Tải bản đầy đủ (.pdf) (179 trang)

Đặc trưng truyện ngắn lý lan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 179 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
__________________

Hồ Kim Phụng

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số
: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN THỊ THANH XUÂN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2009


LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin chân thành cám ơn Trường Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh, Phịng Khoa học và Đào tạo Sau đại học, Quý Thầy Cô ở Khoa Văn
trường Đại học Sư phạm và trường Đại học Khoa học và Xã hội Nhân văn thành
phố Hồ Chí Minh, đã giảng dạy chúng tơi trong suốt ba năm học cao học tại trường;
Ban giám hiệu và Quý Thầy Cô ở Tổ Văn Trường THPT Trần Phú, đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong công tác để tơi có thể theo học chương trình sau đại học.
Xin cám ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Xn vì Cơ đã hướng dẫn tôi thực
hiện đề tài này. Cô đã giúp tôi tiếp cận đề tài và triển khai luận văn với một tinh
thần cởi mở và ln khuyến khích tôi thể hiện ý kiến cá nhân. Cô cũng dành thời
gian đọc và sửa chữa luận văn của tôi.
Đặc biệt, tôi xin cám ơn nhà văn Lý Lan đã trả lời phỏng vấn, nhiệt tình cung


cấp cho tơi tài liệu và hình ảnh có liên quan đến đề tài.
Xin cám ơn gia đình đã hết sức tận tụy giúp đỡ tơi và hỗ trợ tơi trong q
trình tơi thực hiện luận văn.
Cuối cùng, cho tơi được nói lời tri ân tất cả.


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Truyện ngắn
Là một thể loại tự sự, truyện ngắn có những đặc trưng riêng về tính chất, về
dung lượng so với các thể loại khác. Truyện ngắn ra đời gắn chặt với hoạt động báo
chí nên dễ phổ biến đến người đọc. Với hình thức ngắn gọn, cơ động, truyện ngắn
phù hợp việc đáp ứng nhu cầu của độc giả trong thời đại công nghiệp. Là “một lát
cắt của đời sống”, như giọt nước nhỏ dung chứa cả đại dương, những truyện ngắn
hay dễ để lại nhiều dư âm, ám ảnh trong lòng người đọc. Gần như nhà văn nào cũng
ít nhiều thử mình qua truyện ngắn. Truyện ngắn Việt Nam đã trải qua một lịch sử
trên một thế kỷ và có nhiều thành tựu nhất định, đã trở thành món ăn tinh thần
không thể thiếu của công chúng Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn văn học
đương đại.
1.2. Trong truyện ngắn Việt Nam, truyện ngắn của các nhà văn nữ là một
bộ phận rất đáng chú ý. Có thể nói, trong giai đoạn văn học đương đại, các nhà văn
nữ có phần lấn át nam giới trên phương diện truyện ngắn. Xã hội càng cởi mở,
người nữ càng có cơ hội bộc lộ khả năng suy nghĩ và diễn đạt bằng văn bản. Tiếp
nhận cái mới nhanh nhạy, táo bạo trong cách viết, khơng ngừng đi về phía trước,
nhiều nhà văn nữ đã làm nên sự kiện: Dương Thu Hương, Lê Minh Kh,Võ Thị
Hảo, Phạm Thị Hồi, Ngơ Thị Kim Cúc,Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Minh Ngọc,
Phan Thị Vàng Anh… trong đó, Lý Lan là trường hợp tỏ rõ khả năng chuyên
nghiệp, và là người viết truyện ngắn mang đậm bản sắc phương Nam.
Từ năm 2003, tác phẩm của Lý Lan được đưa vào giảng dạy ở trường trung
học cơ sở trong chương trình ngữ văn lớp 7 với tản văn “Cổng trường mở ra”.

1.3. Có thể nghiên cứu truyện ngắn trên nhiều phương diện, ở đây với đề tài
Đặc trưng truyện ngắn Lý Lan, chúng tôi tiếp cận thể loại trong phạm vi một tác
giả và tập trung vào phương diện đặc trưng. Có thể nói, nội hàm của khái niệm đặc


trưng ở đây gần với khái niệm phong cách (style). Chúng tôi nghiên cứu phong cách
tác giả qua một thể loại cụ thể là truyện ngắn.
Việc nghiên cứu này đáp ứng nhu cầu trang bị những kiến thức về thể loại,
phong cách tác giả, vốn cần thiết cho công việc giảng dạy ở nhà trường phổ thông
của chúng tôi, đồng thời giúp chúng tơi hiểu sâu hơn về tính chất của đời sống văn
học và văn hóa Việt Nam đương đại, đặc biệt là văn học và văn hóa Nam Bộ.
1.4. Trên góc độ một cơng tình chun khảo hay một luận văn, đây là một
đề tài mới, hoàn toàn chưa có ai thực hiện. Chúng tơi nhận thấy, hiện nay những bài
nghiên cứu, phê bình về tác giả này chưa nhiều, chỉ có một số bài giới thiệu sách
trên báo, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu chun biệt về truyện ngắn Lý
Lan. Tìm đến văn xi Lý Lan, nhất là qua truyện ngắn của bà, tôi phần nào cảm
nhận được sâu sắc hơn những tâm tình của người phụ nữ, của tuổi trẻ miền
Nam…và hiểu thêm văn học miền Nam và những giá trị văn hóa Nam Bộ hiện đại
vẫn luân chảy, tiếp nối trong sáng tác của bà. Hơn nữa, là giáo viên giảng dạy ở
trường phổ thơng, việc tìm hiểu truyện ngắn Lý Lan đối với tơi có một ý nghĩa thiết
thực là qua đó, tôi đã được trang bị thêm những kiến thức cần thiết và bổ ích cho
việc giảng dạy truyện ngắn nói chung và các tác phẩm của nhà văn này nói riêng.
Những nguyên nhân trên là động lực khiến tôi muốn đi sâu vào nghiên cứu
những truyện ngắn của Lý Lan, cũng như muốn khẳng định sự đóng góp của bà cho
văn học Nam Bộ hiện đại nói riêng và văn học Việt Nam đương đại nói chung qua
đề tài Đặc trưng truyện ngắn Lý Lan.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nhà văn Lý Lan viết nhiều thể loại: Truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, tiểu
luận phê bình…nhưng gắn bó lâu dài và làm nên tên tuổi Lý Lan chính là ở thể
tài truyện ngắn. Trọng tâm khảo sát của luận văn là tồn bộ truyện ngắn của

Lý Lan, tính đến thời điểm hiện nay (10 - 2009) gồm 102 truyện ngắn, tập trung
trong các tập truyện đã xuất bản như: Cỏ hát, Chút lãng mạn trong mưa,
Truyện Nguyễn Hải Chí, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Lý Lan (in chung), Chiêm


bao thấy núi, Đất khách, Dị mộng, Quá chén, Người đàn bà kể chuyện, Hồi
xuân và các truyện ngắn đăng trên báo: Chàng nghệ sĩ, Sau buổi họp, Cái trở
mình trong đêm về sáng, Trích sổ chủ nhiệm, Một năm, Cha, con, thầy và trò;
Nắng buổi sáng, Đêm sao, Điện thoại, Đi du lịch, Đau tim.
Ngồi ra, chúng tơi tiếp cận thêm tác phẩm thuộc thể loại khác của Lý Lan:
 Một góc phố Tàu (tuyển tập truyện và ký)
 Chân dung người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh (chân dung văn học)
 Lệ Mai (tiểu thuyết)
 Khi nhà văn khóc (chân dung văn học)
 Dặm đường lang thang (ký)
 Sài Gòn – Chợ Lớn rong chơi (ký)
 Miên man tùy bút (tùy bút)
 Bày tỏ tình yêu (tùy bút)
 Tiểu thuyết đàn bà (tiểu thuyết)
 Là mình (Thơ)
Bên cạnh đó, chúng tơi cịn tìm hiểu các tài liệu lý thuyết về truyện ngắn và
đọc một số truyện ngắn của các nhà văn Việt Nam cùng thời có ít nhiều liên quan
với Lý Lan như Lưu Thị Lương, Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Trần
Thùy Mai, Dạ Ngân, Lê Minh Khuê,…để so sánh nhằm rút ra đặc trưng của truyện
ngắn Lý Lan.
3. Lịch sử vấn đề
Cho đến nay chưa có cơng trình nghiên cứu chun biệt về truyện ngắn Lý
Lan ngoài những bài giới thiệu thay cho lời tựa các tập truyện ngắn, những bài
điểm sách, những bài phỏng vấn đăng rải rác trên các báo. Cụ thể là:



