư duy cần thiết cho NCKH:
- khả năng phát hiện vấn đề, tìm ra dấu hiệu bản chất,
- khả năng tư duy logic – suy luận – suy diễn – thiết lập các mối quan hệ,
- khả năng lựa chọn,
- khả năng so sánh,
- năng lực sáng tạo,
- năng lực phân tích, tổng hợp,
- năng lực nhận xét, đánh giá, phê phán,
- khả năng diễn đạt suy nghó bằng văn bản (viết),
- khả năng ngoại ngữ,
- khả năng tin học.
1.2.4. Các loại hình nghiên cứu khoa học
1.2.4.1. Nghiên cứu cơ bản
Nghiên cứu cơ bản là loại hình nghiên cứu có nhiệm vụ phát hiện, sáng tạo ra những tri
thức mới là nền tảng cho những quá trình nghiên cứu tiếp theo.

1.2.4.2. Nghiên cứu ứng dụng
Nghiên cứu ứng dụng là loại hình nghiên cứu có nhiệm vụ vận dụng những tri thức khoa
học đã có vào thực tế, biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp, mang lại thành quả
cho xã hội.
1.2.4.3. Nghiên cứu dự báo
Nghiên cứu dự báo là loại hình nghiên cứu có nhiệm vụ phát hiện những khả năng, xu
hướng mới của sự phát triển khoa học, tự nhiên và xã hội.
1.2.5. Các hình thức nghiên cứu khoa học
1.2.5.1. Tóm tắt khoa học

5


Là loại hình nghiên cứu khoa học đơn giản nhất: người nghiên cứu tóm tắt, đánh giá và
có kết luận về một công trình khoa học cụ thể nào đó.
1.2.5.2. Tổng luận khoa học
Là loại hình nghiên cứu cao hơn tóm tắt khoa học: người nghiên cứu tóm tắt, đánh giá,
tổng kết nhiều tài liệu của một hội nghị, hội thảo khoa học hay về một đề tài khoa học, lịch
sử của một vấn đề cần nghiên cứu...
1.2.5.3. Tiểu luận, niên luận, bài tập nghiên cứu, bài tập môn học
Đây là những hình thức nghiên cứu chủ yếu mang tính chất thực hành, tập dượt bước đầu,
thường được tiến hành ở năm thứ 2 và thứ 3 của bậc đại học. Trong đó không yêu cầu sinh
viên phải có sự sáng tạo đặc biệt mà chỉ cần ở mức độ vận dụng tổng hợp các tri thức và
phương pháp nghiên cứu đã học vào việc nghiên cứu.
1.2.5.4. Khoá luận
Khoá luận tốt nghiệp là công trình NCKH của sinh viên ở năm cuối cùng, có giá trị thay
thế cho các môn thi tốt nghiệp, sinh viên phải vận dụng tổng hợp kiến thức của nhiều bộ môn
và những hiểu biết chung đã tích lũy được trong khóa học. Đề tài ít nhiều phải đề xuất được
những ý kiếán mới, những khái quát có tầm lý luận, có tác dụng mở rộng và đào sâu tri thức
của giáo trình hoặc có thể được vận dụng ít nhiều vào thực tiễn. Đề tài phải là một công

trình nghiên cứu cụ thể do thực tiễn đề ra, kết quả nghiên cứu thường được vận dụng để giải
quyết một số vấn đề thực tiễn và có thể được công bố rộng rãi.
1.2.5.5. Luận văn (công trình khoa học kết thúc quá trình đào tạo của học viên cao học Luận văn thạc só)
Luận văn thạc só phải thể hiện được các kiến thức về lí thuyết và thực hành về chuyên
môn, về phương pháp giải quyết vấn đề đã được đặt ra. Các kết quả của luận văn phải chứng
tỏ là tác giả đã biết vận dụng phương pháp nghiên cứu và các kiến thức tiếp thu được trong
quá trình học tập để thực hiện đề tài.
1.2.5.6. Luận án (công trình khoa học kết thúc quá trình đào tạo của nghiên cứu sinh Luận án tiến só)
Luận án tiến só là một công trình khoa học chứa đựng những đóng góp mới có giá trị trong
lónh vực khoa học chuyên ngành, thể hiện khả năng độc lập, sáng tạo nghiên cứu khoa học
của nghiên cứu sinh. Đóng góp mới của luận án có thể là:
1. Những kết quả mới hay đề xuất mới có tác dụng bổ sung, phát triển hoặc làm phong
phú thêm vốn kiến thức đã có của chuyên ngành.
2. Những ứng dụng sáng tạo và phát triển có cơ sở khoa học dựa trên các thành tựu đã
có nhằm giải quyết những yêu cầu thiết thực của kinh tế – xã hội, khoa học – công nghệ.

6


Chương 2
CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Nghiên cứu khoa học một lao động trí tuệ rất đặc thù, tuân theo những quy luật của triết
học duy vật biện chứng, những quy luật chung nhất của sự nhận thức và sáng tạo khoa học.
Đây là những cơ sở có tính phương pháp luận, vừa là định hướng về phương pháp, vừa là
công cụ để tư duy trong quá trình nghiên cứu.
2.1. PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
2.1.1. Phương pháp
2.1.1.1. Khái niệm
Thuật ngữ “phương pháp” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “methodos”, dùng để chỉ những

cách thức được chủ thể sử dụng nhằm đạt được mục đích đã đề ra. Tuy nhiên, đến nay có
nhiều cách hiểu khác nhau về phương pháp và nó là một khái niệm rất trừu tượng.
1. Phương pháp là cách thức, con đường, phương tiện, là tổ hợp các bước mà chủ thể phải
đi theo để đạt được mục đích.
2. Phương pháp là hệ thống những quy tắc, nguyên tắc phù hợp với các quy luật khách
quan, dùng để chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.
3. Theo lý thuyết hoạt động phương pháp là cách thức của chủ thể tác động vào đối tượng
nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
4. Theo lý thuyết hệ thống thì hoạt động là một hệ thống bao gồm 3 thành tố cơ bản: mục
đích - nội dung - phương pháp. Phương pháp là con đường, là sự vận động của nội dung đến
mục đích. Khi định nghóa phương pháp không thể tách rời cái đích của nó. Một thành tố chỉ là
phương pháp trong một hệ thống nhất định. Cũng thành tố ấy đặt trong một hệ thống khác có
thể nó không còn là phương pháp nữa. Định nghóa về phương pháp chỉ có tính tương đối.
2.1.1.2. Vai trò của phương pháp
Phương pháp là một trong những yếu tố quyết định thành công hay thất bại của hoạt
động. Phương pháp có vai trò hướng dẫn, chỉ đạo cho hành động, giống như “chiếc đèn soi
đường cho lữ khách trong đêm tối” – Ph.Bêcơn. Phương pháp là một công cụ để con người
nghiên cứu và cải tạo thế giới.
Phương pháp không phải là những nguyên tắc có sẵn, bất biến. Để có một phương pháp
đúng, chủ thể phải am hiểu các quy luật khách quan, nghiên cứu kỹ đối tượng, các mục đích
cần đạt được, điều kiện thực tế, các hành động cần thực hiện (phương tiện, biện pháp và trật
tự logic các bước đi…). Cùng một công việc có thể có nhiều phương pháp thực hiện khác
nhau, cần phải lựa chọn một phương pháp tối ưu để mang lại hiệu quả cao nhất. Tuy vậy
trong thực tế không phải lúc nào ta cũng xác định được phương pháp cần thực hiện một cách
dễ dàng nhanh chóng, nhất là khi thực hiện các công việc mới mẻ, mạo hiểm, phải chấp
nhận rủi ro.
2.1.1.2. Phân loại phương pháp
Dựa vào phạm vi sử dụng người ta chia phương pháp thành 3 nhóm:

