Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

(Luận văn thạc sĩ) một số biện pháp tăng cường hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại phục vụ phát triển kinh tế xã hội trên địa bà tỉnh kiên giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

ĐỒN ĐÌNH BA

LUẬNVĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2001


Ký hiệu viết tắt

KÝ HIỆU VIẾT TẮT

1. NHTM

:

Ngân hàng thương mại

2. TCTD

:

Tổ chức tín dụng

3. NHNN

:


Ngân hàng Nhà nước

4. NHCT

:

Ngân hàng công thương

5. NHĐT&PT

:

Ngân hàng đầu tư và phát triển

6. NHNT

:

Ngân hàng ngoại thương

7. NHNo

:

Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn

8. DNNN

:


Doanh nghiệp nhà nước

9. DNTN

:

Doanh nghiệp tư nhân

10. CIC

:

Trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro của NHNN

11. SXKD

:

Sản xuất kinh doanh

12. AMC

:

Công ty quản lý nợ

13. SIBOR

:


Lãi suất bình quân liên ngân hàng tại Singapore

14. LSCB

:

Lãi suất cơ bản


Mục lục

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang

CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM

1

1.1. Một số lý thuyết về hoạt động tín dụng

1

1.1.1. Khái niện tín dụng

1

1.1.2. Nguồn vốn tín dụng


3

1.1.3. Các hình thức tín dụng phổ biến của NHTM

6

1.1.4. Lãi suất tín dụng

7

1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế - xã hội

9

1.3. Tình hình hoạt động tín dụng ngân hàng của cả nước trong thời gian
gần đây

12

CHƯƠNG 2

: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC
NHTM TRÊN ĐỊA BÀN KIÊN GIANG

15

2.1. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của các NHTM trên địa bàn
tỉnh


15

2.2. Tình hình hoạt động tín dụng của các NHTM trên địa bàn Kiên Giang

16

2.2.1. Tình hình huy động vốn

16

2.2.2. Tình hình cho vay vốn

21

2.2.3. Mô hình tổ chức ngân hàng

31

2.2.4. Đánh giá chung những thành tựu và tồn tại trong hoạt động tín dụng
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh

31

CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA CÁC NHTM TRÊN ĐIA BÀN KIÊN GIANG

36

3.1. Bối cảnh chung tác động đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng
trên địa bàn tỉnh


36

3.1.1. Thuận lợi

36

3.1.2. Khó khăn

36

3.2. Quan điểm mục tiêu tăng cường tín dụng cho mục tiêu phát triển kinh
tế – xã hội

38


Mục lục

3.2.1. Dự báo triển vọng thị trường tín dụng trên địa bàn giai đoạn 2001 –
2010
3.2.2. Quan điểm mục tiêu tăng cường tín dụng cho mục tiêu phát triển
kinh tế – xã hội
3.3. Các nhóm giải pháp tăng cường hoạt động tín dụng của các NHTM tỉnh
3.3.1. Nhóm giải pháp đẩy mạnh công tác thông tin – tiếp thị và nghiên
cứu thị trường
3.3.2. Nhóm giải pháp về công tác huy động vốn tạo nguồn cho hoạt động
tín dụng
3.3.3. Nhóm giải pháp về công tác cho vay vốn
3.3.4. Nhóm giải pháp về an toàn vốn vay

3.4. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước, chính phủ, ủy ban nhân dân tỉnh và
các ngành liên quan
3.4.1. Kiến nghị với NHNN trung ương và địa phương
3.4.2. Kiến nghị với Chính phủ, UBND tỉnh và các ban ngành liên quan
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LUÏC