Trên báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 253, ra ngày 3-12-1982,
Nguyễn Thu Hương có bài “Đọc “Bụi phấn” nghĩ về những nhà giáo trẻ”. Tác giả
bài báo đã đề cập một truyện ngắn của Lý Lan viết về đề tài nhà giáo: “Trong
“Trích sổ chủ nhiệm”, Lý Lan đã phê phán cái quan niệm lỗi thời chỉ cần biết “lên
lớp là đủ”, cũng như thái độ “khéo léo che đậy khuyết điểm, thổi phồng thành tích”
cịn hậu quả như thế nào thì mặc kệ. Nhà trường xã hội chủ nghĩa không thể chấp
nhận những quan điểm, thái độ như vậy. Người thầy giáo muốn làm tốt nhiệm vụ
“trồng người”, ngồi những giờ lên lớp ra, cịn cần “phải đi sát từng em, phải cẩn
thận trong mỗi lời nói, hành động của mình”, phải hướng dẫn cho các em trở nên
những con người có những phẩm chất đạo đức trong sáng, những tình cảm cao
thượng, biết “phân biệt sự giả dối, lừa bịp là sai và dám đấu tranh cho điều mình
tin là đúng”.
Trên báo Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh, số 24, ra ngày 15- 06 -1985,
Nguyễn Thị Thanh Xuân có bài viết: “Về những cây bút nữ thành phố Hồ Chí
Minh”. Đặt Lý Lan bên cạnh nhưng cây bút nữ trẻ của thành phố, Nguyễn Thị
Thanh Xuân đã nhận xét: “Lý Lan là cây bút sớm được dư luận chú ý. Với cách viết
giản dị mà linh hoạt, đậm đà chất Nam Bộ, Lý Lan thể hiện phong cách của mình
ngay từ tác phẩm đầu tay” [115, tr. 203].
Cũng trong năm 1985, trong tập tiểu luận và phê bình “Những trang viết,
những nhịp cầu”, Nxb Mũi Cà Mau, Nguyễn Thị Thanh Xuân có bài “Truyện ngắn
viết về cuộc sống và con người thành phố Hồ Chí Minh (1975-1985)”. Trong bài
này, bên cạnh nói về những ưu điểm về nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn
thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị Thanh Xn cịn nhận định về những hạn chế
của truyện ngắn giai đoạn này “…Một vài truyện trong khi khắc họa tính cách nhân
vật chỉ mới dừng lại ở một vài hiện tượng không cơ bản và vội vàng kết luận nên
sức thuyết phục của chủ đề cũng giảm đi nhiều (Qua đèo của Lý Lan)” [115, tr.217]
Năm 1994, cũng trên báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, ra ngày 18-081994, Nguyễn Thị Thanh Xn có bài phê bình“Hai cây bút nữ một tập truyện”, về
tập truyện ngắn Cỏ hát ( in chung của Lý Lan, Trần Thùy Mai). Bên cạnh giới thiệu



với độc giả cây bút trẻ Lý Lan đầy tiềm năng, bài viết còn ghi nhận ba phương diện
trong truyện ngắn Lý Lan: Thứ nhất là Cảm hứng nghệ thuật: “Cảm hứng chủ đạo
bao trùm lên toàn bộ truyện ngắn Lý Lan là từ chỗ đứng hơm nay, tìm hiểu về cuộc
chiến đấu vĩ đại đã qua của nhân dân ta với lòng biết ơn sâu sắc”; thứ hai là Nhân
vật: “Nổi lên trong truyện ngắn Lý Lan là bóng dáng của những cô gái, những
người phụ nữ lặng lẽ âm thầm đóng góp phần mình vào cơng cuộc xây dựng đất
nước sau hịa bình”, thứ ba là Phong cách “Trong những trang viết của cây bút
mới vào nghề như Lý Lan, chúng ta bắt gặp đây đó hình ảnh tác giả: Lý Lan đang
trong giai đoạn tự ngắm mình” [115, tr.197-198]. Về sau các bài viết này được đưa
vào tập tiểu luận và phê bình “Tiếng vọng những mùa qua”.
Năm 2001, Nhà xuất bản Hội nhà văn Hà Nội cho ra mắt độc giả quyển sách
“Một góc phố Tàu” do Vương Trí Nhàn tuyển chọn và viết phần giới thiệu. Đây là
bài viết công phu, mang những nhận định tổng quát nhất về văn xuôi Lý Lan (về
sau in lại trong tập phê bình “Cánh bướm và đóa hướng dương”) với những điểm
đáng chú ý: Trước hết là về Phong cách văn xi Lý Lan: “chính là nằm trong cái
mạch của văn xuôi Nam Bộ. Cây bút này đã tiếp nhận một cách hồn nhiên kinh
nghiệm của người đi trước, để rồi, trong hồn cảnh của mình, them vào đó những
sắc thái mới, làm nên một giọng điệu mới… là một tiếng nói điềm đạm, khơng làm
điệu làm ồn, tự tin ở sự tồn tại của mình, do đó là một tiếng nói dễ gần, dễ thơng
cảm…chị đã viết được đều, viết nhanh, viết khỏe, có thể tin là trước mắt chúng ta,
một phong cách đã hình thành, một mạch văn đã khơi nguồn và đang chảy xiết, chứ
không phải một sự “viết cho vui”hoặc ghe qua nghê nghiệp chốc lát rồi lại bỏ”.
[89, tr.12].
Về nhân vật, Vương Trí Nhàn đã chỉ ra: “Ngồi những ơng già tốt bụng,
những em nhỏ dễ thương…có một loại nhân vật thường trở đi trở lại trong văn xi
Lý Lan , đó là những cô gái trẻ…Họ giữ được nhẫn nại và chịu đựng. Họ giữ được
bình tĩnh để lắng nghe và phân tích đời sống” [89, tr.8-9].
.



Về nghệ thuật, Vương Trí Nhàn đã nhận định: “trên một số phương diện
văn xi Lý Lan đã có được dáng vẻ hiện đại. Chất hiện đại này trước tiên bắt
nguồn ở một cảm giác tự do và sự âm thầm tìm kiếm khơng chịu bó mình trong
những khn khổ có sẵn. Khi chuyển thành hình thức, chất hiện đại này bộc lộ rõ
nhất qua lối tự sự đứt nối, bột phác, mà người ta tìm thấy trong một số thiên truyện
như Dị mộng, Những viên sỏi cầm chơi, Biển trong mưa, Cơng tử vườn…”[89,
tr.12-13].
Ngồi ra, Vương Trí Nhàn có một nhận định rất đáng chú ý về một mảng đề
tài nổi bật trong văn xuôi Lý Lan: “Riêng với Lý Lan, do hoàn cảnh riêng là lớn lên
ở một miền đất mà người Hoa sinh sống tập trung, chị lại có dịp nói kỹ về sinh hoạt
của cộng đồng này, từ chuyện làm ăn, một tiệm chạp phô, tiệm nước, tới việc viết
chữ ghi lại bút tích ngày xuân…với những con người bảo ban nhau làm ăn, những
con người nghèo nghèo, tội tội, đang vật lộn kiếm sống và tìm cách thích nghi với
mảnh đất mới” [89, tr.15].
Năm 2002, Nhà xuất bản Văn học ra mắt độc giả “Truyện ngắn bốn cây bút
nữ” do Bùi Việt Thắng tuyển chọn và giới thiệu. Trong bài viết “Tứ tử trình làng”,
Bùi Việt Thắng phác vẽ đôi nét về cây bút truyện ngắn Lý Lan: “Lý Lan thuộc số
không nhiều những nhà văn tạo nên được nhữn đối thoại hay trong truyện ngắn”.
Ông cũng nhận xét về nghệ thuật: “Truyện ngắn Lý Lan vừa như cái gì liên tục mà
đứt đoạn, mơ hồ mà rõ ràng – có thể đó là lối viết dựa vào dịng ý thức. Lý Lan
khơng q chun chú, miêu tả chính xác các hiện tượng đời sống mà thường cố
gắng “ướm” mình vào nhân vật và hay “giả sử” để xử sự trong mọi trường hợp”.
Năm 1991, Nhà xuất bản Trẻ thành phố Hồ Chí Minh in tập truyện ngắn
“Chiêm bao thấy núi” của Lý Lan với “Lời giới thiệu” của nhà văn Sơn Nam. Ông
ghi nhận: “Cảm tưởng của tôi khi đọc Lý Lan là cảm tưởng khi ngắm xem những
tranh thủy mặc và những bức sơn mài mới lạ. Chập chờn nhưng rõ nét, đơn giản
nhưng phức tạp, làm nét đơn sơ nhưng không bừa bãi”. Ngồi ra, Sơn Nam cịn
nhận xét về nhân vật trong truyện ngắn Lý Lan “Tơi thấy bóng dáng những người
thường dân ngồi ăn bữa cơm trưa bên lề đường hoặc dừng chân, uống ly nước mía,