7



1. Những phương pháp chung nhất dùng cho mọi khoa học: phương pháp biện chứng,
phương pháp siêu hình…
2. Những phương pháp chung dùng cho một nhóm khoa học: phương pháp thực nghiệm,
phương pháp mô hình, phương pháp quan sát, phương pháp toán học…
3. Những phương pháp đặc thù chỉ dùng cho một lónh vực cụ thể.
2.1.2. Phương pháp luận
Phương pháp luận là lí luận về phương pháp, là hệ thống những quan điểm, nguyên tắc
chung về phương pháp.
“Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là hệ thống lí thuyết về phương pháp nghiên cứu
khoa học, bao gồm các lí thuyết về cơ chế sáng tạo, những quan điểm tiếp cận đối tượng
khoa học, cùng với hệ thống lí thuyết về phương pháp, kó thuật và logic tiến hành nghiên cứu
một công trình khoa học cũng như phương pháp tổ chức, quản lí quá trình ấy” [26, tr.8].
Phương pháp luận là một trong 3 bộ phận quan trọng của khoa học, đó là:
- Hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật, lí thuyết, học thuyết khoa học.
- Hệ thống các tri thức ứng dụng các thành tựu khoa học vào thực tiễn.
- Hệ thống lí thuyết về phương pháp nghiên cứu khoa học.
2.2. TRIẾT HỌC DUY VẬT BIỆN CHỨNG
Triết học duy vật biện chứng là cơ sở phương pháp luận chung cho mọi khoa học. Nó bao
gồm 2 nguyên lý cơ bản, 6 cặp phạm trù và 3 quy luật cơ bản:
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là những đặc trưng
phổ quát nhất của thế giới.
2. Các cặp phạm trù: nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, cái chung và cái
riêng, tất nhiên và ngẫu nhiên, nguyên nhân và kết quả, khả năng và hiện thực.
3. Các quy luật cơ bản là: quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, quy
luật về sự chuyển hóa những biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất, quy luật
phủ định của phủ định.
Khi xem xét các hiện tượng và quá trình xã hội cần vận dụng những nguyên lý, quy luật,
các phạm trù của triết học duy vật biện chứng, thể hiện qua 5 nguyên tắc sau:

a) Nguyên tắc khách quan: xem xét sự vật một cách khách quan, phản ánh sự vật trung
thành như nó vốn có.
b) Nguyên tắc toàn diện: xem xét sự vật một cách toàn diện trong tất cả các mặt, các mối
liên hệ của nó với các sự vật khác. Trong các mối liên hệ phải rút ra những mối liên hệ bản
chất, chủ yếu để thấu hiểu bản chất sự vật. Sau đó phải liên kết các mối liên hệ bản chất với
các mối liên hệ khác để hiểu rõ toàn bộ sự vật.
c) Nguyên tắc phát triển: xem xét sự vật trong sự vận động, biến đổi và phát triển của nó.
d) Nguyên tắc lịch sử - cụ thể: xem xét sự vật trong điều kiện không gian và thời gian,
gắn với hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của sự tồn tại của nó.
e) Nguyên tắc thực tiễn: xem xét sự vật phải gắn với tình hình thực tiễn, phải xuất phát từ
nhu cầu thực tiễn, không chủ quan duy ý chí, giáo điều, máy móc, xa rời thực tế.

8


2.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP NHẬN THỨC KHOA HỌC
2.3.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phân tích là phân chia cái toàn thể thành từng bộ phận (có bản chất khác biệt nhau) để
nghiên cứu. Tổng hợp là tìm mối liên hệ tất yếu giữa các bộ phận đã được phân tích, liên kết,
thống nhất chúng lại để nhận thức được sâu sắc hơn, đầy đủ hơn cái toàn thể.
Cơ sở của mối quan hệ biện chứng giữa phân tích và tổng hợp là mối quan hệ giữa toàn
thể và bộ phận, giữa hệ thống và các thành tố. Không có phân tích thì không có tổng hợp.
Phân tích chuẩn bị cho tổng hợp, không phân tích, nghiên cứu các bộ phận thì không thể hiểu
được cái toàn bộ. Mặt khác, tổng hợp giúp ta hiểu được cái bộ phận trong cái tổng thể, giúp
cho phân tích đi sâu vào bản chất sự vật, hiện tượng. Không tổng hợp thì không hiểu được
tính chất, vai trò, vị trí của từng bộ phận trong cái tổng thể.
2.3.2. Phương pháp cá biệt và so sánh
Phương pháp cá biệt là cô lập, tách sự vật ra khỏi các sự vật khác để nghiên cứu. So
sánh là tìm ra sự giống nhau và khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng. So sánh dựa trên cơ sở
phân tích và tổng hợp. So sánh có vai trò quan trọng trong hoạt động nhận thức. “So sánh là

cơ sở của mọi hiểu biết và của tư duy - Usinxki”.
Có hai loại so sánh: so sánh tương tự (giữa những cái gần giống nhau) và so sánh đối lập
(giữa những cái đối lập nhau).
So sánh giúp ta hiểu sâu sắc hơn bản chất của sự vật, hiện tượng.
2.3.3. Phương pháp diễn dịch và quy nạp
Diễn dịch là phương pháp suy luận từ cái chung đến cái riêng, từ nguyên lí chung đến các
hệ quả.
Quy nạp là phương pháp đi từ cái riêng đến cái chung, từ sự quan sát một loạt những sự
kiện riêng lẻ để rút ra những nguyên lí chung. Nó có vai trò quan trọng trong việc khám phá
ra các qui luật.
Cơ sở của mối quan hệ biện chứng giữa diễn dịch và quy nạp là mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng. Quá trình nhận thức là quá trình liên tục đi từ cái chung đến cái riêng và
từ cái riêng đến cái chung. Vì vậy không nên tách rời diễn dịch và quy nạp mà phải biết kết
hợp giữa hai phương pháp trong quá trình nhận thức khoa học.
2.3.4. Phương pháp lịch sử và logic
Muốn nhận thức đúng đắn sự vật ta phải nắm được quá trình phát sinh, phát triển và tiêu
vong của nó (phương pháp lịch sử); đồng thời phải nắm được bản chất và qui luật của nó
(phương pháp logic).
Lịch sử là một quá trình cụ thể, không lặp lại, bao hàm cả cái ngẫu nhiên và cái tất
nhiên, những bước đi quanh co phức tạp, bất ngờ, muôn hình muôn vẻ theo một trật tự thời
gian nhất định.
Logic là sự tái hiện lịch sử bằng tư duy. Logic phản ánh cái bản chất, tất nhiên của lịch sử
một cách khái quát. Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu lịch sử dưới hình thức lí
luận trừu tượng và khái quát, nhằm vạch ra bản chất và quy luật phát triển của sự vật.

