Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Địa lý ngành công nghiệp dầu khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (961.47 KB, 58 trang )

MỞ ĐẦU.
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong Chiến lược phát triển ngành Công nghiệp Việt Nam đến
năm 2020 đã nêu rõ: Ngành công nghiệp tiếp tục giữ vai trò động lực,
quyết định sự phát triển nền kinh tế, đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
Tại diễn đàn hội thảo Quốc tế “Xây dựng và thực hiện chiến lược công
nghiệp Việt Nam”, Hà Nội đầu năm 2005, giáo sư Nhật Bản Ohno đã
phát biểu: “Việt Nam cần tập trung phát triển mạnh các ngành công
nghiệp trọng điểm, có lợi thế cạnh tranh, có thị trường, có khả năng hút
vốn lớn, khuyến khích phát triển các ngành và các sản phẩm có giá trị
gia tăng cao, quy trình công nghệ cao, tăng cường năng lực nghiên cứu
phát triển công nghệ trong nước, làm chủ công nghệ hiện đại…”
Thật vậy, trong quá trình phát triển đất nước, ở mỗi giai đoạn
khác nhau, Đảng và Nhà nước luôn xác định các ngành công nghiệp
trọng điểm, để đề ra các cơ chế, chính sách thích hợp, nhằm tạo những
đòn bẩy, phát triển kinh tế.
Trong xu thế hội nhập, cả thế giới đang hòa mình vào dòng chảy
lớn của nền kinh tế toàn cầu hóa. Những năm đầu của thế kỷ mới, đã
ghi dấu những bước phát triển quan trọng của đất nước. Vị thế của Việt
Nam đang ngày càng được khẳng định bằng hàng loạt các sự kiện chính
trị, kinh tế quan trọng. 17h ngày 07/11/2006 Việt Nam đã chính thức là
thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO); là thành
viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ
2008 - 2009…
Với ngành dầu khí – một trong những ngành công nghiệp trọng
điểm, sau hơn 30 năm kể từ khi thành lập (năm 1975), mô hình mới
- Tập đoàn kinh tế được xem là bước ngoặt quan trọng để ngành công
1
nghiệp dầu khí Việt Nam tăng tốc, khẳng định vai trò trụ cột của nền
kinh tế đất nước.


Năm 2006 cũng là một năm đánh dấu một bước chuyển lớn lao
của ngành dầu khí. Bộ chính trị, Chính phủ đã chính thức phê duyệt
Chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam đến năm 2015 và định
hướng phát triển đến 2025. Hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành
trong năm 2006 đã tiếp tục đạt được tốc độ tăng trưởng cao, với tổng
doanh thu đạt 168,7% kế hoạch, tăng 17,5% so với năm 2005; nộp ngân
sách tăng 26,7% so với năm trước, chiếm xấp xỉ 28,5% tổng thu ngân
sách Nhà nước. Hoạt động hợp tác đầu tư về công nghiệp dầu khí ở
trong nước và nước ngoài tiếp tục được đẩy mạnh và thu những kết quả
tốt. Không những thế, công tác hoàn thiện bộ máy tổ chức, đưa hoạt
động của ngành vận hành theo cơ chế tập đoàn đã được thực hiện, mở
ra những yếu tố tích cực để ngành tiếp tục phát triển bền vững, hội nhập
có hiệu quả…
Có thể nói, vận hội đang “gõ cửa”, thời gian đến năm 2020 không
còn nhiều. Những nước được gọi là “con rồng”, “con hổ” trong khu vực
đã tìm được cho mình một mô hình phát triển phù hợp với thế mạnh của
họ. Trước bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra từng ngày từng giờ, công
nghiệp Việt Nam đang tìm cho mình một cách đi riêng. Chúng ta đang
học hỏi, tiếp thu tri thức và kinh nghiệm của các nước đi trước, đồng
thời đang phát huy thế mạnh từ thực tiễn phát triển đất nước, để xây
dựng một mô hình phát triển công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp trọng
điểm - có khả năng cạnh tranh, chiếm tỷ trọng đáng kể tại thị trường
trong nước và quốc tế; có khả năng tạo hiệu ứng lan toả, dẫn dắt và kéo
theo sự phát triển của các ngành công nghiệp khác… Chỉ có như thế,
ngành công nghiệp Việt Nam mới tạo ra những điểm nhấn, những bước
tiến mạnh mẽ, rút ngắn nhanh khoảng cách với các nước khác. Mô hình
2
ấy sẽ tạo nên bản sắc công nghiệp Việt Nam trong kỷ nguyên mới – kỷ
nguyên toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Xuất phát từ thực tế đó, là giáo viên Địa lý chuyên ngành KT –

XH, được sự đồng tình, ủng hộ của GS. TS. Lê Thông, tôi mạnh dạn lựa
chọn đề tài: Địa lý ngành công nghiệp dầu khí cho luận văn tốt nghiệp
thạc sỹ của mình, với tham vọng tìm hiểu, nghiên cứu một ngành công
nghiệp trọng điểm còn rất mới, rất trẻ, rất thời sự trong xu thế hội nhập
và xa hơn nữa mong góp phần như một tài liệu tham khảo.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu.
2.1. Mục đích.
Vận dụng cơ sở lý luận chung về công nghiệp và thông qua sự phát
triển của công nghiệp trọng điểm Việt Nam trong tiến trình công nghiệp
hóa đất nước, đề tài làm rõ vai trò, điều kiện, thực trạng phát triển và định
hướng phát triển của ngành công nghiệp dầu khí với tư cách là một ngành
công nghiệp trọng điểm.
2.2. Nhiệm vụ.
- Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn về việc phát triển ngành công
nghiệp dầu khí với tư cách là một ngành công nghiệp trọng điểm.
- Tìm hiểu vai trò, tình hình phát triển của ngành công nghiệp dầu khí
trong xu thế hội nhập.
- Kiểm kê, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành.
- Kiểm kê, phân tích thực trạng phát triển của ngành.
- Đưa ra một số định hướng và giải pháp phát triển cho ngành công nghiệp
trọng điểm dầu khí.
2.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Đối tượng nghiên cứu: Công nghiệp dầu khí, chủ yếu là khai thác với tư
cách là ngành công nghiệp trọng điểm
- Phạm vi nghiên cứu: Trên phạm vi cả nước.
- Thời gian nghiên cứu: Tập trung vào khoảng từ 1995 – 2006.
3
3. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu.
3.1. Quan điểm.
3.1.1.Quan điểm hệ thống - cấu trúc.