ăn trái ổi, trái mận. Cái tươi trẻ, cái bình dân và dân chủ và sự ranh mãnh của
những cô gái trẻ Sài Gịn xưa và nay. Nhất là có phẩm cách”. [85, tr.4].
Năm 1999, báo Sài Gịn giải phóng thứ bảy, số 444 (14-08-1999) đăng
truyện ngắn Núi không của Lý Lan cũng với lời giới thiệu của Phan Thị Vàng Anh.
Phan Thị Vàng Anh nhận xét về tập truyện Dị mộng của Lý Lan như sau: “14
truyện viết trong khoảng hai năm,… chị đã làm được cái việc rất khó trong viết lách
là “làm mới mình”, làm được một cuộc “cách mạng” nho nhỏ với mình”
Trên báo Sài Gịn giải phóng số ra ngày 25/04/2000, ở mục “Đọc sách”,
Thanh Nguyên có bài “Quá chén và những tâm cảnh”. Thanh Nguyên đã nhận xét
về nội dung tập truyện “Quá chén” của Lý Lan: “Là những tâm cảnh với mối giằng
xé nội tâm giữa “điều muốn làm”và điều “được phép làm” của từng con người,
từng nhân vật mang tính chất mơ tả hiệu ứng của thời đương đại…của hội chứng đô
thị hóa,…và phát hiện ra những bi kịch nhiều màn về sự khơng hồn thiện của con
người và cuộc sống”. Tác giả bài báo cũng nhận xét: “Truyện ngắn mới của chị
đầy ắp thông tin mang nội dung cảnh báo thú vị, được kể một cách lững thững mà
nghe khúc chiết, hóm hỉnh lại có vị chua cay”.
Cùng năm 2000, Báo Thanh niên số 69/2000 trong mục “Đọc sách”, có bài
“Góp nhặt những nỗi buồn” của Ngô Thị Kim Cúc. Tác giả bài báo đã nhận xét
về tập truyện ngắn Quá chén của Lý Lan: “Chỉ trong 114 trang sách, cuộc sống
thành thị hiện lên một cách sống động với bao nhiêu loại người cùng tâm trạng, số
phận của họ. Bằng những câu văn ngắn không chút cầu kỳ, bằng kết cấu truyện
giản dị nhưng hiện đại, Lý Lan làm chủ ngịi bút của mình một cách bản lĩnh”.
Năm 2002, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh ra mắt bạn đọc cơng
trình “Thơ văn nữ Nam Bộ thế kỉ XX” do nhóm nghiên cứu Nguyễn Kim Anh,
Vũ Ngọc, Hà Thanh Vân và Hoàng Tùng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Người
biên soạn cơng trình này đã nhận xét: Lý Lan “viết nhiều về người Hoa, về con
cháu của một dân tộc đã sinh sống gắn bó , hịa nhập với mảnh đất này từ bao đời
nay …nhưng không thấy hiển hiển nỗi niềm xa xứ, nỗi sầu mênh mang của một

người xa lạ, “thiếu quê hương”(chữ dùng của Nguyễn Tuân), hay u trầm, huyền bí,


mà chỉ thấy vẻ hiền lành, đơn sơ, mộc mạc của một cộng đồng người giàu đức tính
chia sẻ và cảm thông.” Trong phần giới thiệu, các nhà soạn sách cũng khái quát về
phong cách Lý Lan: “không chủ tâm đi tìm một sự “lạ hóa”trong cả nội dung và
hình thức tác phẩm của mình. Chị viết dung dị, khơng gọt giũa , khơng trau chuốt,
khơng cầu kì chữ nghĩa. Đọc văn chị, chúng ta có cảm tưởng như xem một người
cầm bút thờ ơ ghi lại những mẩu chuyện đời. Nhưng đằng sau vẻ thờ ơ ấy là một sự
sắc sảo, thơng minh thầm lặng, phải chăng đó là phong cách viết riêng có của Lý
Lan, khiến cho đọc giả không dễ lẫn lộn chị với những giọng văn khác”[4, tr.686].
Năm 2006, Nhà xuất bản Giáo dục thành phố Hồ Chí Minh in lại tập truyện
ngắn Chiêm bao thấy núi của Lý Lan bằng song ngữ Pháp Việt, vẫn giữ lời giới
thiệu của Sơn Nam như khi tập truyện này in lần đầu tiên năm 1991 và thêm vào bài
giới thiệu của dịch giả Marina Prevot. Theo Marina Prevot nhận định: “Khơng có
những mánh kh, tình tiết éo le vì vậy mà 10 câu chuyện thành ra nhẹ nhàng trong
đó các nhân vật có vẻ như cam chiụ số phận, các lời đối thoaị bị chia cắt bởi các
khoảng lặng như diễn đạt những rạn nứt bên trong những nhân vật đánh mất
phương hướng. Chính bởi sự giữ gìn ý tứ, sự kiềm lòng, kiềm lời của họ mà những
câu chuyện rất giản đơn này khiến chúng ta nhận ra một mặt khác cuả xã hội Việt
Nam đang rùng rùng chuyển mình” [102, tr.13].
Trên mạng internet tại trang: www.vietnamlit.org.com, LiLy Chiu thực
hiện phỏng vấn trực tiếp và viết bài giới thiệu về văn phong và các sáng tác của Lý
Lan với ba truyện ngắn cụ thể: Con ma, Chị ấy lấy chồng chưa?, Tai nạn.
Về các cơng trình nghiên cứu chun sâu, chúng tơi nhận thấy có một số
nhận định, đánh giá có liên quan đến truyện ngắn Lý Lan:
Năm 2002, Hồ Thị Liễu thực hiện luận văn thạc sĩ với đề tài: “Khảo sát
truyện ngắn của các nhà văn nữ từ 1986 đến 1996” tại trường Đại Học Khoa Học
Xã Hội Và Nhân Văn. Luận văn cung cấp một cái nhìn hệ thống về truyện ngắn nữ
Việt Nam 10 năm thời kì đổi mới, bước đầu đưa ra những nhận định về nội dung,

nghệ thuật và đóng góp của các nhà văn nữ. Trong luận văn có đề cập đến truyện
ngắn Lý Lan. Đặc biệt tác giả luận văn có phân tích truyện ngắn Diễn viên hạng ba