9


2.3.5. Phương pháp cụ thể và trừu tượng
Trong quá trình nhận thức, tư duy của con người đi từ cụ thể đến trừu tượng và từ trừu

tượng lại quay về cái cụ thể.
Cái cụ thể cảm tính do con người nhận biết được nhờ các giác quan, là điểm xuất phát
của mọi quá trình nhận thức.
Cái trừu tượng là là cái cụ thể được tách riêng ra, là sản phẩm của sự trừu tượng hoá một
mặt, một thuộc tính, một mối quan hệ nào đó. Từ những cái trừu tượng này con người tổng
hợp lại thành cái cụ thể trong tư duy. Cái cụ thể trong tư duy là cái đến sau cái trừu tượng,
phản ánh cái cụ thể cảm tính hay thế giới hiện thực bằng những khái niệm, phạm trù, quy
luật.
Quá trình nhận thức là sự thống nhất của hai quá trình: từ cụ thể cảm tính đến trừu tượng
và từ trừu tượng đến cái cụ thể trong tư duy.
cụ thể
cảm tính

trừu
tượng

cụ thể
trong tư
duy

2.3.6. Phương pháp quan sát và thí nghiệm
Quan sát là sự cảm thụ bằng các giác quan về các sự vật, hiện tượng trong trạng thái tự
nhiên vốn có của chúng.
Thí nghiệm là phương pháp nghiên cứu các sự vật, hiện tượng bằng cách can thiệp vào
các quá trình diễn biến tự nhiên của chúng hoặc tạo ra các hiện tượng trong các điều kiện
xác định để quan sát được tốt hơn hay để kiểm chứng một giả thuyết.
2.3.7. Phương pháp mô hình hoá - hình thức hoá
Phương pháp mô hình hoá là phương pháp nghiên cứu đối tượng một cách gián tiếp trên
mô hình của nó.
Hình thức hoá là mô tả chính xác nội dung của nhận thức bằng các phương pháp hình thức

như ngôn ngữ thông thường, ngôn ngữ toán học, ngôn ngữ logic. Sự vật, hiện tượng khi được
mô tả bằng ngôn ngữ thì nội dung phong phú của nó đã được hình thức hoá tức chỉ còn lại
dưới dạng chung, khái quát, đơn giản.
Con đường mô hình hoá, hình thức hoá chủ yếu hiện nay là con đường toán học hoá tri
thức khoa học. Việc sử dụng toán học cho phép mô tả một cách chính xác và rõ ràng các sự
vật, hiện tượng, nó giúp con người dễ dàng đi sâu vào bản chất của vấn đề cần nghiên cứu.
2.3.8. Phương pháp hệ thống - cấu trúc
Phương pháp hệ thống - cấu trúc xem xét sự vật như một hệ thống có cấu trúc bên trong.
Hệ thống là một tập hợp các thành tố có tính độc lập tương đối và có mối quan hệ tương tác,
tạo thành một chỉnh thể có những tính chất mới, phục vụ cho một mục tiêu nhất định. Hệ
thống có các tính chất đáng chú ý sau đây:
- Tính chỉnh thể hay tính thống nhất của hệ thống.
- Tính đa cấp: mỗi hệ thống đều có thể được hợp thành bởi các hệ thống con có chức
năng/ mục tiêu xác định. Mỗi hệ thống con lại có thể được hợp thành bởi các hệ thống
nhỏ hơn.
10


- Tính đa dạng và có thể điều khiển được: hoạt động của hệ thống bị chi phối bởi nhiều
yếu tố khác nhau và luôn biến đổi. Tuy nhiên hoạt động này có thể điều khiển được.
Nếu nắm được quy luật của hệ thống thì sẽ điều khiển được hệ thống hoạt động theo
phương án tối ưu.
- Tính trội: tính chất mới mà các thành tố bộ phận không có. Ví dụ: chiếc xe máy nếu
tháo rời từng bộ phận thì không chạy được. Tính chất này đảm bảo sự sống còn của hệ
thống và cũng để phân biệt hệ thống với các tập hợp (đống gạch, đống cát).
Phương pháp hệ thống - cấu trúc là sự cụ thể hóa của phương pháp nhận thức biện chứng.
Nó đòi hỏi phải xem xét đối tượng nghiên cứu như một hệ toàn vẹn phát triển động, có cấu
trúc xác định và chuyển vận nhờ sự tương tác theo quy luật riêng của các thành tố của hệ. Ví
dụ: nghiên cứu về quá trình dạy học gồm các thành tố: mục đích dạy học, nội dung dạy học,
phương pháp dạy học, giáo viên và học sinh, việc dạy và việc học... Phải nghiên cứu mối

quan hệ qua lại giữa các thành tố này diễn ra như thế nào? theo quy luật gì? Phải tìm ra bản
chất của quá trình dạy học là sự tương tác theo quy luật cộng đồng, hợp tác giữa dạy và học
… thì mới có thể tìm ra các biện pháp để nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học.
2.3.9. Phương pháp xác suất và thống kê
Xác suất là số đo khả năng xuất hiện khách quan của một sự vật, hiện tượng trong những
điều kiện nhất định có thể lặp đi lặp lại đến vô hạn.
Thống kê là dùng các phép tính để kết nối, thiết lập mối quan hệ bản chất giữa các sự
vật, hiện tượng. Để có sự tin cậy thì số lượng các thống kê phải đủ mức cần thiết để bộc lộ
được tính chất lặp đi lặp lại, ổn định ở đối tượng nghiên cứu.
2.4. SÁNG TẠO KHOA HỌC
2.4.1. Khái niệm về sáng tạo
Sáng tạo là một thuộc tính tâm lý đặc biệt, xuất hiện khi con người đứng trước hoàn cảnh
vấn đề. Khi đó bằng tư duy độc lập, người ta gạt bỏ được các giải pháp truyền thống để đưa
ra giải pháp mới, thích hợp, giải quyết được vấn đề đặt ra. Sáng tạo thường gắn với hoạt
động, là nét đặc biệt của hoạt động khi nảy sinh tư duy sáng tạo. Hoạt động và tư duy sáng
tạo giúp con người có những giải pháp mới, tối ưu.
Theo từ điển triết học: “sáng tạo là quá trình hoạt động của con người tạo nên giá trị tinh
thần và vật chất mới về chất”. Sáng tạo nảy sinh trong lao động của con người nhằm tạo nên
từ vật liệu do hiện thực cung cấp những thực tại mới thoả mãn được các nhu cầu đa dạng của
xã hội.
2.4.2. Bản chất của sáng tạo
Bản chất của sáng tạo là sự tư duy không lặp lại và có định hướng, bất cứ quá trình sáng
tạo nào cũng bắt đầu từ ý tưởng và kết thúc bằng một loại sản phẩm mới. Sáng tạo có ba
thuộc tính cơ bản:
a) Tính mới mẻ: sáng tạo bộc lộ trước hết ở tính mới mẻ trong sản phẩm của nó.
b) Tính độc lập trong tư duy và hành động: chính tư duy độc lập là tiền đề làm nảy
sinh giải pháp mới.
c) Tính hoàn thiện: hoạt động sáng tạo bao giờ cũng gắn với việc tạo ra cái mới độc
đáo, tốt hơn, có lợi hơn.
11



