Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Nhu cầu tham vấn tâm lý của phụ nữ đang sống cùng chồng bạo hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.93 KB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Hồ Lê Minh Đức

NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÝ CỦA PHỤ
NỮ ĐANG SỐNG CÙNG CHỒNG BẠO HÀNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Hồ Lê Minh Đức

NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÝ CỦA PHỤ
NỮ ĐANG SỐNG CÙNG CHỒNG BẠO HÀNH
Chuyên ngành: Tâm Lý học
Mã số: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS NGUYỄN THỊ TỨ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013



LỜI CAM ĐOAN
Người nghiên cứu xin cam đoan cơng trình nghiên cứu này do chính tơi thực hiện. Các số
liệu trong luận văn này là có thực. Nếu có vi phạm người nghiên cứu xin chịu mọi trách nhiệm theo
qui định của Phòng Sau Đại Học – Trường Đại học sư phạm TP. HCM.

1


LỜI TRI ÂN

Với tình cảm chân thành tơi xin tri ân
Các thầy cô trong Ban Giám Hiệu trường Đại học sư phạm TP. HCM đã tạo điều kiện cho
tôi được tham dự học chương trình cao học Tâm lý giáo dục tại trường.
Chân thành cảm ơn các thầy ở Phòng Sau Đại học đã tổ chức cho tơi được hồn tất thành
cơng khóa học trong thời gian hai năm qua.
Tơi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong khoa Tâm lý giáo dục trường Đại học sư phạm
TP. HCM đã tận tình dạy dỗ và truyền đạt cho tơi những tri thức q báu, để tơi có thể vận dụng
vào đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Thị Tứ đã giành nhiều thời gian tận tình hướng
dẫn tơi trong suốt q trình làm đề tài.
Chân thành cảm ơn Thầy Phạm Thanh Vân, chủ nhiệm chương trình Tình Thân, cảm ơn các
chị em trong dự án Bình Minh – Dự án dành cho Phụ nữ bị bạo hành gia đình tại Tp. HCM và
những chị em khác đang có hồn cảnh bị bạo hành tại một số quận trong TP.HCM đã nhiệt tình
giúp đỡ tơi trong quá trình thực hiện nghiên cứu.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè ln động viên, khuyến khích tơi để hồn thành đề tài.
Người nghiên cứu
Hồ Lê Minh Đức

2



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI TRI ÂN ................................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................ 5
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................6
2. Mục đích nghiên cứu: .....................................................................................................7
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ..............................................................................7
4. Giả thuyết nghiên cứu ....................................................................................................7
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................................7
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài ..................................................................7
7. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................................8

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÝ CỦA
PHỤ NỮ ĐANG SỐNG CÙNG CHỒNG BẠO HÀNH......................................... 10
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................10
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi ..............................................................10
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu ở Việt Nam ................................................................13
1.2. Một số khái niệm cơ bản có liên quan đến đề tài: ..................................................16
1.2.1. Nhu cầu .................................................................................................................16
1.2.2. Tham vấn tâm lý ...................................................................................................21
1.2.3. Nhu cầu tham vấn tâm lý ......................................................................................28
1.2.4. Khái niệm bạo lực – bạo hành ..............................................................................30
1.2.5. Khái niệm người chồng bạo hành .........................................................................35
1.2.6. Phụ nữ có chồng bạo hành ....................................................................................38
1.3 Lý luận về nhu cầu tham vấn tâm lý của PN đang sống cùng chồng BH. ............40
1.3.1. Định nghĩa .............................................................................................................40

1.3.2. Đặc điểm nhu cầu tham vấn tâm lý của phụ nữ có chồng bạo hành: ...................41
1.3.3. Nội dung nhu cầu TV của phụ nữ đang sống cùng chồng bạo hành. ...................42
1.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến NC TVTL của PN đang sống cùng chồng BH...............47
1.3.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu sử dụng các dịch vụ THVTL của PN đang
sống cùng chồng BH. ......................................................................................................50
3


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÝ CỦA PHỤ NỮ
ĐANG SỐNG CÙNG CHỒNG BẠO HÀNH. ........................................................ 52
2.1. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu. .....................................................................52
2.1.1. Tổ chức nghiên cứu lý luận. .................................................................................52
2.1.2. Tổ chức nghiên cứu thực trạng .............................................................................52
2.1.3. Nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu ........................................................................53
2.1.4. Các phương pháp nghiên cứu. ..............................................................................53
2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng ................................................................................55
2.2.1. Thực trạng các hình thức bạo hành. ......................................................................55
2.2.2. Nhận thức của phụ nữ đang sống cùng chồng bạo hành về vấn đề BH ...............61
2.2.3. Cảm xúc của phụ nữ khi bị chồng bạo hành. ........................................................62
2.2.4. Những hành động phản ứng của phụ nữ khi bị chồng bạo hành. .........................63
2.2.5. Những nguyên nhân ảnh hưởng dẫn đến việc BH của chồng đối với vợ.................64
2.2.6. Nhu cầu tham vấn tâm lý của phụ nữ đang sống cùng chồng BH ........................66
2.2.7. Nhu cầu sử dụng các dịch vụ Tham vấn tâm lý của PN có chồng BH ...............68
2.2.8. Những khó khăn của PH đang sống cùng chồng BH khi sử dụng các dịch vụ
THVTL ...........................................................................................................................71
2.3. Một số biện pháp đáp ứng nhu cầu TVTL của phụ nữ đang sống cùng chồng bạo
hành. ...................................................................................................................................73
2.3.1. Cơ sở đề xuất biện pháp ........................................................................................73
2.3.2. Một số biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu tham vấn tâm lý của phụ nữ đang sống
cùng chồng bạo hành ......................................................................................................75


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 83
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 88

4


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Từ viết đầy đủ

TV

Tư vấn

THV

Tham vấn

THVV

Tham vấn viên

THVTL

Tham vấn tâm lý


PN

Phụ nữ

BH

Bạo hành

NC

Nhu cầu

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử đã chứng minh vai trị vơ cùng quan trọng của người phụ nữ trong xã hội. Hiện
nay ở Việt Nam, với sự cố gắng về mọi mặt, nhiều người phụ nữ đã đạt được những thành
công lớn, được Nhà nước và xã hội tơn vinh, góp phần xây dựng nên một gia đình êm ấm,
hạnh phúc nói riêng cũng như xây dựng và đổi mới đất nước nói chung. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau, người phụ nữ Việt Nam còn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn
như: bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử liên quan đến giới và đặc biệt là vấn đề bạo hành
về giới. Rất nhiều người phụ nữ còn phải chịu bạo hành trong thời gian dài thậm chí trong
suốt cuộc đời của mình với những hành vi đánh đập, hành hạ dã man, tạo nên vết thương
khó lành trong trái tim người phụ nữ. Bạo hành gia đình đối với phụ nữ là vi phạm quyền
con người; vi phạm quyền bình đẳng, vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh
dự, nhân phẩm của người phụ nữ... Chính vì vậy, người phụ nữ cần được bảo vệ khỏi bạo
hành để họ được sống, làm việc, cống hiến và phát triển trong xã hội.
Để cơng tác phịng, chống bạo hành gia đình có hiệu quả, ngày 21/11 2007, Quốc hội