khi đề cập đến đề tài gia đình trong truyện ngắn nữ giai đoạn 1986- 1996 như sau:
“Tình cảm cha con có thể dung đồng tiền mua được. Người bố của những đứa con
trong Diễn viên hạng ba của Lý Lan là một trường hợp như thế…”.
Năm 2003, cũng tại trường Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn Thành
phố Hồ Chí Minh, Hồng Thị Hồng Hà thực hiện luận án tiến sĩ với đề tài: “Những
đặc điểm của văn xuôi nghệ thuật những năm 80 – đầu những năm 90”. Khi
trình bày về những đổi mới trong kết cấu cốt truyện của văn xuôi Việt Nam giai
đoạn 1980 -1990, Hồng Thị Hồng Hà có sử dụng truyện ngắn Ngựa ô của Lý Lan
để làm dẫn chứng minh họa.
Năm 2007, trong luận văn thạc sĩ bảo vệ tại trường Đại học Sư phạm thành
phố Hồ Chí Minh nghiên cứu về đề tài: “Người phụ nữ hiện đại trong sáng tác
của các cây bút nữ, Trần Thùy An có đề cập đến một số mặt sau trong truyện ngắn
của Lý Lan: Về điểm nhìn trần thuật, nghệ thuật xây dựng đối thoại và hình ảnh
người phụ nữ hiện đại qua hai truyện ngắn Tai nạn, Mẹ và con trong luận văn.
Năm 2008, Kênh VTV3 của Đài truyền hình Việt Nam phát sóng vào sáng
Chủ nhật ngày 9/3/2008 trong chương trình Văn hóa, sự kiện và nhân vật, phóng
viên Mỹ Linh đã thực hiện phỏng vấn Lý Lan. Trong chương trình này, người đọc
được gặp gỡ Lý Lan tâm sự về một điều có liên quan đến sáng tác như thế giới nhân
vật, đề tài sáng tác…
Ngồi ra, chúng tơi nhận thấy một số bài phỏng vấn trên truyền hình và trên
các báo, viết về sáng tác của Lý Lan nhưng tập trung ở các mảng kí, tiểu thuyết và
dịch thuật tập truyện Harry Potter. Nhưng các bài báo đó khơng phù hợp với phạm
vi nghiên cứu của đề tài nên chúng tơi khơng trích dẫn ở đây.
Tóm lại, trên đây chúng tơi đã điểm lại những nội dung chính của lịch sử
nghiên cứu vấn đề về Truyện ngắn của Lý Lan. Từ đó có thể thấy rằng, những
nghiên cứu về sự nghiệp văn học của Lý Lan, nhất là truyện ngắn trong suốt mấy

chục năm qua vẫn cịn rất ít, đa số chỉ dừng lại ở những bài báo lẻ, những bài giới
thiệu thay cho lời tựa hoặc một vài nhận xét chung, chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu cơng phu và tồn diện. Do đó, chúng tơi ghi nhận, tham khảo và học hỏi


những ý kiến trên, đồng thời bổ sung và đi đến hoàn thiện đề tài Đặc trưng truyện
ngắn Lý Lan.
4. Đóng góp của luận văn
- Qua luận văn, trước hết, chúng tơi cố gắng trong khả năng giới hạn của
mình, giới thiệu những quan niệm về đặc trưng truyện ngắn.
- Qua việc tập hợp những truyện ngắn của Lý Lan in trên các sách báo, chúng
tôi cung cấp những thông tin về tác giả và tái hiện lại quá trình sáng tác của nhà văn
Lý Lan.
- Luận văn đi vào xác định những đặc trưng truyện ngắn Lý Lan về hai mặt
nội dung tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện, từ đó đưa ra những nhận định và lý giải
truyện ngắn Lý Lan.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp so sánh: là phương pháp chính, so sánh sáng tác truyện ngắn
của Lý Lan trong từng giai đoạn, so sánh truyện ngắn Lý Lan với các sáng tác của
các nhà văn nữ cùng thời và các cây bút truyện ngắn Việt Nam đương đại khác,
nhằm rút ra đặc trưng truyện ngắn Lý Lan.
Phương pháp nghiên cứu thi pháp học: giúp chúng tôi khảo sát sâu văn
bản truyện ngắn của Lý Lan, nhằm rút ra những đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn
Lý Lan.
Phương pháp tiếp cận văn bản trên góc độ xã hội - văn hóa: Chúng tơi
đặt văn học trong mối tương quan với các yếu tố xã hội, văn hóa. Muốn tìm hiểu nội
dung của truyện ngắn Lý Lan, chúng tôi không thể không đối chiếu văn học trong
bức tranh đời sống xã hội và văn hóa Nam Bộ nhằm lý giải đặc trưng truyện ngắn
Lý Lan.



Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: kết hợp phỏng vấn trực tiếp với những
điều Lý Lan trả lời phỏng vấn trên các Báo, Đài truyền hình, chúng tơi tìm hiểu
thêm về cuộc đời, tư tưởng và quan niệm sáng tác của nhà văn.
Phương pháp phân tích - tổng hợp: giúp chúng tôi tiếp cận, khảo sát trực
tiếp văn bản để từ đó đưa ra những luận điểm khái quát của luận văn.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm có 176 trang. Ngoài phần Mở đầu (11 trang) , Kết luận (2 trang) và
Tài liệu tham khảo (6 trang), kèm theo phần Phụ lục (9 trang), phần nội dung chính
của luận văn (148 trang) gồm có ba chương như sau:
Chương 1: Truyện ngắn và hoạt động văn chương của Lý Lan
Trong chương này, chúng tôi giới thuyết và khái quát đặc trưng truyện ngắn, giới
thiệu về hoạt động văn chương của Lý Lan.
Chương 2: Con người trong truyện ngắn Lý Lan
Từ nhân vật, chúng tôi tiếp cận nội dung truyện ngắn Lý Lan.
Chương 3: Truyện ngắn Lý Lan: những đặc trưng về nghệ thuật
Riêng chương cuối, chúng tôi đi vào làm rõ những nét đặc trưng về nghệ thuật của
truyện ngắn Lý Lan.


Chương 1

TRUYỆN NGẮN VÀ HOẠT ĐỘNG VĂN CHƯƠNG
CỦA LÝ LAN
1.1. Truyện ngắn
1.1.1. Khái niệm
Trước khi nghiên cứu truyện ngắn Lý Lan, chúng tôi muốn giới thuyết qua
về thể loại, cụ thể là xác định khái niệm và đặc trưng của truyện ngắn, bởi vì việc
xác định ranh giới của truyện ngắn so với các thể loại tự sự khác là điều rất cần

thiết.
Dù xuất hiện muộn và chưa có một hệ thống lý luận riêng như tiểu thuyết,
truyện ngắn cũng đã được đề cập nhiều trong các sách văn học trên thế giới cũng
như tại Việt Nam.
Theo định nghĩa trong từ điển nước ngồi (Encyclopedia Britannica):
“Truyện ngắn thuộc nhóm tác phẩm hư cấu và thường được viết bằng văn xuôi
dạng trần thuật (Brief fictional prose narrative). Phương thức này có xu hướng đi
vào trọng tâm rõ nét hơn các dạng hư cấu khác như tiểu thuyết ngắn (theo khái
niệm của thế kỷ XX và XXI), tiểu thuyết hay sách.
Truyện ngắn có nguồn gốc từ truyền thuyết và giai thoại truyền miệng, với
tình huống truyện được phác thảo và đi vào trọng tâm nhanh chóng. Do sự phát
triển đáng kể của tiểu thuyết thực tế, các truyện ngắn thu hẹp lại giống như một hồi,
ví dụ tiêu biểu nhất là các câu chuyện như của E.T.A. Hoffmann…
Truyện ngắn có khuynh hướng ít phức tạp hơn tiểu thuyết dài. Thông thường
truyện ngắn chỉ tập trung vào một biến cố, cốt truyện đơn giản, bối cảnh đơn giản,
số lượng nhân vật ít, trong khoảng thời gian ngắn.
Ở dạng hư cấu dài hơn, các câu chuyện có khuynh hướng chứa đựng các yếu
tố kịch nghệ: sự phơi bày (giới thiệu bối cảnh, tình huống và nhân vật chính), sự


phức tạp (sự việc dẫn đến xung đột); hành động trỗi dậy, khủng hoảng (thời điểm
quyết định của nhân vật chính và vai trị của anh ta trong mạch diễn biến); đỉnh
điểm (là thời điểm cao trào trong quá trình xung đột); giải pháp (thời điểm xung
đột được giải quyết), và bài học luân lý.
Tuỳ theo độ dài mà truyện ngắn có thể theo hoặc khơng theo mơ hình này.
Một số truyện hồn tồn bỏ qua khn mẫu… Ví dụ các truyện ngắn hiện đại đơi
khi chỉ có sự phơi bày. Điển hình hơn nữa là sự mở đầu bất ngờ với câu chuyện bắt
đầu từ phần giữa của hành động (in medias res). Cũng như các truyện dài, các
truyện ngắn đều có cao trào, khủng hoảng, hoặc bước ngoặt. Tuy nhiên, phần kết
của nhiều truyện ngắn thường bất ngờ, bỏ ngỏ và có thể khơng có bài học ln lý