2.4.3. Cơ chế sáng tạo
a) Cơ chế trực giác
Trong nghiên cứu nhiều khi có các ý tưởng độc đáo xuất hiện hết sức đột ngột, bỏ qua tất
cả các bước, các thao tác tư duy thông thường và ngay tức khắc người ta nhìn thấy rõ mọi
điều cần thiết, lúc ấy ý tưởng xuất hiện như một “tia chớp”. Cái nhẩy vọt của tư duy đó được
gọi là trực giác. Trực giác là sản phẩm của tài năng, là kết quả của sự tích lũy kiến thức, kinh
nghiệm, là kết quả của sự say mê, kiên trì lao động.
b) Cơ chế Algôrit
Algôrit là bản ghi chính xác trật tự các bước đi để giải một bài toán. Tư tưởng cơ bản của
Algôrit sáng tạo là: theo những quy tắc nhất định, ta có thể nhận thức được thực tiễn, tránh
được những phép thử –sai một cách vô ích.
c) Cơ chế Ơristic
Từ giả thuyết khoa học, như là một dự báo định hướng, con người tìm cách chứng minh để
khẳng định nó. Đó là quá trình đề xuất và chứng minh một giả thuyết khoa học về một sự
kiện, hiện tượng mới. Con đường sáng tạo này được gọi là sáng tạo theo cơ chế Ơristic.
2.4.4. Các yếu tố cần thiết cho sự sáng tạo
Các nhà khoa học đã tổng kết rằng có các yếu tố cần thiết cho sự sáng tạo sau đây:
- Khả năng nhìn thấy sự khác lạ, tính nhạy bén
- Khả năng đánh giá đúng bản chất sự vật hiện tượng
- Sự bền vững và sẵng sàng của trí nhớ
- Sự phong phú về trí tưởng tượng
- Khả năng tập trung sự chú ý
- Khả năng linh hoạt
- Khả năng liên tưởng
- Khả năng phát sinh ý tưởng mới ...

12



Chương 3
CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Phương pháp chỉ những con đường cụ thể, những cách thức chung trong khi tiếp cận với
đối tượng nghiên cứu, thu thập sự kiện và tài liệu, nghiên cứu nó... nhằm đạt được mục đích
đề ra. Trong NCKH thường sử dụng những nhóm phương pháp cơ bản sau:
1. Nghiên cứu lí luận;
2. Các phương pháp điều tra, thu thập thông tin;
3. Các phương pháp thực nghiệm;
4. Các phương pháp xử lí thông tin.
3.1. NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN
Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận bao gồm các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết;
- Phương pháp phân loại hệ thống hoá lý thuyết;
- Phương pháp mô hình hoá;
- Phương pháp xây dựng giả thuyết;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm lịch sử.
Để nghiên cứu lý luận, việc đầu tiên rất quan trọng là đọc và nghiên cứu các tài liệu liên
quan đến đề tài bao gồm:
+ Các tác phẩm kinh điển, các văn kiện, nghị quyết đại hội…
+ Các kỷ yếu hội thảo, hội nghị;
+ Các công trình nghiên cứu khoa học;
+ Sách, báo, tạp chí, tập san chuyên ngành;
+ Các tài liệu nước ngoài...
Trong nghiên cứu khoa học người ta phân ra làm 3 loại tài liệu: tài liệu loại 1, tài liệu
loại 2 và tài liệu loại 3. Tài liệu loại 1 còn được gọi là tài liệu gốc, xuất phát từ các tác phẩm
nguyên thủy, là nguồn tài liệu đáng tin cậy nhất. Tài liệu loại 2 là những tài liệu dựa vào tài
liệu gốc để viết lại. Tài liệu loại 3 là những tài liệu viết dựa vào tài liệu loại 2, thường không
có trích dẫn rõ ràng, cần sử dụng hạn chế và hết sức thận trọng để kiểm tra mức độ chính xác

của chúng. Ngoài việc phân loại các tài liệu khi đọc như trên, người nghiên cứu còn cần chú
ý đến tính khoa học, mức độ chính xác và tính trung thực của nguồn tài liệu được cung cấp.
Thường các tài liệu thống kê của các cơ quan nghiên cứu, công báo, các tạp chí khoa học
chuyên ngành, bài viết của các học giả uy tín ... có độ tin cậy, chính xác cao.
3.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA, THU THẬP THÔNG TIN

13


3.2.1. Quan sát
Quan sát là phương pháp sử dụng một cách có chủ định, có kế hoạch, các giác quan cùng với
ngôn ngữ viết và các phương tiện kỹ thuật (máy ảnh, quay phim, camera, máy ghi âm...) để ghi
nhận, thu thập những thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu.
3.2.2. Trò truyện, phỏng vấn
Đây là phương pháp đặt ra những câu hỏi cho người đối thoại, dựa vào câu trả lời của họ để
trao đổi, hỏi thêm nhằm thu thập các tin tức liên quan đến việc nghiên cứu. Kết quả phỏng vấn
sẽ rất giá trị nếu chọn đúng đối tượng có thể cung cấp thông tin chính xác, những người trong
cuộc, người có nhiều kinh nghiệm, am tường về vấn đề cần tìm hiểu. Khi tiến hành phỏng vấn
cần chú ý:
- Chuẩn bị trước các câu hỏi phục vụ cho mục đích điều tra, các gợi ý cần thiết nếu đối tượng
khó trả lời.
- Thời gian, địa điểm, khung cảnh của cuộc phỏng vấn.
- Trang phục và tác phong của người phỏng vấn cần phù hợp với đối tượng phỏng vấn.
- Rút ngắn khoảng cách, tạo sự tin tưởng, không khí cởi mở, dễ thổ lộ cho người trả lời.
- Cách ứng xử: biết quan sát, lắng nghe, im lặng, kiên nhẫn, không tỏ thái độ cá nhân, bình
luận hay tranh luận về nội dung cần tìm hiểu.
- Phải biết đánh giá và sàng lọc các thông tin thu được. Nếu có thể phỏng vấn được nhiều
đối tượng thì thông tin sẽ chính xác hơn.
3.2.3. Điều tra bằng phiếu câu hỏi
Đây là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lớn người nhằm thu thập

ý kiến chủ quan của họ về một vấn đề nào đó (thường các câu hỏi được in thành phiếu). Đây là
một công cụ quan trọng để thu thập thông tin, là chiếc cầu nối giữa người nghiên cứu với người
trả lời. Nếu câu hỏi được soạn thảo tốt sẽ cho ta thông tin đầy đủ, chính xác, tin cậy. Ngược lại
thì khả năng thu thập thông tin sẽ giảm, có khi còn bị méo mó, xuyên tạc, không đúng thực tế.