khố XII của nước ta đã thơng qua Luật Phịng - chống bạo lực gia đình. Luật phịng, chống
bạo lực gia đình ra đời là một bước tiến tích cực, có ý nghĩa rất lớn để chúng ta tiếp tục hoàn
thiện hệ thống pháp luật về phịng, chống bạo hành gia đình, bảo vệ quyền con người, bảo
vệ người phụ nữ, tiếp tục sự nghiệp giải phóng người phụ nữ. Luật Phịng, chống bạo hành
gia đình lần đầu tiên ra đời như tiếng chng lớn cảnh tỉnh những ai đang có hành vi bạo
hành gia đình đối với phụ nữ, gửi đến tất cả các chủ thể trong xã hội một thông điệp rõ ràng
rằng bạo hành gia đình nói chung và bạo hành gia đình đối với phụ nữ là trái với đạo đức, đi
ngược lại truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, trái với ý chí chung của xã hội, là vi
phạm pháp luật, vi phạm những chuẩn mực chung của xã hội và phải chịu sự trừng phạt của
xã hội, của pháp luật.
Có nhiều nghiên cứu về bạo hành gia đình như: “ Tình trạng bạo hành phụ nữ trong
gia đình”; “ Bước đầu tìm hiểu chứng trầm cảm của phụ nữ sống trong gia đình có chồng
bạo hành”; “ Nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam”. Chưa có
đề tài nào nào đi sâu nghiên cứu về nhu cầu tham vấn của phụ nữ có chồng bạo hành.
6


Xuất phát điểm từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài
nghiên cứu về “Nhu cầu tham vấn tâm lý của phụ nữ đang sống cùng chồng bạo hành”
nhằm góp phần mang lại cho chúng ta nhận thức đúng đắn, toàn diện về nhu cầu tham vấn
tâm lý của phụ nữ đang sống cùng chồng bạo hành trên phương diện lý luận và thực tiễn

2. Mục đích nghiên cứu:
Khảo sát nhu cầu tham vấn tâm lý của phụ nữ đang sống cùng chồng bạo hành tại Tp
HCM. Từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm đáp ứng một phần nhu cầu tham vấn tâm lý
cho những phụ nữ này.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Phụ nữ đang sống cùng chồng bạo hành ở một số quận tại Tp HCM.

3.2.1 Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của phụ nữ đang sống cùng chồng bạo hành.

4. Giả thuyết nghiên cứu
Phụ nữ đang sống cùng chồng bạo hành thường bị bạo hành dưới các hình thức khác
nhau và những nguyên nhân khác nhau. Họ có nhu cầu cao về tham vấn tâm lý với nội dung
giúp giải quyết vấn nạn này.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa một số vấn đề lí luận về nhu cầu, nhu cầu tham vấn tâm lý, bạo
hành, bạo hành gia đình.
5.2. Khảo sát thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của phụ nữ đang sống cùng chồng
bạo hành tại Tp HCM. Đề xuất một số biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu tham vấn tâm lý
của phụ nữ này.

6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Giới hạn đối tượng nghiên cứu của đề tài là chỉ nghiên cứu thực trạng nhu cầu tham
vấn tâm lý của phụ nữ đang sống cùng chồng bạo hành và một số yếu tố ảnh hưởng đến nhu
cầu này.
7


- Giới hạn khách thể nghiên cứu của đề tài chỉ nghiên cứu ở 30 phụ nữ đang sống cùng
chồng bạo hành.
- Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Phụ nữ đang sống cùng chồng bạo hành tại các quận:
Gò Vấp; Quận Bình Thạnh; Quận Phú Nhuận; Quận 3; Quận 7. Thành phố Hồ Chí Minh.

7. Phương pháp nghiên cứu
7.1 Cơ sở phương pháp luận
- Quan điểm tiếp cận hệ thống – cấu trúc:

Đề tài được thực hiện một cách hệ thống các NC THVTL nằm trong cấu trúc TL trọn
vẹn.
- Quan điểm lịch sử - logic
Nghiên cứu trong lịch sử phát triển của nhu cầu tham vấn tâm lý.
- Quan điểm thực tiễn
Nghiên cứu thông qua các hoạt động thực tiễn của PN đang sống cùng chồng BH.
7.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phân tích, tổng hợp các tài liệu liên quan đến các vấn đề nghiên cứu: nhu cầu, tham
vấn tâm lý, bạo hành, nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
7.3 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.3.1 Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi
Dùng bảng câu hỏi với mục đích nhằm tìm hiểu thực trạng bị bạo hành của phụ nữ
đang sống cùng chồng bạo hành, tìm hiểu nguyên nhân gây nên vấn nạn bạo hành đó và tìm
hiểu nhu cầu tham vấn tâm lý của phụ nữ đang sống cùng chồng bạo hành, nhu cầu sử dụng
các dịch vụ tham vấn tâm lý. Qua đó, đề xuất một số biện pháp để để đáp ứng nhu cầu tham
vấn tâm lý cho phụ nữ có chồng bạo hành.
7.3.2 Phương pháp phỏng vấn:
Phỏng vấn khách thể nhằm mục đích tìm hiểu sâu hơn về những nguyên nhân và nhu
cầu tham vấn tâm lý của phụ nữ bị chồng bạo hành nhằm có các biện pháp cần thiết để đáp
ứng nhu cầu tham vấn tâm lý cho đối tượng này.
7.4. Phương pháp thống kê toán học:
Dùng phần mềm SPSS để xử lý, phân tích mọi số liệu thu được.
8


Các phép thống kê toán học được sử dụng để xử lý số liệu của đề tài nhằm thống kê
tần số, tỷ lệ phần trăm (%), điểm trung bình, xếp thứ hạng về mức độ nhu cầu tham vấn tâm
lý của phụ nữ có chồng bạo hành.