Đây là hệ quan điểm quan trọng nhất trong nghiên cứu địa lý.
Quan điểm này đòi hỏi phải phân tích đối tượng như một hệ thống
“động” trong các mối liên hệ biện chứng giữa đối tượng với chỉnh thể
mà bản thân nó là một bộ phận cấu thành. Dầu khí là lĩnh vực rất rộng,
một hệ thống bao gồm nhiều phân hệ phức tạp. Nội dung nghiên cứu về
công nghiệp dầu khí vừa đa dạng, vừa liên quan đến nhiều vấn đề có
quy mô và bản chất khác nhau. Vì thế trong nghiên cứu này phải được
phân tích trong sự phát triển và phân bố của ngành công nghiệp, cũng
như trong giai đoạn đầu của hội nhập và phát triển.
3.1.2. Quan điểm lãnh thổ.
Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong một không gian (lãnh
thổ) và được xác định trong một thời điểm nhất định. Vì vậy, cần phải
gắn đối tượng nghiên cứu với không gian mà nó đang tồn tại cũng như
không gian xung quanh.
Công nghiệp dầu khí được đặt trong cơ cấu kinh tế Việt Nam và
là một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng của lãnh thổ. Sự phát
triển và phân bố của ngành dầu khí vừa có tác động và vừa chịu ảnh
hưởng sâu sắc đến các vùng lãnh thổ trên toàn quốc, cũng như khu vực
và thế giới.
3.1.3. Quan điểm lịch sử viễn cảnh.
Các quá trình kinh tế xã hội không ngừng vận động theo thời gian
và biến đổi trong không gian. Vận dụng quan điểm lịch sử viễn cảnh
cho phép cắt nghĩa được sự biến động của đối tượng trong quá khứ,
hiện tại cũng như trong tương lai.
4
Vì thế sự phát triển và phân bố công nghiệp dầu khí cũng phải
được xem xét trong mối quan hệ với những thay đổi lịch sử và những
thay đổi về thể chế, chính sách, chiến lược trong từng thời kỳ.
3.1.4.Quan điểm sinh thái.
Sự phát triển của các ngành công nghiệp dầu khí cũng như tất cả

các ngành kinh tế khác đều dựa trên nền tảng của tự nhiên và tác động
lại tự nhiên. Ngành càng phát triển, càng tác động mạnh đến môi trường
càng tác động mạnh đến môi trường tự nhiên theo cả hai hướng: tích
cực và tiêu cực. Phát triển ngành công nghiệp dầu khí một cách bền
vững trên cơ sở khai thác tự nhiên, đồng thời phải bảo vệ tự nhiên.
3.2. Phương pháp nghiên cứu.
3.2.1. Phương pháp điều tra, thu thập tài liệu.
Thu thập các tài liệu và thông tin cần thiết, liên quan đến đề tài
dưới mọi dạng và mọi nguồn. Đây là phương pháp quan trọng ảnh
hưởng nhiều đến đề tài như: tiến trình của đề tài; độ chân thực của hiện
trạng ngành công nghiệp dầu khí... Trong khuôn khổ nội dung nghiên
cứu của đề tài, tác giả đã thu thập tài liệu từ các nguồn khác nhau: niên
giám thống kê, các báo cáo, tạp chí chuyên ngành, các chính sách công
nghiệp dầu khí, các tài liệu liên quan đến ngành… và các website.
3.2.2. Phương pháp phân tích đánh giá tổng hợp trong phòng.
Đây là phương pháp không thể thiếu trong nghiên cứu khoa học.
Trên cơ sở các tài liệu thu thập được (hầu hết là các thông tin, số liệu
thô), tác giả tiến hành xử lý để so sánh, phân tích đánh giá và thông qua
việc phân tích, đánh giá các thông tin thu thập được tác giả đưa ra các
kết quả nghiên cứu theo nội dung và theo mục đích của đề tài.
3.2.3. Phương pháp sử dụng hệ thống thông tin địa lý.
Sử dụng hệ thống các phần mềm thông dụng và phần mềm
chuyên ngành để nhập thông tin lưu trữ, quản lý và truy xuất, xử lý
5
thông tin, hiển thị thông tin theo mục đích và nội dung nghiên cứu của
đề tài.
3.2.4. Phương pháp bản đồ.
Đây là phương pháp đặc trưng của khoa học địa lý. Bản đồ vừa là
nội dung, vừa là phương tiện trong nghiên cứu khoa học địa lý nói
chung và trong địa lý kinh tế - xã hội nói riêng. Tác giả đã sử dụng

công nghệ thông tin địa lý với chương trình Mapinfo 7.5 để thành lập 3
bản đồ và các lược đồ về ngành dầu khí.
3.2.5. Phương pháp thống kê.
Các số liệu thống kê địa lý và việc biểu diễn trực quan chúng,
thông qua các biểu đồ giúp ích rất lớn cho việc phân tích, nó chứng
minh sự phát triển của các hoạt động của kinh tế trong đó có ngành
công nghiệp dầu khí.
Các bảng thống kê và biểu đồ không chỉ là phương tiện minh họa
mà thực sự là bộ phận không thể tách rời của các nghiên cứu địa lý kinh
tế – xã hội.
3.2.6. Phương pháp chuyên gia.
Tham khảo ý kiến các chuyên gia trong lĩnh vực dầu khí cũng là
một phương pháp hiệu quả để giải quyết các khúc mắc trong quá trình
nghiên cứu. Tác giả luận văn đã tham khảo một số ý kiến của các
chuyên gia trong ngành dầu khí để có thêm thông tin, hiểu biết khách
quan và nhìn nhận nội dung nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau.
4. Đóng góp của đề tài.
- Tổng quan, hệ thống hóa có chọn lọc cơ sở lý luận về ngành công
nghiệp trọng điểm nói chung và công nghiệp dầu khí nói riêng.
- Bước đầu kiểm kê, đánh giá các điều kiện phát triển công nghiệp
dầu khí nước ta, bao gồm cả các điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội,
phát hiện ra những thế mạnh và hạn chế của ngành.
6
- Góp phần làm sáng tỏ những lợi thế, hạn chế và khái quát được
những nét cơ bản về bức tranh ngành công nghiệp dầu khí.
- Đưa ra một số định hướng và giải pháp phát triển ngành nhằm
tương xứng với tiềm năng và thách thức hội nhập.
5. Cấu trúc của luận văn.
Đề tài gồm 3 phần: Mở đầu; nội dung; kết luận. Phần nội dung bao gồm
3 chương. Ngoài ra còn có một số phụ lục và danh mục các tài liệu