hay thực tiễn. Cũng như các hình thức nghệ thuật khác, đặc điểm chính xác của
truyện ngắn thay đổi theo từng tác giả.
Khi truyện ngắn có khuynh hướng truyền tải các bài học đạo đức, nó rơi vào
thể loại phụ gọi là Parables (ngụ ngôn) hoặc (Fables). Dạng truyện này được các
lãnh tụ tinh thần hay tôn giáo sử dụng để truyền cảm hứng, khai sáng, giải trí và
giáo dục cho môn đồ”. [13, Hồ Kim Phụng dịch].
Từ điển thuật ngữ văn học thì cho rằng: “Khác với tiểu thuyết, là thể loại
chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và tồn vẹn của nó, truyện ngắn
thường hướng đến việc khắc họa một hình tượng, phát hiện một nét bản chất trong
quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người” [29, tr.371].
Theo các nhà biên soạn sách “Lí luận Văn học”, là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ,
“Truyện ngắn đích thực xuất hiện tương đối muộn trong lịch sử văn học. Tác giả
truyện ngắn thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất
trong quan hệ con người hay đời sống tâm hồn con người” [79, tr.397]. Theo cách
tìm hiểu dựa trên mối tương quan giữa truyện ngắn và tiểu thuyết thì truyện ngắn
mang tính đơn nhất trong việc xây dựng tình huống truyện, nhân vật và chủ đề. Nội
dung phản ánh của truyện ngắn chỉ nên là một vấn đề của đời sống, của con người,
không nên ôm đồm nhiều chủ đề như tiểu thuyết. Do đó, người viết cần tạo cho mỗi
truyện ngắn một độ căng nhất định, còn độc giả thì đọc truyện ngắn theo cách đọc


liền một mạch không nghỉ cho đến khi kết thúc. Điều này được nhà văn Trung Mỹ,
Juan Bosch khẳng định: “Truyện ngắn là sự trình bày một sự kiện nào đó đáng chú
ý. Cố nhiên, sự kiện chỉ có thể quan trọng tới mức nào đó nhưng nó cần được độc
giả tin cậy” và “Nghệ thuật viết truyện ngắn nằm ở chỗ biết nhìn ra một sự kiện, cả
quyết đi thẳng tới nó, khơng dừng lại ở những chi tiết người viết bắt gặp giữa
đường. Tất cả các chi tiết phù trợ đó phải phục tùng cho sự kiện trung tâm” [88,
tr.116].
Truyện ngắn thế giới phong phú và đa dạng. Các nhà văn từng sáng tác
truyện ngắn đã có những suy nghĩ về truyện ngắn khác nhau. Đáng chú ý là lời bàn

luận của Konstantin Paustovski: “Truyện ngắn là một truyện viết ngắn gọn, trong
đó cái khơng bình thường hiện ra như một cái gì bình thường, và cái gì bình thường
hiện ra như một cái gì khơng bình thường” [88, tr.129]. Cách hiểu này có sự gặp gỡ
với ý kiến của nhà văn Mỹ, Truman Capote về truyện ngắn: “Đó là một tác phẩm
nghệ thuật có bề sâu nhưng lại không được dài” [88, tr.108]. Xuất phát từ dung
lượng tác phẩm, cả hai cây đại thụ truyện ngắn thế giới đều khẳng định truyện ngắn
phải ngắn gọn, hơn thế nữa, truyện ngắn phải là thứ để kể và để nghe. Đọc truyện
ngắn là được tiếp xúc với một vấn đề của đời sống con người thơng qua lăng kính
của người kể chuyện. Điều này chứng tỏ truyện ngắn ra đời trong tình huống mà
nhà văn đã hội tụ được sức sáng tạo dồi dào, chín tới và có nhu cầu chia sẻ điều tâm
huyết của mình với độc giả, nghĩa là điều nhà văn muốn nói phải thành một câu
chuyện, phải đem lại một hiệu quả, một ấn tượng cho người đọc bằng dụng cơng kỹ
thuật viết, bằng trí tưởng tượng của nhà văn ít nhiều dựa trên cái cái gốc rễ của đời
sống con người.
Một truyện ngắn hay có thể ví như “Một thứ quả có nhiều vỏ, luôn làm cho
đứa trẻ háu ăn bị “nhỡ tàu”. Mỗi lần bóc ra một lớp vỏ, người đọc thở phào thế là
xong mọi chuyện, chắc là không phải chờ đợi gì nữa, thì một lớp vỏ khác lại hiện
ra” [88, tr.117]. Cũng chính Juan Bosch nêu lên đặc trưng ngắn gọn là quy luật của
việc cấu tạo tác phẩm: “Truyện ngắn đóng vai trị như vai trị của hổ báo trong đại
gia đình các lồi vật. Ở lồi thú dữ này, khơng được có chút mỡ thừa dính vào mọi


cơ bắp, nếu không chúng không thể săn mồi được”. Những ý nghĩ về truyện ngắn
như vậy được Nguyễn Minh Châu tán đồng khá hình tượng: “Truyện ngắn như mặt
cắt giữa một thân cây cổ thụ, chỉ liếc qua những đường vân trên thân gỗ tròn tròn
kia, dù sao trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời thảo mộc”[14, tr.45]. Từ đó, chúng ta
nhận thấy vấn đề sáng tạo truyện ngắn và vai trò của nhà văn. Truyện ngắn đòi hỏi
ở người viết cách tổ chức tác phẩm hết sức nghiêm nhặt, tuân thủ theo dung lượng
tác phẩm quy định. Tiểu thuyết mô tả cả cuộc đời con người nên nhà văn có thể viết
dài, kể nhiều đoạn phụ, cịn với truyện ngắn thì nhà văn phải lao động cật lực ngay

từ câu mở đầu và có một kế hoạch tính toán kỹ lưỡng, sát sao từ việc lựa chọn cốt
truyện, chi tiết, miêu tả nhân vật, sự kiện, giọng điệu kể chuyện sao cho đạt được
hiệu quả cao nhất về nghệ thuật và tư tưởng. Trong cách hiểu truyện ngắn này,
chúng ta cũng nhận thấy khả năng lớn lao có thể nói là vơ tận của truyện ngắn khi
nó đem lại cho người đọc sự liên tưởng lớn hơn số lượng câu chữ hạn hẹp. Đọc
truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam, chúng ta không chỉ dừng lại ở cái khoảnh
khắc ngày tàn và đêm tối ở phố huyện, ở tâm trạng hai đứa trẻ mà là cả niềm hồi
vọng của đời người. Đâu chỉ có một chuyến tàu đêm cụ thể qua phố huyện, chuyến
tàu trong truyện ngắn này còn là niềm mong đợi của mỗi con người trên thế gian
cho hành trình sống của mình.
Với khả năng lớn lao và nhiều triển vọng như thế, truyện ngắn đã mở rộng
giới hạn của nó. Truyện ngắn ngày nay khơng cịn bó buộc vào khn mẫu gị bó
nào: “Đây là một thể tài hết sức năng động, phản ứng rất nhanh, dễ điều chỉnh, và
mau thu được kết quả. Đó là một thứ ruồi dấm, trong đó, có thể dễ dàng theo dõi
các quy luật sáng tạo của nhà văn, cũng là theo dõi việc giải quyết những vấn đề
được đề cập tới” (Kuranơp) [88, tr.144]. Hiện nay có truyện ngắn gần với thơ,
truyện ngắn rất ngắn, truyện ngắn gần với kịch, truyện ngắn tiểu thuyết hóa…Tính
nhanh nhạy và thích ứng cơ động của truyện ngắn đã đưa truyện ngắn đi xa hơn sự
mong đợi của nhiều người. Những truyện ngắn giàu chất thơ đem đến cho văn xuôi
sự nồng ấm, mềm mại hơn. Những truyện ngắn giàu kịch tính giúp truyện ngắn sắc
nhọn hơn khi phản ánh các vấn đề xã hội, hoặc loại truyện ngắn rất ngắn thì thật sự


phù hợp với đời sống hiện đại mà vẫn chuyên chở được tâm tư tình cảm con người
ở nhiều góc độ khác nhau.
Qua việc tìm hiểu một số quan niệm về truyện ngắn của các nhà văn trong
và ngoài nước, chúng ta nhận thấy truyện ngắn là một thể tài mà “hình thức nhỏ”
nhưng “khơng có nghĩa là nội dung không lớn lao” [88, tr.124]. Được sinh ra từ
những câu chuyện kể hằng ngày rất tự nhiên, truyện ngắn hình thành và phát triển
vượt bậc với sức mạnh dẻo dai phi thường qua sự sáng tạo của nhiều thế hệ nhà văn.