38
39
39
39
41
43
50
53
53
55


Mở đầu

MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN. Chính vì lẽ đó mà mọi hoạt động kinh doanh tín dụng ngân
hàng cũng như các loại hình kinh doanh khác, đều nhằm mục đích trước tiên là phục vụ
cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và qua đó không quên mục tiêu
lợi nhuận, và sự lớn mạnh không ngừng của bản thân từng doanh nghiệp để có điều
kiện quay lại phục vụ nền kinh tế đất nước phát triển ở tầm cao hơn. Tuy nhiên trên

thực tế, bên cạnh một số ngân hàng hoạt độâng có hiệu quả và đóng góp rất lớn cho sự
phát triển kinh tế - xã hội, thì trong những năm gần đây nhiều quan chức và cán bộ của
một số NHTM đã không tuân thủ những quy định của ngành ngân hàng, cũng như yếu
kém về mặt nghiệp vụ đã cho vay và không thu hồi được nợ làm thất thoát hàng trăm
đến hàng ngàn tỷ đồng của nhà nước và nhân dân trong các vụ án kinh tế lớn như vụ
án Epco - Minh Phụng, Vạn lộc, Kiên Tân, Ngọc Thảo, …. Từ những vụ án này đã dẫn
đến hệ quả là nhiều NHTM co cụm hoạt động tín dụng, không dám đầu tư tín dụng cho
các doanh nghiệp cần vốn và một nghịch lý xảy ra "Ngân hàng thì thừa vốn trong khi
các doanh nghiệp, các cá nhân thì thiếu vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh". Và
hậu quả nghiêm trọng hơn là làm cho nền kinh tế Việt Nam không phát triển như mong
muốn. Tất nhiên sự trì trệ của nền kinh tế Việt Nam còn do nhiều nguyên nhân khác
như bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực Châu Á năm 1997 1998 vừa qua, việc quản lý và sử dụng vốn tín dụng không hiệu quả, giá cả thế giới
của các mặt hàng dầu lửa, nông hải sản, … dao động theo xu hướng bất lợi.
Trong khi mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm
(2001 – 2010) được đề cập trong Văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ IX có nêu : “Đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rỏ rệt chất lượng đời sống vật chất,
văn hoá, tinh thần của nhân dân. Tạo nền tảng đến 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại” Và “ Năm 2010, tổng sản phẩm trong nước
(GDP) tăng gấp đôi so với năm 2000; chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao
động, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống còn 50%. Phấn đấu đạt nhịp độ tăng
trưởng GDP bình quân 7 – 8%/năm”. Để đạt được mục tiêu đòi hỏi như trên Việt Nam
phải huy động và sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả: nguồn lực con người,
nguồn lực khoa học - công nghệ, nguồn lực tự nhiên, nguồn lực về vốn (tài chính).
Theo như tính toán của một số nhà kinh tế hàng đầu của Việt Nam và nước ngoài thì
để đạt được mục tiêu đã được đưa ra, Việt Nam cần một nguồn vốn đầu tư hàng năm
khoảng trên dưới 30%/GDP của quốc gia. Ngoài nguồn vốn vay ODA và đầu tư trực
tiếp nước ngoài, vốn tích luỹ của các nhà doanh nghiệp thì nguồn vốn cấp tín dụng của
các NHTM cũng rất là lớn và rất quan trọng.
Như vậy vấn đề đặt ra: làm sao đẩy mạnh hoạt động tín dụng của các NHTM
phục vục hiệu quả cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước .



Mở đầu

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Ở đây đề tài được giới hạn trong phạm vi nghiên cứu là hoạt động tín dụng của
các NHTM trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở của định hướng kế hoạch chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh Kiên Giang, Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín
dụng cùng các văn bản dưới luật khác hiện hành mới nhất.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở vận dụng những lý luận và phương
pháp nghiên cứu khoa học ứng dụng vào nghiên cứu đối tượng là hoạt động tín dụng
của các NHTM tại Kiên Giang với mong muốn đề xuất những giải pháp cụ thể, hợp lý
giúp cho các NHTM trên địa bàn tăng cường hoạt động tín dụng có hiệu quả nhằm
góp phần vào phát triển kinh tế, tạo nhiều công ăn việc làm trên địa bàn và không
quên mục tiêu lợi nhuận của mình.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận có tính chất xuyên suốt trong luận văn này là phương pháp biện
chứng, vận dụng các quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể trong trạng thái
luôn vận động và phát triển. Với phương pháp này cho phép kiểm soát được mối quan
hệ giữa đẩy mạnh hoạt động tín dụng và chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng,
từ đó đưa ra một số giải pháp tăng cường hoạt động tín dụng của các NHTM nhằm mục
tiêu phát trển kinh tế - xã hội trong điều kiện cụ thể của tỉnh Kiên Giang.
Ngoài ra trong luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như : Phương
pháp diễn dịch, quy nạp, phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, kết hợp nghiên
cứu chọn lọc những kiến thức lý luận đã được đút kết rút ra từ thực tiển xây dựng và
phát triển ngành ngân hàng của các nước cũng như tại Việt Nam, mà bản chất của vấn
đề vẫn là tìm ra những biện pháp tối ưu cho việc đẩy mạnh hoạt động tín dụng của các
NHTM trên địa bàn tỉnh.

Bố cục luận văn
Luận văn bao gồm những nội dung chính như sau :
Mở đở đầu
Chương I : Khái quát một số vấn đề về hoạt động tín dụng của NHTM
Chương II : Thực trang hoạt động tín dụng của các NHTM trên địa bàn tỉnh Kiên
Giang
Chương III : Một số giải pháp tăng cường hoạt động tín dụng có hiệu quả của
các NHTM trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
Kết luận
Tài liệu tham khaûo.


Chương 1 : Khái quát một số vấn đề về hoạt động tín dụng của NHTM

CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
1.1. Một số lý thuyết về hoạt động tín dụng
1.1.1. Khái niệm tín dụng - các loại hình tín dụng cơ bản
Tín dụng là một phạm trù kinh tế đã tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội.
Nếu hiểu theo nghóa hẹp thì tín dụng là một quan hệï vay mượn giữa hai chủ thể, trong
đó người cho vay chuyển giao tiền hoặc tài sản cho người đi vay sử dụng trong một
thời hạn với mức lãi cụ thể được thỏa thuận nhất định. Nếu hiểu theo nghóa rộng thì tín
dụng là sự vận động của các nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Có thể đưa ra khái niệm tổng quát về tín dụng như sau : Tín dụng là mối quan hệ
vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả (cả vốn và lãi) sau một thời hạn nhất định.
Từ khái niệm nêu trên cho thấy trong quan hệ tín dụng người cho vay chỉ nhượng
lại quyền sử dụng vốn cho người đi vay trong một thời hạn nhất định. Người đi vay
không có quyền sở hữu số vốn ấy và phải hoàn trả lại cho người cho vay khi đến thời
hạn đã thõa thuận. Sự hoàn trả này không chỉ là sự bảo tồn về mặt giá trị mà vốn tín
dụng còn được tăng lên dưới hình thức lợi tức.

Các loại hình tín dụng cơ bản :
- Tín dụng thương mại : Đây là quan hệ tín dụng giữa các nhà SXKD được thực
hiện dưới hình thức mua - bán chịu hàng hoá.
Trong quan hệ tín dụng thương mại, hai bên mua bán chịu sẽ ký kết với nhau
giấy nhận nợ gọi là kỳ phiếu thương mại và nó được xem là một công cụ của tín dụng
thương mại.
Tín dụng thương mại mang ba đặc điểm :
+ Cho vay dưới dạng hàng hoá
+ Các chủ thể trong quan hệ tín dụng này đều là các nhà doanh nghiệp trực
tiếp hoạt động trên các lónh vực sản xuất kinh doanh.
+ Sự vận động và phát triển của tín dụng thương mại phù hợp với quá trình
phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Sự ra đời của tín dụng thương mại đã tạo điều kiện thúc đẩy quá trình lưu thông
hàng hoá, qua đó phát triển sản xuất. Đứng trên qui mô toàn bộ nền kinh tế thì tín
dụng đã tham gia vào quá trình điều tiết vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, giúp
cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục. Ngoài ra, với sự ra đời của kỳ phiếu thương
mại đã góp phần đa dạng các phương tiện thanh toán, từ đó, có tác dụng tiết kiệm tiền
mặt trong lưu thông.