tham khảo.
7
Chương 1.
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP DẦU KHÍ VỚI TƯ
CÁCH LÀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRỌNG ĐIỂM.
1.1. Khái niệm và phân loại ngành công nghiệp.
1.1.1. Khái niệm.
Công nghiệp là bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân. Nó tạo ra
tư liệu sản xuất, tiến hành khai thác tài nguyên và chế biến chúng thành sản
phẩm phục vụ cho sản xuất và đời sống.
Theo quan niệm của Liên Hợp Quốc, công nghiệp là một tập hợp các
hoạt động sản xuất với những đặc điểm nhất định thông qua các quá trình
công nghệ để tạo ra sản phẩm. Hoạt động công nghiệp bao gồm cả 3 loại
hình: công nghiệp khai thác tài nguyên, công nghiệp chế biến và các dịch vụ
sản xuất theo sau nó.
Công nghiệp có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển nền kinh tế
quốc dân, đặc biệt trong sự nghiệp công nghiệp hoá của các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam.
1.1.2. Phân loại.
Ngành công nghiệp có nhiều cách phân loại khác nhau, dựa vào các
tiêu chí như: Công dụng kinh tế của sản phẩm, tính chất công nghệ, tính
chất tác động vào đối tượng lao động, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất…
trong đó căn cứ vào công dụng kinh tế của sản phẩm là cách phân loại quan
trọng và phổ biến nhất.
1.1.2.1. Phân loại ngành công nghiệp theo công dụng kinh tế của sản phẩm.
Chia công nghiệp thành 2 bộ phận lớn nhất, bao gồm:
- Công nghiệp nặng (nhóm A), gồm có các ngành sản xuất tư liệu sản
xuất bao gồm: Công nghiệp năng lượng; Công nghiệp luyện kim và
chế biến kim loại; Công nghiệp cơ khí; Công nghiệp hoá chất; Công
nghiệp sản xuất VLXD.

8
- Công nghiệp nhẹ (nhóm B), gồm các ngành công nghiệp sản xuất ra các
sản phẩm phục vụ mục đích tiêu dùng trực tiếp của con người: Công
nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm; Công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng.
1.1.2.2. Phân loại ngành công nghiệp theo tính đồng nhất của công dụng
sản phẩm hay căn cứ vào tính chất chung của nguyên liệu được sử dụng
hoặc dựa vào tính chất giống nhau của các quy trình công nghệ.
Chia toàn bộ nền công nghiệp thành các nhóm ngành, bao gồm:
Công nghiệp luyện kim; Công nghiệp gia công kim loại; Công nghiệp chế
biến gỗ; Công nghiệp sản xuất VLXD; Công nghiệp nhẹ; Công nghiệp thực
phẩm.
1.1.2.3. Phân loại ngành công nghiệp theo tính chất của sự tác động vào đối
tượng lao động.
Chia toàn bộ nền công nghiệp nói chung thành 3 nhóm ngành, bao gồm:
- Công nghiệp khai thác bao gồm: Công nghiệp khai thác than; Công
nghiệp khai thác dầu thô và khí tự nhiên; Công nghiệp khai thác quặng
kim loại; Công nghiệp khai thác đá và các mỏ khác.
- Công nghiệp chế biến: Công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm;
Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; Công nghiệp hoá chất; Công nghiệp
luyện kim; Công nghiệp chế tạo máy; Công nghiệp cơ khí; Công nghiệp
điện tử và tin học; Công nghiệp sản xuất VLXD.
- Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước: Công nghiệp
sản xuất và phân phối điện, khí đốt; Công nghiệp sản xuất và phân phối
nước.
1.1.2.4. Tương tự với các cơ sở phân loại công nghiệp trên (mục 1.1.2.3),
công nghiệp còn được chia thành 6 nhóm ngành chính, bao gồm:
- Công nghiệp khai thác: Công nghiệp khai thác than; Công nghiệp khai
thác dầu thô và khí tự nhiên; Công nghiệp khai thác quặng kim loại. Công
nghiệp khai thác đá và các mỏ khác.

9
- Công nghiệp cơ bản: Công nghiệp cơ khí; Công nghiệp luyện kim; Công
nghiệp điện tử và CNTT; Công nghiệp hoá chất.
- Công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ hải sản.
- Công nghiệp sản xuất hàng dệt, may, da, giầy.
- Công nghiệp sản xuất VLXD.
- Công nghiệp sản xuất và phân phối điện.
1.1.2.5. Phân loại ngành công nghiệp theo mức độ tiến bộ trong quy trình
sản xuất, trình độ trang thiết bị kỹ thuật cũng như giá trị sản phẩm làm ra
cuối cùng.
Chia toàn bộ nền công nghiệp nói chung thành 3 nhóm ngành, bao gồm:
- Ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất:
Là những ngành công nghiệp phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên
nhiên và công nghệ chủ yếu là của nước ngoài. Những ngành công nghiệp
này dễ dàng xây dựng, nhu cầu về vốn không lớn, ít sáng tạo, giá trị gia
tăng thấp nhưng có thể xuất khẩu thu được ngoại tệ, tạo công ăn việc làm,
tạo đà phát triển kinh tế và khai thác được các lợi thế của nguồn tài nguyên,
môi trường. Bao gồm: Công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm; Công
nghiệp sản xuất hàng dệt, may, da, giầy.
- Ngành công nghiệp thế hệ thứ hai:
Đây là những ngành công nghiệp đòi hỏi công nghệ cao hơn. Những
ngành công nghiệp được xây dựng trên cơ sở của những ngành công nghiệp
thế hệ thứ nhất, có mối liên hệ và tạo đầu vào cho ngành công nghiệp thế
hệ thứ nhất. Ngành công nghiệp thế hệ thứ hai có tác động lan toả và nâng
cao năng xuất lao động của nhiều ngành công nghiệp và kinh tế khác, là
mục tiêu quan trọng thu hút đầu tư của nước ngoài và phát huy được lợi thế
về nguồn nhân lực có chất lượng cao. Bao gồm: Công nghiệp dệt; Công
nghiệp cơ khí chế tạo; Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng cao cấp; Công
nghiệp điện tử, CNTT.
- Ngành công nghiệp thế hệ thứ ba:

10
Là những ngành công nghiệp đòi hỏi vốn lớn và công nghệ cao. Các
sản phẩm của các ngành công nghiệp này có nhu cầu lớn về số lượng và
ngày càng cao về chất lượng khi nền công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Bao
gồm: Công nghiệp hoá dầu; Công nghiệp hoá chất quy mô lớn; Công
nghiệp luyện kim…
1.1.2.6. Phân loại ngành công nghiệp trên cơ sở đánh giá khả năng cạnh
tranh và vai trò quan trọng của từng ngành công nghiệp theo mỗi thời kỳ,
giai đoạn phát triển kinh tế.
Người ta chia toàn bộ nền công nghiệp nói chung thành 3 nhóm
ngành, tạo ra cơ sở để xác định các ngành công nghiệp trọng điểm, mũi
nhọn được ưu tiên phát triển trong giai đoạn toàn cầu hoá. Chúng bao gồm:
- Nhóm ngành công nghiệp thứ nhất (nhóm ngành công nghiệp đang có lợi
thế cạnh tranh), chúng bao gồm: Công nghiệp sản xuất hàng dệt, may, da,
giầy; Công nghiệp nhựa; Tiểu thủ công nghiệp, đồ gỗ; Công nghiệp chế
biến lương thực, thực phẩm.
- Nhóm ngành công nghiệp thứ hai (nhóm ngành công nghiệp cơ sở hạ tầng
quan trọng), chúng bao gồm: Công nghiệp thép; Công nghiệp khai thác chế
biến; Công nghiệp hoá chất.
- Nhóm ngành công nghiệp thứ ba (nhóm ngành công nghiệp tiềm năng),
chúng bao gồm: Công nghiệp cơ khí chế tạo; Công nghiệp thiết bị điện tử,
viễn thông và CNTT; Công nghiệp sản phẩm từ công nghệ mới (nano, gen,
bionic...).
1.2 Ngành công nghiệp trọng điểm (CNTĐ).
1.2.1. Sự cần thiết phải lựa chọn ngành công nghiệp trọng điểm.
Bất kỳ một quốc gia nào khi phát triển kinh tế luôn cần có những
ngành tạo ra giá trị gia tăng cao, những ngành mà với một lượng đầu vào
sẵn có, có thể tạo ra giá trị đầu ra cao nhất trong một thời gian dài. Vì là dài
hạn, nên các ngành được lựa chọn phải đảm bảo sự hài hòa giữa bốn yếu tố:
hiệu quả, cân bằng, công bằng và sự tiến triển (cân bằng 4E). Hơn nữa, trong