9


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHU CẦU THAM VẤN TÂM
LÝ CỦA PHỤ NỮ ĐANG SỐNG CÙNG CHỒNG BẠO HÀNH

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngoài
Từ cuối thế kỉ XIX sang nửa đầu thế kỉ XX: Ngành tham vấn tâm lý trong giai đoạn
khởi đầu với các nhà tiên phong triển khai các khái niệm cơ bản theo trường phái phân tâm,
các lí thuyết nghiên cứu về q trình phát triển tâm lí con người và đây được xem là giai
đoạn khởi đầu của công tác hướng nghiệp và tham vấn nghề. Trong giai đoạn này, công tác
trợ giúp chủ yếu tập trung vào cho lời khuyên và cung cấp thông tin mang tính giáo dục cho
mọi người nói chung và giới trẻ nói riêng nhằm giúp họ có khả năng thích ứng với lao động
cơng nghiệp trong giai đoạn cách mạng công nghiệp.
Công tác hướng dẫn nghề - tham vấn nghề được phát triển, với phong trào sử dụng các
thang đo – trắc nghiệm của các lý thuyết nghiên cứu tâm lý cá nhân và sự ứng dụng đầu tiên
của thuyết phân tâm học vào quá trình trị liệu những rối loạn tâm lý của con người. Những
người đóng góp cho sự ra đời của tham vấn hướng nghiệp trong giai đoạn này là: Francis
Galton ( 1822 -1911) và Wilheim Wundt ( 1832 – 1920). Ở Mỹ, G. Stanley ( 1846 – 1924)
và James Cattel ( 1860 – 1940) mở phòng thực nghiệm tại Đại học Harvard và Đại học
Pennsylvania cuối thế kỷ XIX và phát triển trắc nghiệm đo nhân cách được áp dụng vào
tham vấn nghề. Trong khi đó, ở Pháp, Alfred Binet ( 1857 – 1911) đã phát triển trắc nghiệm
kiểm tra trí thơng minh đầu tiên do Bộ Giáo dục Cộng hòa Pháp. [35.tr 63-65]
Năm 1907, Jesse Davis (1817 – 1955) đã xây dựng cơ sở đào tạo đầu tiên về công tác
hướng dẫn nghề tại Michigan. Tuy nhiên người có ảnh hưởng lớn đầu tiên và lớn nhất đến
công tác hướng nghiệp ở Mỹ là Frank Parsons ( 1854 – 1908) với sự ra đời cuốn sách “ Cẩm
nang hướng nghiệp”, được sử dụng trong trường học. Những ý tưởng của F. Parsons trong
công tác hướng nghiệp đã thực sự trở thành nguyên tắc của nghề tham vấn sau này. [35,tr
65]

Vào giữa thế kỉ thứ XX, tham vấn tâm lý đã phát triển thành một ngành chuyên
nghiệp. Năm 1930, E.G.Williamson đưa ra một lý thuyết hoàn chỉnh về tham vấn với tên
10


gọi là “ Tiếp cận đặc điểm và nhân tố”. Williamson đề xuất các bước của hoạt động tham
vấn như sau:
1. Phân tích đánh giá vấn đề và lập hồ sơ về sự tiếp xúc và trắc nghiệm đối với TC.
2. Tổng hợp, tóm tắt và sắp xếp thơng tin để hiểu vấn đề.
3. Chẩn đoán, làm sáng tỏ vấn đề.
4. Tham vấn, trợ giúp cá nhân tìm cách giải quyết.
5. Theo dõi sát sao sự tiến triển của thân chủ.
Theo ông Patterson (1973) cho rằng sự khác nhau căn bản của tiếp cận theo đặc điểm
và nhân tố so với tham vấn hướng nghiệp giai đoạn đầu thế kỉ là việc xác định được một
chuỗi các bước của hoạt động trợ giúp. Đây chính là tiền thân của “Quá trình tham vấn” [35,
tr 68]
Cũng vào giai đoạn này có sự ra đời của rất nhiều thuyết nghiên cứu về quá trình phát
triển tâm lý con người: Thuyết phát triển tâm lý xã hội; Thuyết phát triển tư duy trẻ em;
Thuyết phát triển nhu cầu con người; Thuyết gắn bó mẹ con; Thuyết tổn thương tâm lý...các
lí thuyết này đã cho phép các nhà tham vấn vận dụng nó để giúp đỡ cho các thân chủ của
mình. Các học thuyết này cũng là cơ sở khoa học cho việc nhận biết, giải thích nguồn gốc
của hành vi và các hiện tượng rối loạn tâm lí ở con người. [35, tr 68]
Cũng vào những năm 50 của thế kỷ XX, phương pháp thân chủ làm trọng tâm của C.
Rogers ( 1902 – 1987) là một bước chuyển từ sự tham vấn có định hướng, do ảnh hưởng của
hướng nghiệp, sang tham vấn tập trung vào thân chủ và vấn đề của họ với tập sách Tham
vấn và trị liệu tâm lý, cuốn sách có ảnh hưởng rất lớn đến nghề tham vấn chuyên nghiệp sau
này.
Bên cạnh những hướng tiếp cận chính, như tiếp cận phân tâm của S. Freud; tiếp cận
thân chủ trọng tâm của C. Rogers, thập kỷ 60 của thế kỉ XX đánh dấu sự ra đời của vô số
những cách tiếp cận mới, như tiếp cận xúc cảm thuần lí của Albert Ellis ( 1961); tiếp cận

hành vi của Bandura ( 1969); phép trị liệu hiện thực của William Glasser ( 1961 –
1965)..v.v Tất cả các hướng tiếp cận tham vấn này đã giúp ích cho sự phát triển rực rỡ của
ngành tham vấn trong suốt thế kỉ XX. [35, tr 69]
Giai đoạn từ cuối thế kỉ XX cho đến nay, tham vấn tâm lý được tiếp cận theo xu
hướng đa văn hóa. Các nhà tham vấn cho rằng sẽ rất khó khăn trong việc giúp đỡ khách
hàng nếu nhà tham vấn không nắm được nền tảng văn hóa của khách hàng. Một trong
11


những thay đổi lớn nhất của tham vấn là tập trung vào lĩnh vực văn hóa hay cịn gọi là tham
vấn xuyên văn hóa. Whitfield, McGrath và Coleman ( 1992, dẫn theo Neukrug) chỉ ra các
yếu tố xác định một mơ hình văn hóa cụ thể, đó là:
1/ Đặc điểm bản thân cá nhân
2/ Diện mạo và cách ăn mặc
3/ Có niềm tin và hành vi đặc trưng
4/ Mối liên hệ với gia đình và với các đặc trưng quan trọng khác
5/ Cách dành và sử dụng thời gian nhàn rỗi
6/ Cách tiếp thu và sử dụng kiến thức
7/ Cách thức giao tiếp và ngôn ngữ
8/ Những giá trị và các tập tục
9/ Sử dụng thời gian và không gian sống
10/ Thói quen ăn uống và chế biến món ăn theo phong tục tập quán
11/ Công việc và cách thức thực hiện cơng việc.
Những vấn đề văn hóa liên quan đến gen di truyền, màu da, dòng giống, truyền thống
hay vấn đề tiền bạc, quyền lực, vị trí xã hội, vai trị xã hội đều có liên quan đến sự nảy sinh
nan đề; cách nhìn nan đề và cách xử lý nan đề của mỗi thân chủ. Khi các nhà THV thiếu
hiểu biết về nền tảng văn hóa của TC thì họ dễ đứng trên quan điểm của bản thân để đánh
giá thân chủ. Sự hiểu biết về nền tảng văn hóa của TC được thể hiện qua thái độ, kĩ năng và
phương pháp tiếp cận TC sẽ giúp cho nhà THV lí giải được lí do nào, điều kiện gì khiến họ
cảm nhận, suy nghĩ, hành động như vậy. Qua đó sẽ chấp nhận TC hơn và sẽ giúp cho họ