Đến nay truyện ngắn đã khẳng định vị trí của mình trong hệ thống thể loại tự sự của
văn học thế giới. Những khái niệm về truyện ngắn như trên đã phần nào giúp chúng
ta đi vào tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn.

1.1.2. Đặc trưng
1.1.2.1 Đặc trưng cơ bản nhất của truyện ngắn chính là tính chất ngắn gọn,
cơ đúc bắt nguồn từ dung lượng của tác phẩm. Trong mối tương quan với truyện
vừa, tiểu thuyết, truyện ngắn nổi bật lên ở dung lượng “ngắn”. Ngay bản thân thuật
ngữ “truyện ngắn” trong tiếng Việt đã nói rõ điều này. Tác phẩm truyện ngắn phải
có sự quy định về khối lượng câu chữ “ngắn” trong nội dung phải có “truyện”.
Nhà văn Antơnơp cho rằng:“Chính việc truyện ngắn phải ngắn khiến cho nó tự
phân biệt một cách dứt khốt và rành rọt bên cạnh truyện vừa và tiểu thuyết” [88,
tr.179]. Nhà văn Tơ Hồi cũng cho rằng “Truyện ngắn chính là cưa lấy một khúc
của đời sống” [88, 9]. Như vậy, dung lượng “ngắn” vừa là khối lượng câu chữ vừa
là nội dung phản ánh của truyện ngắn, đồng thời còn là quy tắc sáng tạo của nhà
văn. Đọc một truyện ngắn, độc giả phải khám phá được ít nhất một vấn đề về cuộc
sống, về nhân sinh, được bồi đắp thêm mỹ cảm cho tâm hồn. Tuy nhiên, cụ thể
“ngắn” như thế nào vẫn còn là vấn đề để mở, chưa ai đưa ra được giới hạn nhất định
cho độ dài của truyện ngắn. Theo nhận định của các nhà lý luận nước ngồi thì

“Xác định chính xác ranh giới giữa truyện ngắn và truyện dài là một vấn đề phức
tạp. Theo định nghĩa cổ điển truyện ngắn là truyện có thể đọc chỉ trong chốc lát,
một điểm được nhấn mạnh trong tác phẩm của Edgar Allan Poe's "The Philosophy
of Composition" (1846). Một số định nghĩa khác quy định số lượng từ ngữ tối đa là


khoảng 7000 đến 9000. Ta có thể tham khảo định nghĩa của hiệp hội Science
Fiction and Fantasy Writers of America trong phần hướng dẫn nộp bài dự thi giải
thưởng Nebula Awards đối với truyện ngắn thể loại khoa học viễn tưởng là số
lượng từ ít hơn 7500. Hiện nay định nghĩa truyện ngắn được dùng cho các tác

phẩm không dài quá 20,000 từ và không ngắn hơn 1000 từ. Các truyện ngắn hơn
1000 từ được gọi là “tiểu thuyết cực ngắn” hoặc “truyện rất ngắn” (flash fiction)
[13, Hồ Kim Phụng dịch].
Cô gọn trong truyện ngắn, cũng theo Antônốp, dung lượng truyện ngắn cổ
điển sẽ từ bảy, tám trang đánh máy. Thực tế sáng tác lại khác, ý kiến của Lê Huy
Bắc đáng để suy ngẫm: “Dung lượng truyện ngắn kéo dài từ vài chục chữ đến
20.000 chữ” [8, tr.28].
Như vậy, thể tài này không quy định nghiêm ngặt khối lượng chữ viết.
Truyện ngắn vẫn có độ co giản hợp lý, tùy theo nội dung tác giả chuyển tải sẽ có
hình thức phù hợp. Nhà văn William Saroyan cho rằng “Truyện ngắn đó là một cái
gì khơng cùng”, nghĩa là trong sự quy định của dung lượng, nhà văn có thể xoay sở
nhiều cách viết, có thể nói về mọi vấn đề của cuộc sống con người.
Phẩm chất “ngắn” của thể tài này gắn chặt với phương diện tồn tại của nó
là báo chí. Là thể tài “đích thực xuất hiện muộn trong lịch sử văn học” [79, tr.397],
cho nên mảnh đất báo chí phù hợp để truyện ngắn nảy lộc đâm chồi. Ở Mỹ, người ta
gọi đây là một “thể tài dân tộc”, vì phần lớn các tờ báo ở Mỹ đều có in truyện ngắn.
Tại Việt Nam, đa số các cây bút viết truyện ngắn như Nam Cao, Nguyễn Cơng
Hoan, Tơ Hồi, Nguyễn Quang Sáng, Lý Lan …đều có tác phẩm được in trên báo
trước, về sau mới tập hợp thành tập để xuất bản. Trong khuôn khổ quy định của các
cột báo, mỗi truyện ngắn chỉ được phép tồn tại theo khối lượng chữ nhất định.
Ngoài ra, người đọc báo cũng cần quan tâm nhiều đến thời gian. Để làm rõ điều
này, ý kiến của S. Maugham, nhà văn hiện đại người Anh lại rất gần gũi với ý kiến
E. Poe, nhà văn Mỹ, ở chỗ: “Truyện ngắn là một tác phẩm tùy dài ngắn, người ta
có thể đọc được trong mười phút hay một giờ, trong đó mọi việc chỉ liên quan đến
một đối tượng hay một trường hợp duy nhất, được xác định rõ ràng. Hoặc như mọi


chuyện có liên quan tới một loạt trường hợp khác nhau nữa, tất cả phải được phối
hợp lại trong một hình thức trọn vẹn. Truyện ngắn cần phải viết sao để người ta
khơng thể bổ sung thêm vào đó chút gì, cũng khơng thể rút ra bớt chút gì hết” [88,

tr.182]. Như vậy, thời gian cho phép là từ dăm bảy phút cho đến hơn một giờ đồng
hồ để có thể đọc một truyện ngắn là hoàn toàn phù hợp với phần đông công chúng
hiện đại. Xuất phát từ thực tế đời sống với gánh nặng công việc dồn dập, quĩ thời
gian hạn hẹp, nhu cầu thẩm mỹ của phần lớn độc giả hiện đại đã thúc đẩy truyện
ngắn trở thành thể văn được độc giả ưa chuộng hơn cả.
Chính dung lượng nhỏ đã đem lại cho tác phẩm truyện ngắn tính hàm súc
và cơ đọng. Truyện ngắn do đó thu dần khoảng cách để đến với thơ. Nhà văn Ái
Nhĩ Lan, Frank O’Connor rất ưa thích sáng tạo truyện ngắn vì cho rằng thể tài này
rất gần với thơ trữ tình. Nhà văn Kuranơp cũng tán đồng với ý kiến đó: “Việc xích
lại gần với thơ làm cho văn xuôi trở nên sâu sắc hơn, vừa dễ hiểu hơn, thứ dịng
chảy ngầm này cần cho mọi truyện ngắn…có thể ngắn gọn mà vẫn súc tích” [88,
tr.145]. Ma Văn Kháng khẳng định cái đức tính phải có của truyện ngắn là giàu chất
thơ, thứ “chất thơ chân thật” làm nên những truyện ngắn “có cái gì hơi hơi bay
một tí, không nên mơ màng quá mà trần trụi quá cũng khơng ổn” [88, tr.68]. Nhà
văn Vũ Thị Thường cũng nhìn nhận sáng tác truyện ngắn còn yêu cầu nhà văn nuôi
cảm xúc trong sáng tạo, điều mà tiểu thuyết không thể có được suốt chặng đường
dài từ lúc phơi thai cho đến đủ hình hài tác phẩm.
Ngắn gọn, cơ đúc, truyện ngắn yêu cầu nhà văn nắm chắc kỹ thuật của thể
loại qua những đặc trưng nghệ thuật biểu hiện riêng biệt như: tình huống truyện,
nhân vật, chi tiết nghệ thuật, kết cấu, lời văn nghệ thuật…
1.1.2.2 Đặc trưng thứ hai của truyện ngắn chính là tính nhất quán ở các
phương thức biểu hiện: tình huống truyện, nhân vật, giọng điệu, ngơn ngữ… Nếu
như tiểu thuyết mang tính tổng hợp thì truyện ngắn bộc lộ rõ nhất khuynh hướng
khắc họa “tính chất đơn nhất…về mặt chọn tình thế… giọng điệu…nhân vật…”.
[108, tr.379]. Nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương đã tổng luận như sau: “Có thể so
sánh việc đọc tiểu thuyết với một cuộc đi dạo xuyên qua những địa điểm khác nhau