11
tiến trình hội nhập và toàn cầu hóa nền kinh tế, đặc biệt trong điều kiện của
nền kinh tế quốc dân còn hạn chế, ngành công nghiệp phải tìm ra những sản
phẩm có ưu thế cạnh tranh để có chính sách khuyến khích phát triển phù hợp
với sự đầu tư thỏa đáng mới có thể đứng vững khi hội nhập vào kinh tế khu
vực và thế giới .
Trong xu thế hội nhập, lợi thế so sánh giữa các quốc gia vô cùng quan
trọng. Quốc gia nào nắm được lợi thế so sánh của nước mình sẽ là quốc gia có
nhiều điều kiện để giành được chiến thắng. Không một ngành công nghiệp ở
bất kỳ quốc gia nào lại có khả năng cạnh tranh trên tất cả các lĩnh vực. Vậy
nên, việc phải lựa chọn ngành công nghiệp trọng điểm là một yêu cầu thực tế.
Ngành CNTĐ không phải là ngành bất biến, mà có thể thay đổi theo
từng giai đoạn khác nhau. Nó biểu thị sự năng động, thích ứng trong từng
hoàn cảnh, giai đoạn nhất định.
Bảng 1.1: Thứ tự ưu tiên của ngành CNTĐ Việt Nam
(giai đoạn 2006 – 2010)
TT
Các ngành CNTĐ
ưu tiên phát triển
Thứ tự ưu tiên phát triển qua các giai đoạn
2001- 2006 2006 – 2010
1 Chế biến nông, lâm, thuỷ sản 1 1
2 Khai thác mỏ 2 2
3 Dệt may, da giầy 3 4
4 Công nghiệp cơ bản (*) 4 3
5 SX và PP điện, ga, nước 5 5
6 SX vật liệu xây dựng 6 6
Nguồn: Bộ Công Thương.
(*) Gồm Điện tử và CNTT, Cơ khí, Hoá chất, Luyện kim.
1.2.2. Quan niệm về ngành công nghiệp trọng điểm.

Có nhiều quan niệm về ngành CNTĐ.
- Quan niệm thứ nhất về ngành CNTĐ.
Ngành CNTĐ là ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong trong
cơ cấu công nghiệp, có thế mạmh lâu dài, mang lại hiệu quả kinh tế cao và
có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của các ngành kinh tế khác.
12
- Quan niệm thứ hai về ngành CNTĐ.
Ngành CNTĐ là ngành công nghiệp có khả năng cạnh tranh, chiếm
tỷ trọng lớn tại thị trường trong nước và quốc tế, có khả năng tạo hiệu ứng
lan toả, dẫn dắt và kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp khác,
các ngành công nghiệp phụ trợ và các ngành kinh tế khác.
- Tổng hợp các quan niệm về ngành CNTĐ.
Tập hợp các quan niệm về ngành CNTĐ có thể thấy rằng: Ngành
CNTĐ là ngành công nghiệp có tốc độ phát triển cao, quy mô sản xuất
ngày càng phát triển, có công nghệ kỹ thuật hiện đại, có sản phẩm thâm
nhập nhiều trên thị trường thế giới, đóng góp phần lớn cho ngân sách quốc
gia, có khả năng sử dụng tay nghề cao của người lao động và cũng có thể
dựa vào vốn đầu tư từ nước ngoài để phát triển sản xuất và ứng dụng các
tiến bộ của khoa học, công nghệ hiện đại.
1.2.3. Các tiêu chí xây dựng ngành công nghiệp trọng điểm.
Xác định ngành công nghiệp trọng điểm phải theo hướng khai thác triệt
để các lợi thế của nền kinh tế, nhằm chủ động tham gia vào tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực. Ngành công nghiệp trọng điểm là ngành nâng cao
hiệu quả kinh tế và xã hội của các hoạt động đối nội và đối ngoại, phấn đấu
không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Trong quá trình xác định ngành công nghiệp trọng điểm phải tính đến
yêu cầu phát triển bền vững, lâu dài, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ
môi trường sinh thái, đảm bảo vững chắc an ninh quốc phòng. Các tiêu chí
bao gồm:
- Là những ngành có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân,

sản phẩm của ngành này có vị trí chi phối nhiều ngành kinh tế quốc dân
hoặc đáp ứng các nhu cầu đặc biệt thiết yếu với quốc kế dân sinh. Sự phát
triển của ngành này sẽ là nền tảng và thúc đẩy sự phát triển của các ngành
khác theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành công nghiệp.
13
- Là những ngành có tốc độ tăng trưởng vượt trội so với các ngành
khác, tạo nguồn thu nhập lớn cho ngân sách Nhà nước, do đó có vị trí quan
trọng thể hiện qua tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế cũng như trong nguồn thu
ngân sách.
- Là những ngành khai thác các thế mạnh đặc biệt của đất nước, đi
vào các mũi nhọn của tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, phù hợp với xu
thế thời đại. Việc phát triển ngành này sẽ tạo vị thế vững chắc, có khả năng
cạnh tranh cao mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho đất nước và đóng
góp tích cực vào quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
- Là những ngành hướng vào xuất khẩu, thay thế nhập khẩu tạo sức
cạnh tranh cho các sản phẩm trong nước ra thị trường thế giới.
1.2.4. Đặc điểm của ngành ngành công nghiệp trọng điểm.
Ngành công nghiệp trọng điểm có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, ngành CNTĐ là những ngành có thế mạnh phát triển lâu
dài. Đó là các thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên (than, dầu khí, thủy
năng) đối với ngành công nghiệp năng lượng, nguồn nguyên liệu và lao
động tại chỗ dồi dào, thị trường tiêu thụ đối với công nghiệp chế biến nông
- lâm – thủy sản, công nghiệp sản xuất tiêu dùng… hay các ngành có ưu thế
về kỹ thuật như: công nghiệp điện, tin học, cơ khí chế tạo, các ngành công
nghiệp cơ bản như hóa chất, phân bón vật liệu xây dựng để phục vụ công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, CNTĐ là những ngành có hiệu quả cao so với ngành khác.
Hiệu quả ở đây được hiểu là hiệu quả cả về mặt kinh tế và xã hội. Theo
quan điểm phát triển bền vững, các ngành công nghiệp trọng điểm phải
đảm bảo sự phát triển toàn diện của ba lĩnh vực: kinh tế, xã hội và môi