3.2.3.1. Các loại câu hỏi dùng trong điều tra
a) Câu hỏi mở: có nhiều cách trả lời khác nhau và thường khó trả lời, người viết được tự do
trả lời nhưng phải suy nghó và tìm cách diễn đạt. Câu hỏi mở cho ta biết khá đầy đủ các khía
cạnh của vấn đề nghiên cứu mà nhiều khi ta không dự đoán hết được. Nó thường được dùng
trong việc tìm kiếm, phát hiện những ý tưởng mới, hoặc để xây dựng các câu hỏi đóng. Tuy
nhiên kết quả thu được gây nhiều khó khăn trong việc xử lý thống kê. Đôi khi không thu được
câu trả lời nếu người viết thiếu nhiệt tình hay không có thời gian.
b) Câu hỏi đóng: luôn kèm theo những câu trả lời đã được chuẩn bị trước, người viết chỉ cần
đánh dấu vào các ô có sẵn nên dễ trả lời, mất ít thời gian, đỡ phải suy nghó căng thẳng. Câu hỏi
này đảm bảo tốt tính khuyết danh và thuận tiện trong việc xử lý thống kê. Tuy nhiên nó đòi hỏi
tất cả các khía cạnh của vấn đề nghiên cứu phải được thể hiện đầy đủ để cho người trả lời có thể
lựa chọn được phương án phù hợp. Câu hỏi đóng cũng bao gồm cả câu hỏi xác nhận có hoặc
không và câu hỏi dạng ma trận, câu hỏi tìm hiểu về mức độ cao thấp (mức độ quan trọng, mức
độ khó khăn, mức độ ảnh hưởng, mức độ đồng ý: đồng ý, đồng ý một phần, không có ý kiến,
không đồng ý…)
Ví dụ: Bạn hãy cho biết về mức độ cần thiết và tác dụng của các hoạt động rèn kó năng dạy
học của sinh viên
14


Stt
1
2
3
4

5
6
7
8
9
1
0

Hoạt động rèn kó
năng
Đọc diễn cảm
Phát biểu trước lớp
Xeminar, thuyết trình
Kể chuyện trên lớp
Tóm tắt nội dung bài
học
Đặt câu hỏi
Làm việc theo nhóm
ghép đôi
Làm việc theo nhóm
lớn
Hỏi đáp theo hình
thức “Vui để học”
Viết thu hoạch sau
TTSP

Cần thiết
1
1
1

1
1

2
2
2
2
2

3
3
3
3
3

4
4
4
4
4

Tác dụng
5
5
5
5
5

1
1

1
1
1

2
2
2
2
2

3
3
3
3
3

4
4
4
4
4

5
5
5
5
5

1 2
1 2


3 4 5 1
3 4 5 1

2 3 4 5
2 3 4 5

1 2

3 4 5 1

2 3 4 5

1 2

3 4 5 1

2 3 4 5

1 2

3 4 5 1

2 3 4 5

c) Câu hỏi hỗn hợp: câu hỏi đã có một số phương án trả lời, nhưng còn bỏ trống để
người trả lời điền thêm các phương án khác.
Ví dụ: Bạn hãy cho biết động cơ học tập của bạn hiện nay:
- Vì truyền thống, danh dự của gia đình
- Vì ham mê nghiên cứu, tìm tịi khoa học

- Yêu thích nghề giáo viên
- Rất muốn trở thành giáo viên giỏi
- Cần có một tấm bằng đại học
- Rất muốn phấn đấu vươn lên
- Chưa xác định được động cơ
- Động cơ khác (nếu có xin bạn hãy chỉ rõ):
.......................................................................
d) Câu hỏi phân tầng: chia đối tượng nghiên cứu ra thành những nhóm khác nhau, sau đó
có những câu hỏi riêng cho từng nhóm.
Ví dụ:
Bạn có tham khảo thêm tài liệu ngoài giáo trình :
a. Thường xuyên
b. Tham khảo khi giáo viên yêu cầu
c. Không tham khảo do :
c1. Không có tài liệu
c2. Không có thời gian
3.2.3.2. Thiết kế phiếu điều tra

15


Một phiếu điều tra thường có 3 phần: giới thiệu mở đầu, phần nội dung chính và phần
cám ơn.
a) Phần giới thiệu nên có:
- Tên người hay tổ chức đứng ra nghiên cứu, mục đích điều tra. Cần làm cho người viết phiếu
thấy việc tham gia là có ích và quan tâm đến vấn đề nghiên cứu bằng cách nêu rõ tầm quan
trọng và ý nghóa của việc trả lời.
- Có thể tìm hiểu một vài thông tin sơ lược về người viết phiếu như độ tuổi, giới tính, trình độ
... tùy theo yêu cầu của việc nghiên cứu. Tuy nhiên cần đảm bảo tính khuyết danh, giữ bí mật, an
toàn và tạo sự tin tưởng cho người viết phiếu.

- Có thể kèm theo hướng dẫn cách điền, ghi phiếu, cách trả lời.
b) Phần nội dung chính bao gồm các câu hỏi để thu thập thông tin. Các câu hỏi nên xếp theo
một trật tự logic, theo từng nhóm vấn đề, thứ tự thời gian, từ bao quát đến cụ thể, từ đơn giản đến
phức tạp... Tuy nhiên đôi khi người ta lại chú ý đến yếu tố tâm lí hơn là trật tự về nội dung. Các
câu hỏi tiếp xúc, dương tính nên để ở đầu. Các câu hỏi khó, phức tạp và câu hỏi nhạy cảm nên
để cuối cùng.
c) Cuối cùng là phần cám ơn, có thể giới thiệu địa chỉ của người nghiên cứu để khi cần thiết
có thể trao đổi thông tin.
3.2.3.3. Những yêu cầu khi soạn phiếu điều tra
1. Xác định trước mục đích và nội dung cần điều tra, số câu hỏi với từng nội dung.
2. Các câu hỏi cần bao quát hết nội dung điều tra, những nội dung quan trọng cần nhiều câu
hỏi, có thể dùng câu hỏi phụ để kiểm chứng.
3. Số câu hỏi cần vừa phải (với từng đối tượng và từng trường hợp cụ thể). Nếu quá ít lượng
thông tin thu được sẽ hạn chế, quá nhiều gây căng thẳng thần kinh. Cần xem xét, cân nhắc
kỹ tác dụng của từng câu hỏi (đem lại thông tin nhiều hay ít, có hướng vào mục đích cần điều
tra không…), loại bỏ những câu hỏi không cần thiết, kém chất lượng. Những câu hỏi có nội
dung gần trùng nhau nên gộp lại thành một câu hoàn chỉnh.
4. Câu hỏi cần ngắn gọn, chính xác, đơn nghóa, đảm bảo mọi đối tượng đều hiểu như nhau.
5. Câu hỏi phải dễ hiểu, phù hợp với trình độ đối tượng để sau khi phát phiếu không cần giải
thích gì thêm.
6. Mỗi câu hỏi chỉ nên tập trung vào một phạm vi hẹp, một vấn đề rất cụ thể để dễ trả lời,
không mất nhiều thời gian.
7. Nên hạn chế việc dùng các câu hỏi mở (mất thời gian suy nghó và tìm cách diễn đạt, khó
khăn với những người khả năng diễn đạt bị hạn chế). Nếu dùng loại câu hỏi này thì phải
khêu gợi được hứng thú của người trả lời.
8. Câu hỏi cần gây chú ý và nhiệt tình của đối tượng. Tạo tâm lý nhẹ nhàng, thoả mái, làm cho
đối tượng muốn trả lời.
9. Hình thức phiếu câu hỏi cần đảm bảo tính thẩm mỹ, khoa học vì nó ảnh hưởng đến sự nhiệt
tình của người viết phiếu. Khi cần có thể thêm hình vẽ minh hoạ để gây hứng thú, giảm bớt
căng thẳng.