và giả định có một lần âm thầm quay lại; cịn đọc truyện ngắn thì giống như leo lên
một ngọn đồi để thưởng lãm toàn cảnh thiên nhiên từ một độ cao”[101, tr.73]. Sự

so sánh hình tượng này giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn khi tìm hiểu những
biểu hiện nghệ thuật của truyện ngắn.
Cốt truyện là thành phần quan trọng, cốt yếu của tự sự, đặt biệt có vai trị
quan trọng trong truyện ngắn. S. Maugham đã từng cho rằng: “Nhà văn sống bằng
cốt truyện, y như họa sĩ sống bằng màu và bút vẽ vậy” [26, tr.16]. Điều này chứng
tỏ cốt truyện là nơi thử thách sự sáng tạo của nhà văn. Với chức năng chính là bộc
lộ các mâu thuẫn quan trọng trong đời sống, cốt truyện của truyện ngắn có thể được
khai thác từ các sự kiện có thật trong đời sống, từ các tác phẩm văn học, từ kinh
nghiệm sống của bản thân tác giả hoặc tưởng tượng hoàn toàn nhưng đều được nhào
nặn qua sự hư cấu nghệ thuật của nhà văn. Việc sáng tạo ra cốt truyện từ những sự
kiện trong đời sống của nhà văn khiến họ ngang hàng với công việc của những
người thợ làm ra ngọc quý.
Theo các nhà văn viết truyện ngắn, truyện ngắn thường có hai loại cốt
truyện là “cốt truyện sắc nhọn” và “cốt truyện tâm tình”. Truyện ngắn có “cốt
truyện sắc nhọn” là loại truyện mà nhà văn sáng tạo ra các cốt truyện li kì, hấp dẫn.
Nam Cao, Nguyễn Cơng Hoan, Tơ Hồi, Nguyễn Huy Thiệp…là những tác giả
thành công về loại truyện kể về một trường hợp đặc biệt nào đó. Truyện ngắn có
“cốt truyện tâm tình” là loại truyện mà dường như khơng chuyện gì xảy ra, hoặc chỉ
kể về những sự kiện đơn giản, bình thường, khơng có mâu thuẫn gì đáng kể.
Paustovski, Thạch Lam, Nguyễn Thành Long, Đỗ Chu…là những nhà văn thành
công với loại truyện dường như chẳng có chuyện gì xảy ra quan trọng mà người đọc
vẫn thấy thích thú. Truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam là một tác phẩm
có cấu trúc phi cốt truyện, vì trong đó các sự vật, hiện tượng chỉ được liệt kê, sắp
xếp nhưng khơng có sự vận động, chuyển hóa nào. Nhà văn đã khai thác nét biến cố
tâm lý là lòng trắc ẩn, thương người của hai đứa trẻ để làm nét thi pháp cốt truyện.
So với tiểu thuyết, “cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một
thời gian, không gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra một điều gì


đó sâu sắc về cuộc đời, về tình người” [29, tr.371]. Nếu như tiểu thuyết cho phép

nhà văn tái hiện, xây dựng nhiều mâu thuẫn, nhiều xung đột trong cuộc sống với các
chiều kích khơng gian và thời gian mở rộng thì truyện ngắn lại tập trung vào một
khoảnh khắc trong cuộc đời nhân vật. Do đó, việc sáng tạo truyện ngắn yêu cầu nhà
văn phải tìm ra được một tình huống truyện.
Tình huống truyện là thời điểm một sự việc, một sự kiện xảy ra đối với
nhân vật, đưa nhân vật vào tình thế phải đầu đầu, phải bộc lộ tích cách và hành
động, tức là vấn đề chính của truyện ngắn được mở ra. Với mỗi truyện ngắn, cơ bản
nhất là người viết phải tìm ra, phải sáng tạo cho được một tình huống truyện, cái mà
các nhà nghiên cứu, các nhà văn nước ta gọi là “cái moment”, “cái tình thế”, “tình
huống” hay “cái phút chốc”. Nhà văn phải tạo ra tình huống sao cho “châu tuần lại
những con người vốn cách xa nhau, cho họ tham gia vào chủ đề giữa họ với nhau,
sẽ nảy ra tính cách của họ” [88, tr.52]. Vì vậy, nhân vật thường được đặt trong tình
huống đối diện với hồn cảnh hoặc đối diện với chính mình. Nói như Ngun Ngọc,
mỗi truyện ngắn phải “điểm huyệt hiện thực” bằng cách “mỗi truyện ngắn bao giờ
cũng được xây dựng trên một tình huống và khai thác tình huống đó” [108, tr.365].
Nhà văn xây dựng truyện ngắn thường trên cơ sở khai thác một mối xung đột, một
mâu thuẫn, một tan vỡ, một sai lầm hay một tương phản để tìm ra cái khoảnh khắc
giá trị cho truyện ngắn của mình. Truyện ngắn Cần Giuộc của Lý Lan đã tạo ra một
tình huống truyện độc đáo. Nhà văn triển khai câu chuyện từ một chuyến xe đị về
Cần Giuộc của một cơ giáo trẻ vừa ra trường, đi nhận nhiệm sở lần đầu tiên. Trên
chuyến xe này, cô chứng kiến bao mảnh đời khác nhau, cách cư xử của con người
với nhau, từ đó mà cơ gái nhận thức được cuộc sống quanh mình. Tương tự, truyện
ngắn Trăng nơi đáy giếng của Trần Thùy Mai, Sang sơng của Nguyễn Huy Thiệp,
Chiếc thuyền ngồi xa của Nguyễn Minh Châu…đều là những “mặt cắt của dòng
đời” mà mỗi nhà văn đã sáng tạo ra để góp một tiếng nói riêng của mình về cuộc
đời, về tình người.