trường. Vì thế, xem xét hiệu quả của ngành trọng điểm cần đứng trên quan
điểm tăng trưởng cao, lâu bền, dài hạn.
Thứ ba, các ngành công nghiệp trọng điểm có khả năng lan tỏa, tác
động đến ngành kinh tế khác. Đây là các ngành có điều kiện phát triển, có
14
thị trường rộng lớn và có khả năng dẫn đầu, kéo theo sự phát triển của các
ngành khác.
Thứ tư, các ngành CNTĐ có khả năng tạo ra một thế đứng và góp
phần tiến đến xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ. Bên cạnh các ngành
công nghiệp không thể thiếu để trang bị cho nền kinh tế, phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, CNTĐ phải có cả các ngành có khả
năng cạnh tranh, được biết đến như một thế mạnh của đất nước.
Thứ năm, ngành CNTĐ có thể đạt tới trình độ tiên tiến hoặc vào
hàng tiên tiến nhất trên thế giới trong khoảng thời gian không xa. Đặc điểm
này thể hiện khả năng cập nhật, chuyển giao công nghệ quốc tế, đưa ngành
trọng điểm thành ngành có trình độ công nghệ, quản lý ngang với các nước
tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, trong khoảng thời gian ngắn nhất so
với các ngành khác.
1.3. Ngành công nghiệp trọng điểm dầu khí.
1.3.1. Các quan niệm về dầu khí.
Trước hết, ngành công nghiệp dầu khí là một ngành mang tính tổng
hợp và đa dạng cao. Chuỗi hoạt động của công nghiệp dầu khí bao gồm:
Khâu thượng nguồn (còn gọi là khâu đầu), khâu trung nguồn (khâu giữa) và
khâu hạ nguồn (khâu sau).
- Khâu thượng nguồn: bao gồm các hoạt động tìm kiến, thăm dò,
khai thác dầu khí. Khâu này sử dụng tổng hợp tri thức và công nghệ của
các chuyên ngành như địa chất, địa vật lý, địa hoá, khoáng sản, khoan khai
thác…
- Khâu trung nguồn: bao gồm các hoạt động vận chuyển, tàng trữ dầu
khí. Khâu này liên quan đến các công nghệ đường ống, tàu chứa, xe chứa,

bồn chứa, cầu cảng…
- Khâu hạ nguồn: bao gồm các hoạt động xử lý, chế biến, kinh
doanh và phân phối các sản phẩm dầu khí.
* Theo Luật Dầu khí 1993:
15
- "Dầu khí" là dầu thô, khí thiên nhiên và hydrocarbon ở thể khí,
lỏng, rắn hoặc nửa rắn trong trạng thái tự nhiên, kể cả sulphur và các chất
tương tự khác kèm theo hydrocarbon nhưng không kể than, đá phiến sét,
bitum hoặc các khoáng sản khác có thể chiết xuất được dầu.
- "Dầu thô" là hydrocarbon ở thể lỏng trong trạng thái tự nhiên,
asphalt, ozokerite và hydrocarbon lỏng thu được từ khí thiên nhiên bằng
phương pháp ngưng tụ hoặc chiết xuất.
- "Khí thiên nhiên" là toàn bộ hydrocarbon ở thể khí, khai thác từ
giếng khoan, bao gồm cả khí ẩm, khí khô, khí đầu giếng khoan và khí còn
lại sau khi chiết xuất hydrocarbon lỏng từ khí ẩm.
- "Hoạt động dầu khí" là hoạt động tìm kiếm thăm dò, phát triển mỏ
và khai thác dầu khí, kể cả các hoạt động phục vụ trực tiếp cho các hoạt
động này.
- "Hợp đồng dầu khí" là văn bản ký kết giữa Tập đoàn dầu khí Việt
Nam với tổ chức, cá nhân để tiến hành hoạt động dầu khí.
- Khai thác Dầu - Khí: Đó là việc sử dụng các biện pháp khoa học, kĩ
thuật và thiết bị thích hợp để lấy dầu và khí thiên nhiên (có khi kèm theo
dầu) từ trong lòng đất. Sau đó, thu gom chúng lại và sơ chế, tức là tách
chúng ra khỏi nước và các hỗn hợp rắn. Các phương pháp khai thác dầu khí
hiện nay là: dùng giếng khoan phun (dưới tác dụng của áp lực vỉa hay khí
nở thoát ra từ vỉa, dầu tự nhiên được phun lên theo giếng khoan); đẩy dầu
lên bằng không khí nén hay bằng bơm sâu. Hiện nay, ngành dầu khí đã áp
dụng rộng rãi các biện pháp đặc biệt để tăng mức sản xuất của giếng khoan
và tăng mức lấy dầu lên như: bơm nước hay không khí vào vỉa dầu; phá vỡ
vỉa bằng thuỷ lực; mở mũi giếng khoan; xử lí đáy giếng khoan bằng

phương pháp lí hoá; khai thác dầu khí thứ cấp (khai thác vét). Nếu vỉa dầu
nằm không sâu và xét thấy có lợi kinh tế thì khai thác dầu khí bằng hầm lò.
16
1.3.2. Vai trò của dầu khí đối với nền kinh tế Việt Nam.
Việt Nam là nước có tiềm năng dầu khí. Nguồn lợi nhuận do khai thác
tài nguyên dầu khí mang lại rất lớn. Dầu khí còn được gọi là “vàng đen”,
vai trò của dầu khí đối với nền kinh tế nước ta thể hiện qua nội dung sau:
1.3.2.1. Thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngành công nghiệp dầu khí
Việt Nam là tiến tới bảo đảm an toàn về năng lượng dưới dạng nhiên
liệu như xăng, dầu, khí hoá lỏng phục vụ đời sống xã hội của nhân dân
và thoả mãn nhu cầu về nhiên liệu cho sản xuất công nghiệp. Sau đó,
dầu khí là nguyên liệu ban đầu cho công nghiệp hoá dầu, tạo ra các sản
phẩm cho công nghiệp sau hoá dầu.
Từ xa xưa, củi, than đóng vai trò là nguồn nhiên liệu chính phục
vụ đời sống xã hội của người dân Việt Nam. Quá trình phát triển của
lịch sử, đánh dấu một bước tiến mới khi con người tìm thấy và khai
thác nguồn tài nguyên dầu khí. Từ đó, xăng dầu được đưa vào đời sống
sinh hoạt của con người. Các chất đốt như củi, than đang dần được thay
thế bởi các nguồn nhiên liệu như xăng, dầu, khí đốt và khí hoá lỏng.
Khí hoá lỏng được sử dụng trên thế giới từ rất lâu và là nguồn nhiên
liệu sạch thể hiện sự phát triển văn minh của loài người. Lịch sử phát
triển công nghiệp cũng gắn liền với sự ra đời và phát triển của ngành
công nghiệp và khai thác chế biến dầu khí. Dầu mỏ và khí thiên nhiên
được chế biến thành nhiên liệu chủ yếu dưới dạng cung cấp nhiệt năng
phục vụ cho sản xuất công nghiệp. Ngày nay, khí thiên nhiên khai thác
còn được sử dụng làm nhiên liệu chạy tuốc bin khí cho nhà máy điện.
Bên cạnh đó, nguồn nhiên liệu dầu cũng được sử dụng cho việc vận
hành các máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp làm tăng năng suất
lao động thúc đẩy quá trình hiện đại hoá nông nghiệp.