10. Trước khi điều tra diện rộng cần làm thử để chỉnh sửa các câu có chất lượng kém.
3.2.4. Phương pháp chuyên gia
Đây là phương pháp sử dụng trình độ trí tuệ của đội ngũ chuyên gia có trình độ cao để xem
xét, nhận định, tìm ra giải pháp tối ưu cho vấn đề nghiên cứu. Cần chú ý chọn đúng các chuyên
16


gia am hiểu về vấn đề nghiên cứu, có phẩm chất trung thực, khách quan khoa học. Để lấy ý kiến
chuyên gia có thể thông qua hội nghị, hội thảo, phỏng vấn hay phiếu điều tra …
3.2.5. Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động
Đây là phương pháp dựa vào các sản phẩm hoạt động để hiểu về đối tượng nghiên cứu. Ta
biết rằng mọi sản phẩm của hoạt động do con người tạo ra đều ít nhiều mang dấu ấn cá nhân về
năng lực, phẩm chất của người đó. Ví dụ như dựa vào vở ghi và vở bài tập của học sinh ta có thể
biết được khả năng học tập và những nét tính cách của học sinh đó như: có yêu thích môn học,
cẩn thận hay cẩu thả, nghiêm túc học tập hay qua loa chiếu lệ ...
3.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM
Thực nghiệm là phương pháp có giá trị cao trong việc phát hiện cái mới, kiểm tra giả thuyết
cũng như khẳng định tính khách quan của kết quả nghiên cứu. Thực nghiệm đặc biệt quan trọng
và không có phương pháp nào thay thế được trong các bộ môn khoa học thực nghiệm. Trong
nghiên cứu người ta thường phân biệt thí nghiệm và thực nghiệm khoa học:
1. Thí nghiệm: làm thử theo các nguyên tắc, điều kiện đã được xác định để nghiên cứu
(thường được tiến hành trong các phòng thí nghiệm).
2. Thực nghiệm khoa học: chủ động gây ra hiện tượng nghiên cứu trong điều kiện được khống
chế nhằm xác định mối liên hệ nhân quả giữa từng nhân tố tác động đến kết quả.
3.4. CÁC PHƯƠNG PHÁP XỬ LÍ THÔNG TIN
Xử lí thông tin là công việc của nhà nghiên cứu nhằm chuyển các thông tin thu được ban đầu
thành các kết luận có ý nghóa và tính chính xác cao hơn. Người ta thường sử dụng các phương
pháp sau:
- Phương pháp phân tích số liệu
- Phương pháp tổng hợp và khái quát hoá

- Các phương pháp toán học: sử dụng toán thống kê, các thang đo và logic toán học.
Hiện nay người ta thường dùng phần mềm SPSS for Windows (Statistical Package for social
sciences) để xử lý các thông tin thu được trên máy vi tính. Phần mềm này rất tiện lợi, cho ta kết
quả chính xác và nhanh chóng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu sử dụng được phần mềm này đòi hỏi
phải có phương tiện và thời gian. Với các nghiên cứu đơn giản thông thường, khi so sánh kết quả
học tập giữa 2 lớp thực nghiệm và đối chứng, người ta xử lý thống kê toán học theo các bước
sau:
1- Lập các bảng phân phối tần số, tần suất và tần suất lũy tích.
2- Vẽ đồ thị các đường lũy tích.
3- Lập bảng tổng hợp phân loại kết quả học tập.
4- Tính các tham số thống kê đặc trưng (trung bình cộng, phương sai, độ lệch chuẩn, hệ số biến
thiên, sai số tiêu chuẩn...).
3.4.1. Bảng phân phối tần số và tần suất
Bảng phân phối tần số và tần suất là bảng ghi số lần xuất hiện của từng điểm số xi và tỷ lệ %
của điểm số đó trong tổng thể nghiên cứu.
3.4.2. Bảng phân phối tần suất lũy tích
Để biết tần suất của tất cả các điểm xi từ một giá trị nào đó trở xuống (hoặc trở lên) người ta
cộng dồn tần xuất của điểm số xi với tần suất của tất cả các điểm số nhỏ hơn (hoặc lớn hơn) xi
và được tần suất lũy tích của điểm xi trở xuống (hoặc trở lên).
Ví dụ:
17


Bảng 3.1. Phân phối tần số, tần suất và tần suất lũy tích
của một thực nghiệm
Điểm
xi

% SV đạt điểm
xi

T.N
ĐC

Số SV đạt
điểm xi
T.N
ĐC

%SV đạt điểm xi
trở xuống
T.N
ĐC

0

0

0

0

0

0

0

1

0


0

0

0

0

0

2

0

1

0

2,17

0

2,17

3

1

2


2,08

4,35

2,08

6,52

4

1

5

2,08

10,87

4,16

17,39

5

3

9

6,25


19,57

10,41

36,96

6

8

14

16,67

30,43

27,08

67,39

7

19

10

39,59

21,74


66,67

89,13

8

12

4

25,00

8,70

91,67

97,83

9

4

1

8,33

2,17

100,00


100,00

10

0

0

0

0

48

46

100,00

100,00



Từ bảng phân phối tần suất lũy tích, dựa vào Excel ta có thể dễ dàng vẽ được đồ thị minh
họa:

120
100
80
T.N


60

ĐC

40
20
0
0

1

2

3

4

5

6

7

8

9

Hình 3.1. Đồ thị đường lũy tích điểm số kết quả học tập của
2 nhóm đối chứng và thực nghiệm

Các đường lũy tích rất thuận lợi trong việc so sánh, ví dụ nhìn vào đồ thị trên ta thấy số
sinh viên đạt điểm 5 trở xuống ở lớp đối chứng và thực nghiệm chênh khá lớn (khoảng 30%).

18


3.4.3. Trung bình cộng


x=

n1 x1 + n2 x2 + .... + nk xk 1 k
= ∑ ni xi
n1 + n2 + .... + nk
n i =1

ni: tần số của các giá trị xi
n: tổng của n1 + n2 + .... + nk
3.4.4. Phương sai S2 và độ lệch chuẩn S
Phương sai S2 là sai lệch bình phương trung bình giữa các giá trị quan sát bất kỳ với giá trị
trung bình của dãy phân phối. Phương sai S2 và độ lệch chuẩn S là các số đo độ phân tán của
sự phân phối. S càng nhỏ số liệu càng ít phân tán.



ni ⎜ xi − x ⎟



s2 =

n −1



s=

2

∑ n ( x − x)

3.4.5. Hệ số biến thiên V

i

2

i

n −1

Hệ số biến thiên V dùng để so sánh độ phân tán trong trường hợp 2 bảng phân phối có
giá trị trung bình cộng khác nhau hoặc 2 mẫu có quy mô rất khác nhau. Nếu hệ số biến thiên
càng nhỏ thì độ phân tán càng ít.
V=

3.4.6. Sai số tiêu chuẩn m

S



×100%

x

Dựa vào sai số tiêu chuẩn m, ta sẽ tính được giá trị trung bình dao động trong khoảng


x ± m với
m=

S
n

19


Chương 4
CÁC GIAI ĐOẠN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Quá trình nghiên cứu thường trải qua 6 giai đoạn dưới đây:
1. Chọn đề tài
2. Xây dựng giả thuyết khoa học
3. Soạn đề cương nghiên cứu
4. Thực hiện kế hoạch nghiên cứu
5. Tổng kết và viết công trình nghiên cứu
6. Công bố, bảo vệ và áp dụng vào thực tiễn
Các giai đoạn trên gắn bó với nhau rất chặt chẽ, vừa kế tiếp vừa có lúc đan xen lẫn nhau
tạo thành một quy trình thống nhất toàn vẹn.
4.1. CHỌN ĐỀ TÀI
4.1.1. Những yêu cầu với một đề tài – đánh giá đề tài