hiểu được điều gì là nguyên nhân gây ra tình trạng hiện tại và từ đó giúp họ vượt qua khó
khăn của mình.
Như vậy, qua 3 giai đoạn phát triển, ngành tham vấn tâm lý trên thế giới đã có các yếu
tố để trở nên chuyên nghiệp. Những yếu tố đó là:
- Các học thuyết nghiên cứu tâm lý người phát triển.
- Các hướng tiếp cận trị liệu tâm lý với cá nhân, nhóm đã thay đổi, hồn chỉnh cho phù
hợp với ngành tham vấn.
- Các tổ chức, các Hiệp hội tham vấn ra đời quy định các chuẩn mực đạo đức và pháp
lý cho người làm công tác trợ giúp.
12


- Các phòng khám sức khỏe tâm thần, các trung tâm tham vấn cộng đồng, hay trường
học gia tăng nhu cầu về người trợ giúp tâm lý.
- Các hiệp hội, trường học đào tạo nghề tham vấn phát triển mạnh, đa dạng và công tác
giám sát tham vấn theo hướng ngày càng khoa học và kiểm soát chặt chẽ.
- Bằng cấp hóa những người hoạt động trong lĩnh vực tham vấn và xây dựng mơ hình
đào tạo nhà tham vấn chun nghiệp theo hướng chun sâu.
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt nam dịch vụ tham vấn tâm lý bắt đầu phát triển mạnh từ giữa những năm 90.
Vào thời kỳ này, các hoạt động tham vấn tâm lý thường đi kèm với chương trình cải thiện
cuộc sống và kinh tế cho các đối tượng thuộc diện chính sách xã hội. Cơng tác TV là một
phần trong các hoạt động của các hoạt động của công tác Từ thiện, Công tác xã hội. Nhưng
THVTL với tư cách là một lĩnh vực hoạt động mang tính chất khoa học và chuyên nghiệp
chỉ mới phát triển trong những năm gần đây và hiện nay, nhiều người đã biết và sử dụng các
dịch vụ tham vấn tâm lý.
Nhìn từ góc độ hoạt động THVTL, theo đánh giá của tác giả Nguyễn Thị Oanh, “
Phòng tư vấn tâm lý” đầu tiên được thành lập năm 1988 ở TP. Hồ Chí Minh, do Tiến sĩ Tâm
lí Tơ Thị Ánh phụ trách. Các đối tượng đến đây xin THV thuộc mọi thành phần và các CN
trợ giúp cũng đa dạng [35,tr 76]

Từ năm 1997 đến năm 2000, tại Thành phố Hồ Chí Minh có các trung tâm tư vấn như:
Trung tâm tư vấn Tình u, Hơn nhân, Gia đình thuộc Hội Tâm lý giáo dục thành phố,
Trung tâm tư vấn Hướng Dương thuộc liên đoàn lao động TP.HCM…Nhiệm vụ của các
trung tâm này nhằm cung cấp thông tin, giải đáp thắc mắc và cho lời khuyên, chủ yếu tư vấn
thông qua điện thoại.
Hiện nay, nhiều dịch vụ THV và trị liệu tâm lý xuất hiện ở nhiều trường học, công ty.
Một số cơ sở THV, trị liệu như Cơ sở thăm khám tâm lý trẻ em N-T của cố bác sĩ Nguyễn
Khắc Viện, Trung tâm TV và Hổ trộ tâm lí (Trường Khoa học Xã hội và Nhân văn), Khoa
tâm lý của bệnh viên Nhi đồng 1, Nhi Đồng 2…và một số trung tâm THVTL khác như
Trung tâm Tham vấn tâm lý Hoàng Nhân, Cơng ty TV An Việt Sơn…Bên cạnh đó có các
hình thức THV gián tiếp qua các phương tiện truyền thơng như báo chí, phát thanh, truyền
hình…phát triển nhanh chóng đáp ứng phần nào nhu cầu THV của xã hội.
13


Để đáp ứng được phần nào nhu cầu tự trao dồi kỹ năng thực hành thâm vấn tâm lý của
những người làm công tác tham vấn tâm lý, tác giả Nguyễn Thơ Sinh đã viết quyển sách “
Tư vấn tâm lý căn bản” – 2006
Năm 2009, giáo trình tham vấn tâm lý của tác giả Trần Thị Minh Đức được xuất bản
và trở thành nền tảng lý thuyết đầu tiên cho hoạt động tham vấn tâm lý và đào tạo chuyên
viên tham vấn tâm lý chuyên nghiêp.
Những năm gần đây, đội ngũ chuyên viên THVTL tại các trung tâm đã được đào tạo
một cách bài bản và chuyên nghiệp. Tuy nhiên để đáp ứng NC tham vấn TL ngày càng cao
của xã hội, ngành tham vấn ở Việt Nam cần phải nổ lực nhiều hơn nữa trong nghiên cứu
thực tiễn, lý luận và phương pháp …
Những nghiên cứu về THVTL và nhu cầu THVTL đã được thực hiện:
Các nghiên cứu về tham vấn học đường có các nghiên cứu về
- Khảo sát nhu cầu tư vấn tâm lý và giáo dục từ góc nhìn của sinh viên Cao đẳng Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Việt Bắc ( 2006) (31) cho kết quả như
sau: 31% sinh viên muốn tư vấn về Ứng xử trong giao tiếp hằng ngày; 24% sinh viên muốn

tư vấn để Nhận thức cuộc sống và lý tưởng; 17% sinh viên muốn tư vấn về Hướng nghiệp;
7% về Tình yêu, Tình dục.
- Nghiên cứu về “ Nhu cầu tham vấn tâm lý – giới tính của học sinh một số trường
trung học tại thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Ngơ Đình Qua, Nguyễn Chí Thượng (
2006) cho thấy nhu cầu tham vấn tâm lý ngày càng tăng và các em mong muốn có phịng
tham vấn giới tính miễn phí. [32]
- Nghiên cứu “ Nhu cầu hoạt động tham vấn tâm lý ở các trường giáo dưỡng”. Tác giả
Đỗ Ngọc Khanh ( 2007) tìm hiểu về nhu cầu tham vấn tâm lý của các em ở độ tuổi vị thành
niên cho thấy hoạt động tham vấn tâm lý ở trường rất cần thiết và đã được thực hiện có hiệu
quả. [27 tr 22-26]
- “ Tìm hiểu nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân ở một số công ty tại thành phố
Hồ Chí Minh” của tác giả Huỳnh Thị Hồng Oanh ( 2009) cho thấy cơng nhân hiện nay
cũng có khá nhiều khó khăn về mặt tâm lý nhất là cơng nhân nữ, công nhân ở trọ. Họ mong
muốn được hổ trợ tham vấn miễn phí với thời gian phù hợp, mong muốn được tham vấn về
kỹ năng giao tiếp.
14