17
Mỗi quốc gia có nhu cầu về nhiên liệu khác nhau. Mức độ sử
dụng nhiên liệu dầu khí không chỉ đơn thuần là thoả mãn nhu cầu tiêu
dùng thường nhật mà nó còn là một chỉ tiêu để thể hiện sự văn minh
của con người. Một trong những chỉ tiêu thể hiện sự phát triển kinh tế
xã hội của một quốc gia là mức tiêu thụ năng lượng bình quân đầu
người/năm (như điện, than, dầu khí). Với một đất nước hơn 85 triệu dân
thì nhu cầu về các sản phẩm dầu khí là rất lớn. Dự báo trong thời gian
tới, ngành dầu khí sẽ cung cấp nhiều nhiên liệu hơn nữa thoả mãn nhu
cầu tiêu thụ ngày càng tăng của thị trường trong nước xứng đáng với vị
trí quan trọng của mình. Riêng năm 2006, Việt Nam tiêu thụ khoảng 19
triệu tấn xăng dầu, gấp 2 lần nhu cầu tiêu thụ năm 2000. Như vậy, để
góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngành công nghiệp dầu khí Việt
Nam là thoả mãn nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng cho đất nước.
1.3.2.2. Cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp.
Dầu khí là nguồn nguyên liệu ban đầu cho các nhà máy lọc, hoá
dầu để tạo ra các sản phẩm hoá dầu. Các sản phẩm hoá dầu đó lại chính
là nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp chế biến như công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, công nghiệp sợi, công nghiệp hoá chất.
Các ngành công nghiệp này cung cấp những sản phẩm công nghiệp
quan trọng như: nhựa PVC (PolyVinyl Clorua, nhựa PP
(PolyPropylene), PS (PolyStyrene), các sản phẩm sợi bông hoá học,
phân bón... Sự may mắn có được nguồn tài nguyên dầu khí cho phép
Việt Nam có thể tăng trưởng kinh tế trong điều kiện ổn định về thị
trường sản phẩm này. Các quốc gia không có nguồn tài nguyên sẽ phải
mất một khoản lớn ngoại tệ để nhập nguyên liệu có nguồn gốc từ dầu khí
và không thể chủ động do sự lên xuống của giá cả thị trường trên thế giới.
18
Như vậy, dầu khí là cơ sở để phát triển một số ngành công nghiệp

chế biến các sản phẩm dầu khí. Hiện tại, ở nước ta các nhà máy lọc dầu
chưa đi vào hoạt động, nên các sản phẩm hoá dầu đều phải nhập 100% từ
nước ngoài để làm nguyên liệu cho công nghiệp sau hoá dầu. Theo lộ trình,
tháng 02/2009 nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất sẽ đi vào hoạt động với
công suất thiết kế 6,5 triệu tấn dầu thô/năm phục vụ thị trường trong nước
và chắc chắn sẽ giảm lượng sản phẩm hoá dầu nhập khẩu.
Trong thời điểm hiện nay, ở nước ta trong cơ cấu sản lượng của ngành
điện lực đang chuyển dần từ thuỷ điện sang Diezel – TBK. Nhà máy nhiệt
điện Bà Rịa tiêu thụ 1 tỷ m
3
khí/năm lấy từ mỏ Bạch Hổ. Dự kiến nhà máy
nhiệt điện Phú Mỹ tiêu thụ khoảng 3 tỷ m
3
khí/năm sẽ chính thức hoạt động
vào năm 2008.
1.3.2.3. Hoạt động xuất khẩu hàng thô đem lại ngoại tệ lớn.
Trong giai đoạn đầu của quá trình công ngiệp hoá và hiện đại hoá
đất nước, công nghiệp dầu khí đóng vai trò là ngành tích luỹ tư bản cho
quá trình phát triển kinh tế đất nước. Thiên nhiên đã ưu đãi cho Việt
Nam có nguồn tài nguyên dầu khí đầy tiềm năng. Đây là một thuận lợi
lớn của nước ta trong việc tích luỹ vốn ban đầu cho công nghiệp hoá.
Ngay sau khi Luật đầu tư nước ngoài ban hành (tháng 12/1987), Việt
Nam đã thu hút ngày càng nhiều công ty dầu khí nước ngoài bỏ vốn đầu
tư vào lĩnh vực tìm kiếm thăm dò. Đó là cơ hội cho Việt Nam rút ngắn
quá trình tích luỹ vốn bằng cách khai thác các mỏ dầu và khí thiên
nhiên để xuất khẩu.
Thời gian qua, ngành dầu khí đã xuất khẩu khối lượng lớn dầu
thô đáng kể sang các nước Mỹ, Nhật, Singapo, Hàn Quốc, Úc, Trung
Quốc... và thu về một lượng ngoại tệ đáng kể. Dầu khí đã vươn lên
thành một ngành xuất khẩu chủ lực, đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu

của cả nước. Việc khai thác được dầu ở mỏ Bạch Hổ (1986) và ngày
19
21- 4 - 1987 lần đầu tiên Việt Nam bán dầu thô ra thị trường thế giới,
kể từ đó nhiều năm sau dầu khí luôn là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của
Việt Nam, chiếm tỷ lệ 20 - 30% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước.
Điều này còn cho thấy dầu thô đóng vai trò quan trọng trong cán cân
xuất nhập khẩu. Ngoại tệ thu được từ xuất khẩu dầu thô và các sản
phẩm khác của các ngành dầu khí sẽ được dùng để nhập khẩu máy móc,
trang thiết bị cơ bản và những sản phẩm mà trong nước chưa sản xuất
được.
1.3.2.4. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế.
Với vai trò là ngành cung cấp sản phẩm xuất khẩu, trong thời
gian qua, ngành dầu khí đã thu hút được một lượng vốn đầu tư đáng kể
trong khâu tìm kiếm thăm dò, gia tăng sản lượng dầu thô khai thác và
xuất khẩu, góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự phát triển
ngành dầu khí có tác động tới quá trình chuyển dịch cơ cấu nội bộ
ngành công nghiệp. Các phát hiện mới về mỏ dầu khí là cơ sở để gia
tăng sản lượng khai thác trong tương lai. Từ đó, công nghiệp khai thác
dầu khí phát triển sẽ là động lực thúc đẩy các mối liên kết xuôi: công
nghiệp lọc dầu, hoá dầu, công nghiệp dệt, công nghiệp sản xuất
Polyme, nhựa đường... Trong tương lai, với bốn nhà máy lọc dầu, cùng
với nhiều đường ống dẫn khí và các nhà máy hoá chất dùng nguyên liệu
khí theo kế hoạch, hy vọng đến năm 2010, sản lượng dầu chế biến của
Việt Nam sẽ đạt 10 - 12 triệu tấn/ngày, NH
3
đạt 1000 tấn/ngày. Đó là
bước đầu cho việc hình thành một khu tổ hợp công nghiệp hoá dầu ở
Việt Nam đáp ứng nhu cầu của thị trường nội địa về các sản phẩm lọc
hoá dầu và xuất khẩu. Tiếp đó việc hình thành các nhà máy sản xuất
nhựa đường, PVC, PP, DOP, methanol,... sẽ cung cấp nguyên, nhiên