Trong thực tiễn luôn luôn tồn tại muôn vàn mâu thuẫn. Nhiệm vụ của nhà nghiên cứu là
phát hiện ra những mâu thuẫn đó và tìm cách giải quyết chúng. Mâu thuẫn được phát hiện ra
và được chọn để nghiên cứu gọi là vấn đề khoa học, nó được phát biểu thành tên gọi tức tên
của đề tài.
Đề tài nghiên cứu phải đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn đời sống và sự phát
triển của khoa học, phải có tính chất mới mẻ thời sự. Đề tài nghiên cứu của sinh viên mặc
dầu mang tính chất tập dợt nghiên cứu cũng vẫn phải có một giá trị thực tiễn nhất định. Nó
phải giải quyết một nhiệm vụ cụ thể do cuộc sống đặt ra.
Khi đánh giá đề tài có giá trị nhiều hay ít, người ta thường căn cứ vào:
-

Tính hữu ích, tức giá trị của đề tài về mặt lý luận và thực tiễn, đối với xã hội, ngành
học …

-

Việc đáp ứng nhu cầu bức bách của thực tế cuộc sống.

- Tính mới mẻ, sáng tạo.
4.1.2. Các căn cứ khi chọn đề tài
Chọn đề tài đúng, thích hợp với bản thân và các điều kiện ngoại cảnh sẽ giúp quá trình
nghiên cứu đỡ tốn công sức, vất vả và có nhiều cơ hội thành công. Có thể không sai khi nói
rằng: chọn đề tài đúng là đã thực hiện được 30 – 40 % công việc của toàn bộ quá trình
nghiên cứu. Khi lựa chọn đề tài người nghiên cứu phải chú ý cân nhắc một cách hết sức thận
trọng các yếu tố sau:
1) Vấn đề nghiên cứu
- Có giá trị, mới mẻ không? Cần xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn: Thường các vấn đề
then chốt nhất, có tính cấp bách và thiết thực nhất mà thực tế đặt ra sẽ làm cho đề tài
có giá trị cao và được mọi người quan tâm.
- Nội dung có dễ phát triển và mở rộng?

20


- Phương pháp nghiên cứu có dễ thực hiện?
- Có đòi hỏi các phương tiện nghiên cứu đắt tiền, khó kiếm?
- Nhiệm vụ đề tài đòi hỏi việc thực hiện có tốn nhiều công sức?
- Có dễ thiết kế các công việc cụ thể để làm ra sản phẩm?
- Có cần thiết đầu tư, chi phí nhiều tiền bạc?
- Có tận dụng được kết quả nghiên cứu của những người đi trước?
2) Điều kiện của việc nghiên cứu:
- Tài liệu tham khảo,
- Cơ sở vật chất, các phương tiện, thiết bị cần thiết để thực hiện đề tài.
- Nguồn tài chính,
- Người cộng tác,
- Thời gian cho phép,
- Môi trường thực hiện công việc nghiên cứu,
- Địa bàn thực hiện đề tài có gần nơi ở của người nghiên cứu, đi lại có dễ dàng hay khó
khăn?
3) Điều kiện chủ quan của bản thân:
- Có vừa sức (dựa vào vốn hiểu biết, trình độ, năng lực, kinh nghiệm nghiên cứu…) ?
- Có phù hợp với sở trường của bản thân ?
- Có hứng thú với vấn đề nghiên cứu?
Sinh viên mới tập nghiên cứu không nên chọn những đề tài quá khó, đòi hỏi nhiều
kinh nghiệm và khả năng tổng hợp cao. Nên chọn các đề tài đơn giản như điều tra khảo
sát thực tế, phát hiện vấn đề, tổng kết kinh nghiệm….
4) Người hướng dẫn:
- Người hướng dẫn phải am hiểu và có kinh nghiệm về vấn đề, lónh vực nghiên cứu để có
thể đánh giá đề tài, cho những lời khuyên cần thiết.
- Người hướng dẫn phải thích thú, quan tâm đến vấn đề nghiên cứu.
- Người hướng dẫn phải có thời gian dành cho hoạt động nghiên cứu và vấn đề sẽ nghiên

cứu.
Không nên chọn các đề tài:
• Quá rộng, tổng quát hoặc quá hẹp, quá cụ thể.
• Khó tiếp cận: tiến hành khó khăn, không gắn với các hoạt động hàng ngày của bản
thân người nghiên cứu.
• Khó thiết kế công cụ đánh giá, xác định sản phẩm; việc đánh giá kết quả nghiên cứu
không rõ ràng, khó phân định đúng sai.
• Vượt quá khả năng của người nghiên cứu.
Các công việc cụ thể khi chọn đề tài:
- Liệt kê các vấn đề đang được nhiều người quan tâm.
21


- Chọn lấy một vấn đề phù hợp nhất (hướng nghiên cứu).
- Cụ thể hoá thành tên gọi.
Trong quá trình nghiên cứu dần dần sẽ chính xác hóa đề tài cho phù hợp với thực tiễn và
tình hình diễn biến cụ thể của việc nghiên cứu.
4.1.3. Các loại đề tài
Thông thường có các loại đề tài sau:
1. Tìm hiểu bản chất, quy luật của đối tượng nghiên cứu.
2. Điều tra cơ bản, phát hiện tình hình. Phân tích, tìm hiểu nguyên nhân thành công hoặc
thất bại. Đề xuất giải pháp. (Loại đề tài này không có phần Thực nghiệm sư phạm).
3. Tổng kết kinh nghiệm.
4. Vận dụng lý luận chung, các quy luật, nguyên lý vào thực tế.
5. Nghiên cứu cải tiến cái cũ sáng tạo cái mới, tìm các biện pháp để nâng cao chất
lượng / hiệu quả hoạt động.
4.2. XÂY DỰNG GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Giả thuyết khoa học là lời tiên đoán khoa học dự đoán hướng và giải quyết các vấn đề
được nêu ra trong đề tài, phác thảo những nét cơ bản cho quá trình nghiên cứu và những kết
luận nghiên cứu.

Để xây dựng giả thuyết khoa học phải tìm hiểu thực tiễn và lý luận có liên quan đến đề
tài (thực tiễn trong và ngoài nước, đi ngược lại lịch sử xem những gì đã được giải đáp nhưng
chưa thỏa đáng, chưa thích hợp, tại sao có người nghiên cứu nhưng thất bại...).
Giả thuyết khoa học với chức năng tiên đoán có giá trị là cơ sở phương pháp luận, là
công cụ giúp người nghiên cứu tác động vào đối tượng nghiên cứu tìm ra quy luật, bản chất
của đối tượng. Nó là cơ sở để định ra các bước của quá trình nghiên cứu. Giả thuyết khoa
học giữ vai trò rất quyết định trong NCKH.
4.3. LẬP ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU
Đề cương nghiên cứu gồm một số phần cơ bản sau:
1) Tên đề tài
2) Lý do chọn đề tài
3) Mục đích của việc nghiên cứu
4) Nhiệm vụ của đề tài
5) Khách thể và đối tượng nghiên cứu
6) Phạm vi nghiên cứu
7) Giả thuyết khoa học
8) Phương pháp và các phương tiện nghiên cứu
9) Dàn ý nội dung nghiên cứu
10) Kế hoạch nghiên cứu.