- Tác giả Phùng Thị Hương Nga ( 2010)“Nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu
chế xuất Tân Thuận tại thành phố Hồ Chí Minh. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy công
nhân khu chế xuất Tân Thuận có nhu cầu tham vấn tâm lý ở mức độ cao, họ cần được biết
nhiều hơn về các dịch vụ tham vấn tâm lý. [24]
- Nghiên cứu về đề tài ở lứa tuổi học sinh có tác giả Phạm Thị Trúc ( 2010) với đề tài “
Nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”.
Các em có nhu cầu tham vấn tâm lý cao về vấn đề học tập ( 75,3%), vấn đề phát triển bản
thân ( 46,1%).
- Nghiên cứu nhu cầu tham vấn tình u – hơn nhân và những vấn đề liên quan của tác
giả Đặng Văn Huệ [37 ] Kết quả cho thấy, người có nhu cầu tham vấn thường thuộc vào lứa
tuổi trẻ và đa phần là phụ nữ. Vấn đề cần tham vấn thuộc lĩnh vực tình yêu hoặc mối quan
hệ giữa hai người khác phái. Thông qua nghiên cứu, tác giả kiến nghị cần xây dựng mạng

lưới tham vấn tâm lý một cách chủ động, khoa học trong xã hội để hạn chế hiện tượng phát
triển tự phát.
- Tác giả Huỳnh Thị Hoàng Oanh ( 2009) [45] “ Tìm hiểu nhu cầu tham vấn tâm lý
của công nhân ở một số công ty tại thành phố Hồ Chí Minh” cho thấy cơng nhân hiện nay
cũng có khá nhiều khó khăn về mặt tâm lý nhất là công nhân nữ, công nhân ở trọ. Họ mong
muốn được tham vấn tâm lý miễn phí với thời gian phù hợp, đặc biệt là họ thích được tham
vấn về kỹ năng giao tiếp.
- Tác giả Phùng Thị Hương Nga ( 2010) [42] đã thực hiện đề tài “ Nhu cầu tham vấn
tâm lý của công nhân khu chế xuất Tân Thuận tại thành phố Hồ Chí Minh”. Kết quả khảo
sát cho thấy công nhân khu chế xuất Tân Thuận có nhu cầu tham vấn tâm lý ở mức độ cao
nhưng chỉ tham vấn thông qua những mối quan hệ bạn bè tiếp xúc hằng ngày. Họ thiếu hiểu
biết về các dịch vụ tham vấn và thời gian, điều kiện, kỹ năng để thỏa mãn nhu cầu tham vấn
rất hạn chế.
- Nhu cầu tham vấn tâm lý của giáo viên mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh của tác
giả ( 2012), Nguyễn Xuân Hùng khẳng định giáo viên mầm non tại TP.HCM có nhu cầu
tham vấn cao và lĩnh vực có nhu cầu được trợ giúp nhiều nhất là lĩnh vực chuyên môn, nghề
nghiệp của họ; lĩnh vực giao tiếp, ứng xử trong các mối quan hệ ở nơi làm việc; lĩnh vực
giao tiếp, ứng xử trong đời sống hơn nhân, gia đình, bạn bè và hàng xóm; lĩnh vực quản lý
cảm xúc và sức khỏe. [ 23. tr 59]
15


- Tác giả Nguyễn Thị Ngọc với đề tài “ Khảo sát nhu cầu tham vấn tâm lý của học
sinh trung học cơ sở huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh, kết quả khảo sát cho thấy
nhu cầu TVTL của học sinh THCS huyện Bình Chánh khá cao, đa dạng và phong phú. Các
em mong muốn được tham vấn nhiều nhất là: Kỹ năng sống, Kỹ năng giao tiếp, Hướng dẫn
vui chơi giải trí lành mạnh và chăm sóc sức khỏe, vấn đề về tuổi dậy thì, vấn đề học tập, tình
yêu, quan hệ tình dục và sinh sản. [22,tr 124]
Như vậy, chưa có cơng trình nào nghiên cứu về nhu cầu tham vấn tâm lý của phụ nữ
đang sống cùng chồng bạo hành tại thành phố Hồ Chí Minh.


1.2. Một số khái niệm cơ bản có liên quan đến đề tài:
1.2.1. Nhu cầu
1.2.1.1. Khái niệm nhu cầu
Có nhiều quan điểm khác nhau về nhu cầu, theo quan điểm triết học Mác-Lênin “nhu
cầu là những đòi hỏi khách quan của mỗi con người trong những điều kiện nhất định đảm
bảo cho sự phát triển của mình”. Như vậy, nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu của con người đảm
bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người, nhu cầu xuất hiện trong những điều kiện nhất
định, trong mỗi giai đoạn phát triển của loài người. Nhu cầu là nguyên nhân khởi đầu cho
các hoạt động khác nhau của con người. [34]
Khái niệm nhu cầu trong Từ điển tâm lý học của Viện tâm lý học Việt Nam do Vũ
Dũng [45] chủ biên được định nghĩa như sau: “ nhu cầu là trạng thái của cá nhân, xuất phát
từ chổ nhận thấy cần những đối tượng cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình và đó
là nguồn gốc tính tích cực của cá nhân.”
Theo nghiên cứu của nhà tâm lý học người Mỹ - Henrry Murray, NC là một tổ chức cơ
động, có tổ chức và hướng dẫn các quá trình nhận thức, tưởng tượng và hành vi. Nhờ nhu
cầu mà hoạt động của con người mang tính mục đích, theo ơng, NC là một động lực xuất
phát từ cơ chế và sự thỏa mãn NC địi hỏi phải có sự tác động qua lại với các tình huống xã
hội, phải có sự cải tổ chúng nhằm mục đích đạt được sự thích ứng. [41]
Điển hình là cơng trình nghiên cứu của A. Maslow, ông chứng minh rằng tính xã hội
nằm trong chính bản tính của con người. Con người có NC chân chính về giao tiếp, về sự
thuộc về, về tình yêu, về lịng kính trọng…những NC này có bản chất, bản năng đặc trưng