liệu phục vụ cho sự phát triển các ngành kinh tế khác. Điều đó thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp cũng như cơ cấu ngành kinh tế
quốc gia nói chung.
20
Với sự kiện khai thác tấn dầu quy đổi thứ 200 triệu (12/06/2005),
ngành dầu khí Việt Nam đã đánh dấu những đóng góp đáng kể vào thành
tựu kinh tế chung của cả nước trong công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại
hoá đất nước.
Trong giai đoạn đầu, các nước đang phát triển thường quan tâm đến
việc xuất khẩu sản phẩm thô. Đó là những sản phẩm có được từ nguồn tài
nguyên chưa qua chế biến hoặc ở dạng sơ chế. Ở Việt Nam, dầu thô đứng
đầu trong 08 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam dưới dạng sản
phẩm thô gồm có: dầu thô, gạo, hải sản, cà phê, hạt điều, cao su, than đá, tơ
tằm. Những sản phẩm này chiếm 60 - 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, chỉ
riêng dầu thô xuất khẩu đã chiếm tới 17,5%.
1.3.3. Đặc điểm của ngành dầu khí.
1.3.3.1. Là ngành công nghiệp tiền đề.
Cuộc cách mạng công nghiệp thế giới bắt đầu nổ ra vào cuối thế
kỷ XVIII, nhưng chỉ thực sự mạnh khi ngành dầu khí ra đời và phát
triển. Dầu khí chiếm tỷ trọng lớn nhất (61 – 62%), so với các loại nhiên
liệu khác trong cung ứng năng lượng sơ cấp của thế giới. Điều này, có
nghĩa phát triển dầu khí chính là phải phát triển năng lượng quốc gia,
đồng nghĩa với công nghiệp hóa đất nước. Mắt xích đầu tiên để thực
hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa là phát triển năng lượng và hệ
thống cơ sở hạ tầng giao thông. Ngành công nghiệp dầu khí phát triển
thúc đẩy ngành công nghiệp khai khoáng, công nghiệp luyện kim, cơ
khí chế tạo phát triển và sau đó đến lượt chúng thúc đẩy các ngành công
nghiệp còn lại phát triển. Sự tiêu thụ năng lượng lớn, chứng tỏ nền kinh
tế thế giới càng phát triển và đồng nghĩa với nhu cầu dầu khí ngày càng
tăng. Các khu vực, quốc gia tiêu thụ dầu khí chính trên thế giới là các

quốc gia công nghiệp phát triển như: Mỹ; Nhật Bản và Tây Âu... Ngày
nay, 50% nhu cầu mỏ trên thế giới được dùng làm nhiên liệu cho ngành
Giao thông vận tải – ngành lưu thông huyết mạch của nền kinh tế trong
21
nước và giao lưu quốc tế. Nó cung ứng nguyên vật liệu cho sản xuất và
phân phối sản phẩm của nền sản xuất.
Để thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa, Nhà nước Việt
Nam bắt tay ngay vào 2 việc cần làm trước tiên là phát triển nguồn
nhân lực và phát triển năng lượng. Dầu khí có vai trò hàng đầu trong
phát triển năng lượng. Ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam quyết tâm
nâng tỷ trọng dầu khí trong tổng nhu cầu năng lượng lên từ 49% (1995)
lên 60% (2020) và về khối lượng tăng lên gấp gần 8 lần. Đồng thời
ngành dầu khí cũng chú trọng phát triển hạ nguồn để cung cấp các sản
phẩm và phát triển nguyên liệu đáp ứng nhu cầu phát triển của các
ngành công nghiệp khác như: Cầu đường, giao thông vận tải, cơ khí,
dệt may, hóa chất, nông nghiệp, y, dược, điện… và hầu hết các ngành
công nghiệp khác, bởi lẽ hơn 70 sản phẩm tiêu dùng trong cuộc sống
đều có nguồn gốc từ dầu mỏ.
Chính vì dầu khí rất quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế
xã hội nên tất cả các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia
công nghiệp phát triển đều thực hiện chính sách an toàn năng lượng và
xem đây là sự đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
1.3.3.2.Dầu khí là nguồn tài nguyên quý không tái tạo được.
Trên thế giới, tài nguyên dầu khí được phát hiện từ lâu nhưng
mới bắt đầu khai thác mang tính công nghiệp từ nửa cuối thế kỷ 19.
Đây là nguồn tài nguyên không có khả năng tái tạo. Dầu khí được tạo ra
nhờ các quá trình biến đổi địa chất liên quan đến sự hình thành, chuyển
hoá, di chuyển và tích tụ các vật chất hữu cơ (hydrocacbon), và trong
một khoảng thời gian rất dài, từ 1 triệu đến 100 triệu năm.
Các mỏ dầu khí phân bố không đều giữa các vùng khác nhau