Trong xây dựng truyện ngắn, việc tìm ra cốt truyện và tình huống truyện
chiếm hơn một nửa giá trị của truyện nhưng nhà văn còn đặc biệt chú ý đến hai yếu

tố quan trọng nữa là chi tiết và kết cấu tác phẩm.
Chi tiết chiếm dung lượng lớn trong truyện ngắn, vì nó sẽ góp phần cụ thể
hố cảnh trí, khơng khí, tính cách, hành động và tâm tư nhân vật. Tiểu thuyết trong
giới hạn rộng rãi của nó có thể chứa đựng nhiều cuộc đời, chứa đựng những suy tư
của nhân vật về thế giới, về đời người, về tồn bộ sự tồn tại của con người. Cịn
truyện ngắn thì khơng phải như vậy. Chính dung lượng ngắn đã buộc nhà văn khi
sáng tác phải tránh lối kể chuyện vịng vo, tránh những câu, những đoạn kể cho trơi
câu chuyện. Truyện ngắn ln địi hỏi nhà văn phải khơng ngừng sáng tạo trong
việc quan sát, tìm tịi, chọn lựa và xây dựng chi tiết nghệ thuật. Nhà văn Nguyễn
Công Hoan nhấn mạnh: “Cũng như muốn cái lò xo bật cao, ta phải dùng sức mạnh
ấn cái cần xuống, rồi hãy buông ra. Cho nên, muốm triển khai một ý, một vấn đề thì
tơi tìm những chi tiết để ấn cái lị xo tình cảm của độc giả xuống mạnh, rồi để cái lò
xo bật cao. Ở đây kinh nghiệm càng cho thấy rằng phải đặt được ý, được vấn đề thì
mới chọn đúng chi tiết cần thiết, khơng tham lam, khơng lơng bơng. Bố trí khơng
chặt, truyện ngắn khơng viết được ngắn” [108, tr.305-306]. Như vậy, chi tiết là nội
dung của truyện ngắn. Chính chi tiết sẽ cụ thể cho chủ đề chung mà tác giả muốn
diễn đạt. Nhà văn cần phải làm chủ ngịi bút của mình một cách thận trọng để tránh
đi trật hướng chủ đề đã chọn. Nhà văn chọn chi tiết nào thì chi tiết đó phải mang lại
ý nghĩa gì đối với sự phát triển của hành động trong truyện, tức là hướng đến cái
chủ đề mình đã định hướng. Nhà văn Vũ Thị Thường thì khẳng định vai trị của chi
tiết trong việc xây dựng nhân vật truyện ngắn như sau: “Truyện ngắn sống bằng
nhân vật, chi tiết chỉ có ý nghĩa khi góp phần tạo nên nhân vật” [88, tr.35]. Như
vậy, chi tiết vừa là phương tiện cho nhà văn khắc họa nhân vật vừa góp phần thể
hiện chủ đề, tư tưởng của truyện ngắn: “Trong truyện ngắn chính những chi tiết
sắc, đắt đến sợ như vậy làm nên cái ta vẫn thường quen gọi là nội dung hay tư
tưởng của truyện” .


Việc sử dụng chi tiết trong tác phẩm truyện ngắn còn thể hiện tài năng của
tác giả. A. Tsekhov đã khẳng định: “Trong việc miêu tả thiên nhiên, cần biết chọn

lấy những chi tiết có vẻ bé nhỏ, nhưng gộp chúng nó lại sao cho sau khi đọc, có thể
hình dung ra cả bức tranh” [88, tr.79]. Sự chọn lọc chi tiết trong truyện ngắn là rất
cần thiết, nếu nhà văn sử dụng quá nhiều chi tiết thì truyện ngắn sẽ ơm đồm, chồng
chất, ngược lại, thiếu chi tiết thì truyện ngắn khó thành cơng. Chi tiết hình thành do
q trình tích lũy của nhà văn trong cuộc sống. Họ cần có khả năng quan sát hiện
thực sâu sắc, tích lũy chi tiết, thậm chí ghi chép cẩn thận để khi nguồn cảm hứng
hình thành, khi nhà văn có nhu cầu sáng tác thì chi tiết đời sống mới có khả năng trở
thành chi tiết nghệ thuật. Quả đúng là với truyện ngắn, “những bậc thầy truyện
ngắn bao giờ cũng là những bậc thầy về chi tiết” [88, tr.73].
Sức hấp dẫn của truyện ngắn chính một phần là ở các chi tiết, đặc biệt là các
chi tiết điển hình sâu sắc trong truyện ngắn có vai trị quan trọng như mạch máu
nuôi cơ thể con người. Ấn tượng mà mỗi truyện ngắn đem lại chính là độc giả phát
hiện ra các chi tiết thú vị. Trên thực tế, có thể độc giả quên tên một truyện ngắn
nhưng họ vẫn có thể kể lại truyện ngắn đó qua các chi tiết tiêu biểu và ấn tượng.
Trong truyện ngắn Một bữa no của Nam Cao, chi tiết bà lão nghèo vì quá đói khổ
đã cố ăn những hạt cơm cịn sót lại trong nồi để rồi thổ tả mà chết, để lại những ấn
tượng lâu bền và giàu sức ảm ảnh trong lòng độc giả. Chi tiết quan huyện “ăn bẩn”
hai đồng hào lẻ của người dân nghèo đi kiện ngay tại chốn cơng đường trong truyện
ngắn Đồng hào có ma của Nguyễn Công Hoan đã để lại những dư vị ngậm ngùi
trong tâm hồn người đọc về thân phận người nông dân nghèo nước ta trước Cách
mạng.
Nhà văn Nguyễn Công Hoan đã từng định nghĩa “Truyện ngắn không phải
là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết” [88, tr.15]. Truyện ngắn có
thể thiếu một cốt truyện tiêu biểu nhưng bắt buộc phải có chi tiết, bởi lẽ “Truyện
ngắn khơng thể nghèo chi tiết. Nó sẽ như nước lã” (Nguyên Ngọc)[109, tr.370].
Chẳng hạn, khi chọn chi tiết giấc mơ thấy núi của cô gái trong truyện ngắn Chiêm
bao thấy núi, Lý Lan không đơn thuần là đưa một thơng tin về tín ngưỡng vào


truyện, nhà văn còn định hướng chủ đề tác phẩm: có những giai đoạn trong cuộc

sống, người ta khơng định hướng được cuộc đời mình, suy nghĩ của mình nên đơi
khi người ta phó thác cho những điều huyền hoặc. Cơ gái đi tìm câu trả lời cho giấc
mơ thấy núi này, chính là hướng đến việc cơ giải bày thái độ của mình về sự vơ tâm
của những người bạn thân trước cái chết của một người bạn gái khác.
Nhà văn khi sáng tạo truyện ngắn cũng rất chú ý đến cách tổ chức tác phẩm.
Kết cấu truyện ngắn do đó cũng đa dạng và phong phú như chính cuộc sống mn
màu trong thực tế. Truyện ngắn có thể được kết cấu xâu chuỗi theo trình tự thời
gian hoặc theo hành động sự kiện, kết cấu tâm lý, kết cấu lắp ghép hoặc kết cấu
đồng hiện. Nhìn chung thì các thủ pháp kết cấu trong truyện ngắn thể hiện cá tính
sáng tạo của nhà văn và quyết định sự thành công của truyện ngắn.
Trong cách xây dựng truyện ngắn, nhà văn cũng tập trung chú ý đến phần
mở đầu và đoạn kết của truyện, bởi vì truyện ngắn địi hỏi “khơng có cái gì được
thừa cũng y như trên một boong tàu quân sự, ở đó tất cả phải đâu vào đấy”
(A.Tsekhov) [88, tr.80]. Có vơ số cách mở đầu truyện ngắn. Nhưng quan trọng là
câu mở đầu phải “là một thứ âm chuẩn” giúp cho việc tạo nên âm hưởng chung cho
toàn bộ truyện ngắn. Nhà văn một khi đã tìm ra được cách vào truyện tức là họ đã
tìm ra cách dẫn câu chuyện đó theo một nhịp điệu riêng. Vì hướng tới hiệu quả tác
động duy nhất, truyện ngắn cũng cần phải xây dựng một đoạn kết độc đáo và ấn
tượng. Cách chấm dứt câu chuyện của mỗi nhà văn sẽ thể hiện tài năng sáng tạo của
họ. Trước đây, truyện ngắn thường kết thúc bằng một kết cục có hậu, giải quyết
hồn tồn các vấn đề. Truyện ngắn hiện đại thường chọn loại kết thúc mở, cũng có
thể gọi là kết thúc khơng có hậu. Câu chuyện dừng lại nhưng vấn đề, sự kiện, nhân
vật do nhà văn nêu ra vẫn ám ảnh, day dứt người đọc. Nhà văn không phải là người
hướng dẫn, “răn dạy” bạn đọc mà họ chỉ gợi ra vấn đề bằng cách kể câu chuyện đó,
cịn người đọc thì tiếp nhận câu chuyện như một cuộc đối thoại ngầm về cuộc sống
đang từng ngày biến động không ngừng. Tạ Duy Anh cho nhân vật của những
truyện ngắn Bước qua lời nguyền, Vòng trầm luân trần gian nổi loạn, Nguyễn
Minh Châu để Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát và Chiếc thuyền ngoài xa kết thúc



×