16


cho giống người. Ơng đã hình dung NC và sự phát triển của con người theo một chuỗi liên
tiếp như chiếc cầu thang, sắp xếp thành năm bậc từ thấp đến cao.[ 46]
Theo Tâm lý học đại cương, xuất bản năm 1940, D.N.Uznatze cho rằng NC là yếu tố
đặc trưng cho một cơ thể sống, là cội nguồn của tính tích cực và nó phát triển tương ứng với

sự phát triển của con người. Khi có một NC nào đó xuất hiện, chủ thể hướng sức lực của
mình vào hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn nhu cầu nào đó [34]
X.L Rubinstein đã tạo ra một hệ thống tri thức phong phú, trong đó có lý thuyết về nhu
cầu, dựa trên quan điểm triết học Mác- Lênin. Con người có nhu cầu sinh vật nhưng bản
chất của con người là tổng hịa các mối quan hệ xã hội, vì vậy cần xem xét đồng thời các
vấn đề cơ bản của con người với nhân cách. Ông cho rằng, nhu cầu là một thành tố của động
cơ là “hạt nhân của nhân cách”. Với tư cách này, nhu cầu sẽ xác định những biểu hiện khác
nhau của nhân cách – đó là xúc cảm, tình cảm, ý chí, hứng thú niềm tin.
Người đi sâu vào nghiên cứu bản chất tâm lý của nhu cầu hơn ai hết phải kể đên là
A.N Leonchiev. Khi bàn về vấn đề nhu cầu, A.N Leonchiev [40] cho rằng, một nhu cầu
thực sự bao giờ cũng phải là nhu cầu về một cái gì đó. Nghĩa là nhu cầu phải có đối tượng (
các vật thể có khả năng thỏa mãn nhu cầu). Đối tượng này không phải xuất hiện cùng một
lúc và rõ rệt với trạng thái có tính chất nhu cầu (những ước mong, những ý muốn chủ quan
của chủ thể) mà nó chỉ “phát lộ” ra trong quá trình con người hoạt động để thỏa mãn nhu
cầu. Ông viết “ nhu cầu với tính chất là một sức mạnh nội tại chỉ có thể được thực thi trong
hoạt động”.
Ở Việt Nam, hầu hết các nhà tâm lý học chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi tâm lý học
Macxit [34] NC vừa là tiền đề, vừa là kết quả của hoạt động. Nhu cầu của con người không
ngừng phát triển, bởi NC luôn gắn kết với lịch sử xã hội, là một bộ phận cấu thành của nó.
Cũng giống như NC, mục đích của con người có tính ý thức chủ quan, con người tin rằng sự
thõa mãn NC chỉ cụ thể bằng cách đạt được mục đích. Nhu cầu thể hiện ở động cơ, cái thúc
đẩy con người hoạt động và động cơ trở thành hình thức thể hiện NC.
Quan niệm của tất cả các nhà tâm lý học ở Việt Nam về nhu cầu thể hiện trong bộ sách
Tâm lý học do tập thể các nhà tâm lý học đầu ngành của Việt nam biên soạn như: Phạm
Minh Hạc, Phạm Hoàng Gia, Trần Trọng Thủy, Lê Văn Hồng, Nguyễn Quang Uẩn, Lê
Khanh…Dù mỗi tác giả có một cách lập luận khác nhau, nhưng tất cả đều có chung một
quan điểm là: NC được hiểu là sự biểu hiện mối quan hệ tích cực của các cá nhân đối với
17



hồn cảnh, là sự địi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát
triển [34]
Từ những lập luận trên cho thấy có nhiều lý thuyết và quan điểm nghiên cứu về nhu
cầu khác nhau. Mỗi định nghĩa về nhu cầu đều có những đặc điểm riêng, song có thể nhận
định khái quát như sau:
Nhu cầu là sự đòi hỏi của chủ thể về một đối tượng nào đó, cần được thỏa mãn để con
người có thể tồn tại và phát triển. Nhu cầu là thuộc tính tâm lý nằm trong cấu trúc của xu
hướng. Ban đầu nhu cầu xuất hiện chỉ là trạng thái thiếu thốn cái gì đó mà chưa rõ đối tượng
nào đó có khả năng thỏa mãn nhu cầu. Khi nhu cầu gặp đối tượng, lúc nhu cầu trở thành
động cơ trực tiếp thúc đẩy con người hoạt động nhằm hướng tới đối tượng. Nhu cầu chính là
nguồn gốc thúc đẩy con người tích cực hoạt động.
1.2.1.2. Đặc điểm của nhu cầu
a. Tính đối tượng của nhu cầu
Nhu cầu bao giờ cũng có tính đối tượng, khi NC gặp đối tượng và chứa đựng khả năng
thỏa mãn thì lúc đó NC trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động nhằm mục đích đạt
được đối tượng đó. Đối tượng của NC mang tính khách quan, nằm ngồi cơ thể của chủ thể.
Đối tượng của NC ở những điều kiện xã hội khác nhau thì khác nhau. Khi chủ thể tiến hành
một hoạt động, đối tượng của NC bộc lộ ra và được chủ thể nhận biết. Lúc này, NC trở
thành động cơ có chức năng thúc đẩy, hướng dẫn con người hoạt động.
b. Phương thức thỏa mãn nhu cầu:
Khi xuất hiện một NC cụ thể thì chủ thể sẽ tìm kiếm các phương thức, điều kiện để
thõa mãn NC và từ đó nảy sinh hành vi với tư cách là phương thức thỏa mãn NC. NC chỉ
được thõa mãn thơng qua hoạt động. Chỉ có thơng qua hoạt động thì đối tượng của NC mới
bộc lộ ra và đáp ứng được NC, thơng qua đó NC được phát triển và được thỏa mãn. Và sau
khi được thỏa mãn lại nảy sinh NC mới ở cấp độ cao hơn. Lúc đó, NC đã xác định được
hướng cho hoạt động và trở thành sức mạnh nội tại kích thích và hướng dẫn hoạt động của
con người.
c. Tính ổn định của nhu cầu:
NC có thể xuất hiện lặp đi lặp lại, tính ổn định của NC thể hiện ở tần suất xuất hiện
một cách liên tục và thường xuyên. NC là một thuộc tính tâm lý, khi NC phát triển ở mức