trên trái đất. Điều này phụ thuộc vào cấu tạo địa chất cũng như khí hậu
22
của từng vùng. Những mỏ dầu lớn nhất thế giới tập trung ở các nước
Trung Đông (Arập Xêút, Co-oét, Iraq,...), ở Vênêzuêla, Nga, Mỹ.
Dầu mỏ và khí thiên nhiên là nguồn tài nguyên năng lượng quý
thể hiện có giá trị kinh tế cao của nó. Đây là nguồn năng lượng mới có
những thuộc tính vượt trội so với các nguồn năng lượng khác. Dầu mỏ
được chế biến thành các dạng năng lượng khác như xăng, dầu… đã
được sử dụng rộng rãi trong sản xuất của đời sống. Hơn nữa các sản
phẩm chế biến từ dầu mỏ lại là nguyên liệu cho các ngành công nghiệp
hoá chất và công nghiệp hàng tiêu dùng. Khí thiên nhiên ngày càng
được ưa chuộng sử dụng như một loại năng lượng sạch có khả năng
thay thế các loại chất đốt như than, dầu hoả. Ở Việt Nam, tuy là nguồn
tài nguyên mới được khai thác nhưng dầu khí đã có vị trí quan trọng
trong phát triển kinh tế xã hội. Hàng năm, lượng dầu khí xuất khẩu đã
đem lại nguồn ngoại tệ đáng kể cho nhà nước.
Trữ lượng dầu khí trên thế giới là có hạn, cạn kiệt dần theo tốc
độ khai thác. Loài người chưa tìm ra nguồn năng lượng thay thế nên
dầu khí càng trở nên quý giá hơn khi trữ lượng ngày càng giảm. Theo
tính toán dự báo thì với nhịp độ đầu tư khai thác dầu khí như hiện nay,
trữ lượng của những quốc gia đã tìm thấy dầu tính đến cuối thế kỷ XX
sẽ chỉ đủ khai thác trong vòng 50 năm tới. Nhiều nước ở Đông Nam Á
hiện nay đang là nước xuất khẩu dầu mỏ như Inđônêxia, Malayxia sẽ
trở thành những nước nhập khẩu vào những năm sau 2010.
1.3.3.3. Tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí là hoạt động có nhiều rủi
ro mang tính mạo hiểm kinh tế.
Trong lĩnh vực tìm kiếm thăm dò dầu khí, độ rủi ro cao trước hết phụ
thuộc vào điều kiện địa chất. Xác suất thành công trung bình trong tìm
kiếm thăm dò dầu khí trên thế giới hiện nay rất thấp, chỉ khoảng 10% (Việt
Nam là 20%). Lợi nhuận từ tìm kiếm chỉ nhận từ 10 - 20%, nhưng rủi ro

23
chịu 100%. Ngoài những rủi ro về địa chất ảnh hưởng đến xác suất phát
hiện mỏ, rủi ro về kỹ thuật cũng rất lớn. Việc xây dựng và vận hành các đề
án dầu khí luôn đi đôi với nguy cơ cháy nổ làm tổn hại người, của và gây ô
nhiễm môi trường sinh thái. Các chi phí cho những rủi ro này khó mà
tưởng tượng được. Cách đây mấy năm, công ty Mobil (Mỹ) đã phải bồi
thường tới 5 tỷ USD vì gây ô nhiễm môi trường. Chính vì độ rủi ro cao mà
các nhà đầu tư trở nên mạo hiểm khi bỏ vốn lớn vào lĩnh vực này.
1.3.3.4. Ngành công nghiệp dầu khí đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn mà chủ yếu là
ngoại tệ mạnh.
Quy mô vốn đầu tư lớn là đặc trưng của ngành dầu khí và là sự
khác biệt so với các ngành công nghiệp khác. Mỗi lĩnh vực hoạt động
của ngành dầu khí lại đòi hỏi lượng vốn đầu tư phù hợp để đạt được
hiệu quả kinh tế cao.
Trong lĩnh vực tìm kiếm thăm dò, mỗi công ty dầu khí nước ngoài
cam kết chi tối thiểu trên phạm vi 1 - 2 lô diện tích hợp đồng lên tới 45
- 50 triệu USD trong thời gian từ 3 - 5 năm. Các chi phí thực hiện trong
khâu này rất lớn, một giếng khoan thăm dò trung bình từ 7 - 10 triệu
USD. Ở Việt Nam đã có lúc chi phí cho một giếng khoan thăm dò lên
tới 40 triệu USD.
Như vậy, với xác suất khoảng 20% để tìm thấy một trữ lượng dầu
khí thương mại, ta phải chi hàng trăm triệu USD. Theo tính toán sơ bộ
và dựa trên cơ sở phân tích số liệu thống kê trước đây cho thấy để gia
tăng 1 triệu tấn dầu trữ lượng xác minh ta cần đầu tư khoảng 5 triệu
USD. Các chuyên gia cho rằng để có sản lượng khai thác 20 triệu tấn
dầu quy đổi hàng năm thì mỗi năm ta phải đầu tư khoảng 150 triệu
USD cho tìm kiếm thăm dò để phát hiện những mỏ dầu khí mới.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là chi phí ban đầu và nếu có phát hiện
thương mại thì giai đoạn khai thác tiếp theo sẽ kéo dài ít nhất là 20 năm
24

với số vốn đầu tư còn lớn hơn nữa. Chi phí phát triển cho một mỏ để
đưa vào khai thác cực kỳ tốn kém đòi hỏi cường độ đầu tư nhiều trăm
triệu trong khoảng 3 - 4 năm.
Có thể lướt qua vài con số để thấy chi phí cao như thế nào: phát
triển mỏ Bạch Hổ trong 5 năm đã cho tới 1,5 tỷ USD. Đề án phát triển
mỏ khí Lan Tây - Lan Đỏ trong 3 năm để đưa vào khai thác cũng cần
1,5 tỷ USD. Xí nghiệp liên doanh dầu khí Vietsovpetro cũng cần phải
chi phí 200 - 250 triệu USD hàng năm để đảm bảo sản lượng khai thác
15 triệu tấn dầu/năm như hiện nay ...
Công tác vận chuyển dầu khí vào bờ cũng đòi hỏi lượng vốn đầu
tư lớn vì hầu hết các mỏ dầu khí của ta nằm rất xa bờ. Quá trình vận
chuyển dầu khí vào bờ phải sử dụng hệ thống chuyên dụng, để thu gom
và vận chuyển khí cần các phương tiện kỹ thuật hiện đại như giàn nén
trung tâm cỡ lớn với vốn đầu tư trên 100 triệu USD. Một đề án xây
dựng công trình đường ống dẫn khí từ mỏ vào đất liền cần một lượng
vốn đầu tư trung bình 1 triệu USD/km đường ống. Từng công trình nhỏ,
từng hạng mục đòi hỏi những khoản đầu tư khổng lồ nếu đem so sánh
với các ngành khác: giàn nén, khí trung tâm tại Bạch Hổ cần 130 triệu
USD, ống dẫn khí từ mỏ Bạch Hổ vào bờ cần đầu tư 80 triệu USD.
Lĩnh vực chế biến dầu khí cũng cần một lượng vốn đầu tư ban
đầu rất lớn bằng ngoại tệ nhưng thời gian thu hồi vốn rất dài. Dự án xây
dựng nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất cần vốn đầu tư ban đầu lên tới
2,7 tỷ USD cho công suất 6,5 triệu tấn dầu thô/năm. Các lĩnh vực hoá
dầu, sản xuất dầu mỡ nhờn, chất dẻo, phân bón và các sản phẩm dầu khí
khác cũng cần nhiều vốn đầu tư. Thêm vào đó, lĩnh vực dịch vụ dầu khí
cũng có nhu cầu về vốn đầu tư khoảng 30 - 40 triệu USD mỗi năm.
1.3.3.5. Ngành công nghiệp dầu khí đòi hỏi áp dụng công nghệ cao.
25

×