22


4.3.1. Tên đề tài
Tên đề tài là sự mô tả một cách cô đọng đề tài nghiên cứu. Nó giúp người đọc hiểu được
đề tài nghiên cứu cái gì, những nội dung cần thực hiện trong quá trình nghiên cứu. Tên đề tài
cần phải ngắn gọn, súc tích và rõ ràng ở mức cần thiết.
Thông thường tên đề tài có thể chứa:
- Đối tượng nghiên cứu;
- Nội dung công việc sẽ nghiên cứu;

- Phạm vi nghiên cứu.
Tuy nhiên trong một số tên đề tài người ta có thể làm rõ hơn về những nội dung khác như:
khách thể nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, mục đích nghiên cứu …
4.3.2. Lý do chọn đề tài
Phần này nên có các nội dung sau:
- Tầm quan trọng, ý nghóa, tác dụng của vấn đề nghiên cứu;
- Vấn đề có tính cấp thiết cần giải quyết;
- Vấn đề chưa được nghiên cứu hay nghiên cứu chưa sâu, còn có những nội dung cần tiếp
tục tìm hiểu, làm rõ…
4.3.3. Mục đích của việc nghiên cứu
Trả lời câu hỏi: Nghiên cứu để làm gì?
Khi xác định mục đích của việc nghiên cứu cần lưu ý nêu ra mục đích trực tiếp của đề
tài, không nên đưa ra những mục đích quá xa, có thể dùng chung cho nhiều đề tài.
4.3.4. Nhiệm vụ của đề tài
Nhiệm vụ của đề tài là các công việc cụ thể cần thực hiện để đạt mục đích của đề tài.
Thông thường một đề tài nghiên cứu có các nhiệm vụ sau:
- Xây dựng hệ thống lí luận làm cơ sở nghiên cứu cho đề tài.
- Điều tra, tìm hiểu bản chất, quy luật của đối tượng nghiên cứu.
- Thực nghiệm, kiểm chứng giả thuyết khoa học của đề tài.
- Đề xuất giải pháp …
4.3.5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: bản chất của sự vật, hiện tượng cần làm rõ; vấn đề mà đề tài (chủ
thể) nhắm vào. Việc xác định đối tượng nghiên cứu nhằm trả lời câu hỏi: Nghiên cứu cái gì?
Khách thể nghiên cứu: hệ thống trong đó có chứa thành tố là đối tượng nghiên cứu.
4.3.6. Phạm vi nghiên cứu
Tùy theo điều kiện cụ thể mà người nghiên cứu cần phải đặt ra các giới hạn sau:
- Giới hạn nội dung vấn đề nghiên cứu
- Giới hạn về địa bàn nghiên cứu
- Giới hạn về thời gian
- Giới hạn về đối tượng nghiên cứu …


23


4.3.7. Giả thuyết khoa học
Giả thuyết khoa học là sự giả định về bản chất của đối tượng nghiên cứu mà đề tài cần
kiểm chứng (khẳng định hay phủ định). Giả thuyết giúp người nghiên cứu định hướng đúng
hoạt động của mình. Một giả thuyết khoa học được xác định tốt khi người nghiên cứu có khả
năng kiểm chứng được nó bằng thực nghiệm. Giả thuyết khoa học là phán đoán về mối quan
hệ nhân quả, được thể hiện bằng câu có chứa mệnh đề: “Nếu … thì …”
4.3.8. Phương pháp và các phương tiện nghiên cứu
Phần này cần trình bày các phương pháp khoa học, các phương tiện được sử dụng khi thực
hiện đề tài.
4.3.9. Dàn ý nội dung nghiên cứu
4.3.9.1. Dàn ý nội dung nghiên cứu là bản ghi các chương, mục theo dự kiến sẽ thực
hiện. Dàn ý nội dung nghiên cứu thường có phần mở đầu, 3 chương và kết luận:
Mở đầu
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Chương 2. Trình bày nội dung các vấn đề cần nghiên cứu
(nếu vấn đề phức tạp có thể tách làm nhiều chương)
Chương 3. Thực nghiệm
Kết luận (có thể để thành 1 chương nếu có nhiều nội dung)
4.3.9.2. Một số mẫu dàn ý nội dung nghiên cứu
A. ĐỀ TÀI DẠNG ĐIỀU TRA
Điều tra cơ bản, phát hiện tình hình. Phân tích, tìm hiểu nguyên nhân thành công hoặc
thất bại. (không có phần Thực nghiệm sư phạm”.
Tên đề tài: Tìm hiểu/ khảo sát thực trạng …..
Ví dụ:
“Tìm hiểu nguyên nhân thi lại của sinh viên lớp Hóa 2 trường Đại học sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh”

“Khảo sát thực trạng việc tự học của sinh viên khoa Ngữ Văn trường Đại học sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh”
Mở đầu
Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu
1.1. Lịch sử vấn đề (có hoặc không)
1.2. Cơ sở lý luận
Chương 2. Thực trạng …
2.1. Mục đích điều tra
2.2. Đối tượng điều tra
2.3. Cách tiến hành điều tra
2.4. Kết quả điều tra
Chương 3. Kết luận, đề xuất
24


B. DẠNG VẬN DỤNG LÝ LUẬN VÀO THỰC TẾ
Vận dụng lý luận chung, các học thuyết, quy luật, nguyên tắc khoa học đã có vào thực tế.
Tên đề tài: Sử dụng/ vận dụng …. vào / trong …
Ví dụ:
“Sử dụng tư liệu, tranh ảnh để nâng cao hiệu quả giáo dục môi trường trong dạy học hóa
học ở trường phổ thông”
Mở đầu
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
1.1. Lịch sử vấn đề (có hoặc không)
1.2. Các khái niệm công cụ
1.3. Cơ sở lý luận …
1.4. Cơ sở thực tiễn …
Chương 2. Sử dụng/ vận dụng …. vào/ trong…
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
Chương 4. Kết luận, đề xuất

C. DẠNG ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
Nghiên cứu cải tiến cái cũ sáng tạo cái mới, tìm các biện pháp để nâng cao chất lượng / hiệu
quả công việc.
Tên đề tài: Biện pháp … để nâng cao hiệu quả ….
Ví dụ:
“Biện pháp phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh phổ thông trong dạy học hóa học”
Mở đầu
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
1.1. Lịch sử vấn đề (có hoặc không)
1.2. Cơ sở lý luận
1.3. Cơ sở thực tiễn
Chương 2. Biện pháp … để nâng cao hiệu quả ….
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
Chương 4. Kết luận, đề xuất
4.3.10. Kế hoạch nghiên cứu
Kế hoạch nghiên cứu là dự kiến thực hiện từng công việc theo thời gian. Người nghiên
cứu dựa vào thời gian cho phép để lên kế hoạch cụ thể cho việc thực hiện từng nhiệm vụ của
đề tài. Chú ý dành một thời gian thích hợp cần thiết để dự phòng các tình huống bất trắc.
Thời gian để chỉnh sửa, nghiệm thu đề tài thường hay vượt quá dự kiến của người mới làm
quen với việc nghiên cứu. Sau đây là một gợi ý viết kế hoạch nghiên cứu theo dạng ma trận:
đánh dấu chéo hoặc bôi mực màu vào các ô thời gian ứng với từng công việc.

25


×