18


độ cao thì nó bỗng trở nên bền vững và ổn định. Tính ổn định của NC chỉ có được khi con
người ý thức đầy đủ về đối tượng của NC và phương thức thỏa mãn NC đó.
d. Tính chu kỳ của nhu cầu:
Khi một NC được thỏa mãn, NC đó khơng mất đi, nó vẫn cịn tồn tại và lặp đi lặp lại
nhiều lần, được củng cố và phát triển ngày càng phong phú hơn trong những điều kiện và
phương thức sinh hoạt của con người. Nhu cầu và hoạt động thực hiện nhu cầu là động lực
hết sức quan trọng nhằm tìm ra phương thức thỏa mãn nhu cầu.
e. Trạng thái ý chí – xúc cảm của nhu cầu:
NC thường đi kèm với trạng thái ý chí, xúc cảm, đặc biệt khi NC ở mức độ cao.
Những trạng thái xúc cảm của NC được biểu hiện, đó là sự hài lịng và khơng hài lịng, thậm
chí là trạng thái đau khổ khi NC không được thỏa mãn. Trạng thái ý chí – xúc cảm thúc đẩy
hoạt động của con người tìm kiếm các phương thức thỏa mãn NC. Chính vì vậy, NC trở
thành một trong những động cơ mạnh mẽ thúc đẩy con người hoạt động nói chung và thực
hiện các hành vi mang tính ý chí nói riêng. Trạng thái ý chí xúc cảm sẽ bị giảm thậm chí có
lúc hồn tồn biến mất hoặc có thể chuyển sang trạng thái ngược lại khi NC được thỏa mãn.
g. Bản chất xã hội – lịch sử của nhu cầu:
NC của con người mang bản chất xã hội – lịch sử. Đó chính là sự khác nhau về bản
chất giữa NC của con người với NC của con vật. Con người biết sáng tạo để tạo ra đối
tượng thỏa mãn NC của mình. Chính vì vậy NC của con người ngày càng trở nên phong phú
và phức tạp hơn. Ngoài NC vật chất gắn liền với cơ thể ( ăn, mặc, ở, đi lại…), ở con người
có NC tinh thần bao gồm NC nhận thức, NC thẫm mỹ, NC giao tiếp, NC chia sẻ và NC hoạt
động xã hội.
1.2.1.3. Các loại nhu cầu
Theo Erich Fromm, nhà phân tâm học hiện đại cho rằng “ NC tạo ra cái tự nhiên cho
con người” (28) Đó là những NC:
- Nhu cầu quan hệ giữa người và người
- Nhu cầu tồn tại cái tâm của con người

- Nhu cầu đồng nhất bản thân và xã hội với dân tộc, giai cấp, tôn giáo
- Nhu cầu về sự bền vững, hài hòa
- Nhu cầu nhận thức, nghiên cứu
19


Masow ( 1908- 1970) xây dựng lý thuyết NC về sự phát triển của con người nhằm giải
thích những NC nhất định của con người cần được đáp ứng như thế nào để một cá nhân có
thể định hướng cuộc sống lành mạnh và có ích cả về thể chất và tinh thần. Maslow quan
niệm NC và sự phát triển của con người theo “ một chuỗi liên tiếp” như cái cầu thang (NC
vật chất, NC an toàn, NC thừa nhận, NC về sự tự trọng, NC về sự phát triển cá nhân) [28]
Nhu cầu
tự hồn
thiện
Nhu cầu
được tơn
trọng
Nhu cầu giao lưu
tình cảm
Nhu cầu an tồn

Nhu cầu thể chất

Sơ đồ: Hệ thống thứ bậc nhu cầu của Abraham Maslow
Trong hệ thống thứ bậc NC của A. Maslow, ông cho rằng mỗi NC của con người đều
phụ thuộc vào NC trước đó. Nếu một NC không được đáp ứng ( đầu tiên là NC tồn tại- NC
thể chất), cá nhân sẽ gặp cản trở trong việc theo đuổi những NC cao hơn ( NC giao tiếp xã
hội, NC hoàn thiện cá nhân). Năm 1970, được bổ sung thêm 2 bậc NC nữa và hệ thống bao
gồm 7 bậc: vật chất, an toàn, thừa nhận, tôn trọng, nhận thức, thẩm mỹ, phát triển cá nhân.
Như vậy, có nhiều cách phân loại khác nhau về NC, NC được phân chia thành hai loại:

NC vật chất và NC tinh thần. Do đó, NC THVTL cũng thuộc về NC tinh thần và là NC bậc
cao của con người.
1.2.1.4. Sự hình thành nhu cầu
Một số tác giả cố gắng giải thích NC nhận thức xuất phát từ NC sinh lý, S Freud thì
quả quyết nguồn gốc hành vi của con người bắt nguồn từ bản năng sinh học, NC về cơ thể.
Còn Addler mà Maslow đã nhận ra NC con người không chỉ là NC cơ thể, NC sinh lý mà
lực kích thích hành vi của con người cịn do mục đích hành động, con đường đạt đến mục
đích đó…Sau này H.Murray, K.Horney, K.Lewin thừa nhận rằng: nhân tố thực của hoạt
20


động tâm lý con người không chỉ xuất phát từ nhu cầu cơ thể mà còn xuất phát từ nhu cầu
xã hội.
A.N Leonchiev [40] cho rằng bởi vì bản thân thế giới đối tượng hàm chứa những nhu
cầu tiềm tàng, nên trong q trình chủ thể hoạt động tích cực, tất yếu sẽ nhận thức được
những yêu cầu, đòi hỏi phải được đáp ứng đề tồn tại và phát triển, tức là xuất hiện NC mới.
Thông qua hoạt động sản xuất loài người một mặt thỏa mãn NC hiện tại, đồng thời lại xuất
hiện NC mới, vì thế con người tích cực hoạt động lao động sản xuất qua đó thúc đẩy tiến bộ
xã hội.
Như vậy trạng thái NC xuất hiện khi cơ thể mất thăng bằng, thiếu hụt cái gì đó, đó là
một trong những ngun nhân thúc đẩy sự hoạt động tích cực của con người để làm dịu sự
căng thẳng khắc phục sự mất cân bằng. Nói một cách khác, hoạt động tích cực của con
người thỏa mãn NC là hướng tới sự cân bằng tương đối của cơ thể.
Để hình thành NC về một đối tượng nào đó thì chúng ta phải làm cho chủ thể có cơ hội
làm quen với đối tượng, chủ thể sẽ có cơ hội và điều kiện để thấy được vai trò, ý nghĩa của
đối tượng với cuộc sống của bản thân, từ đó hình thành mong muốn về đối tượng và NC sẽ
xuất hiện.
1.2.2. Tham vấn tâm lý
1.2.2.1. Tham vấn và tư vấn
Hiện nay ở Việt Nam, khái niệm Tư vấn ( consulation) hay Tham vấn (counseling)

trong từ điển Tiếng Việt hiện nay đều được dịch là tư vấn. Đó là sự “đóng góp ý kiến về
những vấn đề được hỏi đến, nhưng khơng có quyền quyết định” [35,13], việc cung cấp
thông tin hay cho lời khuyên, trợ giúp những khó khăn tâm lý, chỉ bảo hay hướng dẫn…cho
một cá nhân hay một tổ chức nào đó khi họ có NC đều được gọi là tư vấn.
Trên thế giới, khái niệm TV không chỉ hiểu đơn thuần như là cho lời khuyên, như
công việc của một chuyên gia hay cố vấn, là sự khuyên bảo từ một tổ chức hay người có
trình độ chun mơn về một lĩnh vực cụ thể, như một hình thức đóng góp ý kiến. Trong đó,
người xin TV thường là những người chủ động tích cực cịn những người được tư vấn thì có
thể là người thụ động để giải quyết vấn đề của họ. [35, 14]
Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ (1998) định nghĩa: TV là mối quan hệ giữa một người trợ
giúp chuyên nghiệp và người, nhóm người hoặc một chỉnh thể xã hội cần được giúp đỡ,
21


trong đó nhà TV cung cấp sự giúp đỡ cho thân chủ trong việc xác định và giải quyết một
vấn đề nào đó có liên quan đến cơng việc hoặc người khác. [35]
Có thể giải thích hoạt động TV là: Nhà TV được một người đề nghị cung cấp dịch vụ
giúp đỡ trực tiếp cho một người, nhóm, tổ chức hay cộng đồng với nỗ lực trợ giúp cho cá
nhân ( nhóm, hay hệ thống đó) vượt qua những khó khăn của hộ. Như vậy tư vấn được xem
như mối quan hệ tay ba trong đó trọng tâm là người xin TV, bên thứ ba có thể là một người
hay một nhóm người, một tổ chức. TV với một người về một người khác, không chỉ liên
quan đến ba cá nhân chính, đó là nhà TV, người đượcTV và người khác mà cịn liên quan
đến mơi trường mà người khác đang tồn tại.
Hoạt động TV có thể diễn ra bất cứ nơi nào, trường học, cơ quan, doanh nghiệp…bất
kể nơi nào có tồn tại người được TV, mong muốn cải thiện tình hình mà mình đang có vấn
đề gặp phải và muốn xem xét những cách thức giải quyết mới tạo nên sự thay đổi tích cực
trong con người của họ. Có thể nói khái niệm TV đồng nghĩa với khái niệm cố vấn hay
chuyên gia. Trong tiếng Việt, cố vấn được hiểu là người thường xuyên được hỏi ý kiến để
tham khảo, giải quyết công việc.
Khi nhà TV sử dụng kiến thức của mình để đưa ra gợi ý hay lời khuyên hay tìm ra

cách giải quyết mới hướng đến sự thay đổi của tổ chức thì nhà TV có thể trở thành chuyên
gia, cố vấn là người hướng dẫn, người huấn luyện hoặc người giáo dục. Ngược lại, nhà TV
hoạt động nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thay đổi bằng cách cùng làm việc với
cá nhân liên quan, cung cấp tài liệu và các giải pháp thì nhà tư vấn có thể trở thành nhà điều
chỉnh, hoặc người cộng tác, người tạo điều kiện thuận lợi.
Trong từ điển Tâm lý học của tác giả Vũ Dũng [45], tư vấn là “ đóng góp ý kiến về
những vấn đề được hỏi đến, nhưng khơng có quyền quyết định”. Điều này có thể hiểu là
việc cung cấp thông tin hay cho lời khuyên, trợ giúp cách giải quyết những khó khăn, hay
hướng dẫn, chỉ bảo…cho một cá nhân hay tổ chức nào đó khi có NC đều được gọi là TV.
Từ một số quan điểm trên cho thấy TV và THV có sự khác biệt rất rõ ràng. Sự khác
biệt căn bản giữa TV và THV được thể hiện ở các điểm sau:
Về mục tiêu: Tư vấn chủ yếu hướng tới giải quyết những vấn đề mang tính hiện tại.
Hoạt động tham vấn hướng tới giải quyết những mục tiêu lâu dài hơn, giúp thân chủ nâng
cao khả năng tự giải quyết.
22


Về tiến trình: Tư vấn cung cấp thơng tin hay cho lời khuyên do đó được diễn ra trong
thời gian ngắn, cịn tham vấn có thể diễn ra trong thời gian dài để nhà THV và thân chủ có
đủ thời gian trong quá trình tương tác với nhau.
Về mối quan hệ: Trong mối quan hệ THV thể hiện sự bình đẳng, hợp tác, ngang hàng
và đòi hỏi sự tương tác chặt chẽ giữa nhà tham vấn và người được tham vấn, khơng có tính
chất trên – dưới như trong mối quan hệ tư vấn giữa một người có chun mơn, am hiểu về
lĩnh vực nào đó với người cần được tư vấn về vấn đề thuộc lĩnh vực họ cần tư vấn.
Về cách thức tương tác: Trong TV, cách thức can thiệp chính là cung cấp thơng tin,
cho lời khun bổ ích tư người TV. Cịn THV, kết quả tùy thuộc vào kỹ thuật, kỹ năng
tương tác của nhà THV để giúp thân chủ của mình tự nhận thức, hiểu được mình, hồn cảnh
vấn đề của mình và từ đố chủ động tìm kiếm giải pháp phù hợp để thực hiện.
1.2.2.2. Tham vấn tâm lý.
Tham vấn tâm lý (counseling psychology) là thuật ngữ được tiếp cận từ nhiều góc độ

khác nhau.
Theo quan điểm của các tác giả trên thế giới như Carl Rogers (1972) đã mô tả tham
vấn tâm lý như là quá trình trợ giúp, trong mối quan hệ an tồn với nhà tham vấn, thân chủ
tìm thấy sự thoải mái, chia sẻ và chấp nhận những trãi nghiệm đã từng bị chối bỏ để hướng
đến sự thay đổi.
J. Hunchinson Haney & Jacqueline L. ( 1999) cũng cho rằng tham vấn tâm lý là mối
quan hệ tương tác mà nhà tham vấn tập trung vào những trãi nghiệm, cảm xúc, suy nghĩ và
hành vi của thân chủ, để giúp họ khám phá, chấp nhận và đối mặt với chúng.
Theo các nhà tham vấn ở Hiệp hội vấn Hoa kì ( ACA, 1997): Tham vấn tâm lý là sự áp
dụng nguyên tắc tâm lý, sức khỏe tinh thần hay nguyên tắc về sự phát triển con người thông
qua các chiến lược can thiệp một cách có hệ thống về nhận thức, xúc cảm, hành vi tập trung
vào sự lành mạnh, sự phát triển cá nhân, phát triển nghề nghiệp cũng như vấn đề bệnh lý.
[35]
Perez J.F ( 1065) lại cho rằng, tham vấn tâm lý là quá trình tương tác giữa một bên là
người cần có sự trợ giúp và một bên là người làm tham vấn được đào tạo, huấn luyện có
nhiệm vụ đưa ra sự trợ giúp. Ơng xem người tham vấn có vai trị thúc đẩy, duy trì quá trình
tương tác bằng sự giao tiếp nồng hậu, đức tính kiên trì, thái độ tơn trọng và chân thành.

23


×