Trang 1


Chương 1 : Khái quát một số vấn đề về hoạt động tín dụng của NHTM

- Tín dụng ngân hàng : Đây là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các TCTD với
các nhà SXKD, các tầng lớp dân cư, v.v. được thực hiện dưới hình thức cung ứng vốn
tín dụng bằng tiền.
Tín dụng ngân hàng mang 3 đặc điểm sau :
+ Cho vay dưới dạng tiền tệ : Nguồn vốn tín dụng mà các ngân hàng đem ra
cho vay hình thành từ những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong xã hội mà ngân hàng

huy động được từ các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế, đoàn thể, ...
+ Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, người đi vay là các nhà doanh nghiệp,
các cá nhân còn người cho vay là các ngân hàng, các TCTD.
+ Tín dụng ngân hàng với đối tượng cho vay là tiền tệ nên sự vận động không
bị ngăn cản về mặt phương hướng, nghóa là có thể cho vay đối với bất kỳ một ngành
kinh tế nào. Mặt khác với quy mô lớn về vốn, ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vay ở
mọi quy mô cũng như thời hạn vay (ngắn hạn, trung hạn và dài hạn) phù hợp với nhu
cầu sử dụng và hoàn trả vốn của người đi vay.
Như vậy, tín dụng ngân hàng với những ưu điểm vốn có về quy mô vốn tín dụng,
thời hạn cho vay và sự đa dạng phạm vi hoạt động đã khắc phục dần những hạn chế của
tín dụng thương mại. Từ đó, tín dụng ngân hàng đã là một trong những nhân tố quan
trọng quá trình phát triển kinh tế và trở thành hình thức tín dụng chủ yếu của hệ thống
tín dụng. Tuy nhiên hình thức tín dụng thương mại vẫn giữ vai trò cơ sở tạo điều kiện cho
tín dụng ngân hàng mở rộng hoạt động, điều này được thể hiện qua nghiệp vụ cho vay
của ngân hàng đối với các doanh nghiệp trên cơ sở chiết khấu hoặc cầm cố kỳ phiếu
thương mại. Nói cách khác, tín dụng thương mại vẫn là khâu liên hệ trực tiếp đến quá
trình sản xuất lưu thông hàng hoá là nền tảng phát triển của toàn bộ hệ thống tín dụng.
- Tín dụng nhà nước : Đây là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với các tổ chức và
dân cư ở trong nước, giữa nhà nước với các chính phủ nước khác được thực hiện dưới
hình thức nhà nước phát hành công trái (ngắn hạn và dài hạn) và các hiệp định vay nợ
quốc tế để huy động vốn cho ngân sách nhà nước. Tín dụng nhà nước ra đời nhằm mục
đích thỏa mãn những nhu cầu chi tiêu ngân sách trong điều kiện nguồn thu không đủ
đáp ứng nguồn chi.
Công trái nhà nước phát hành có nhiều loại, nếu căn cứ vào thời hạn công trái
bao gồm :
+ Loại ngắn hạn : Còn gọi là công khố phiếu hay tín phiếu, thời hạn vay dưới
một năm nhằm giải quyết nhu cầu chi tiêu tạm thời của ngân sách trong trường hợp
nguồn thu chưa huy động đủ theo kế hoạch đã dự trù. Loại này nhà nước sẽ nhận được
tín dụng chủ yếu từ ngân hàng trung ương.
+ Loại dài hạn : Gọi là công trái hay trái phiếu nhà nước, thời hạn vay thường

từ một năm trở lên phát sinh trong trường hợp ngân sách cần thực hiện các dự án phát
triển kinh tế - xã hội, các công trình có tính chất phúc lợi chung…. Đòi hỏi nguồn vốn
Trang 2


Chương 1 : Khái quát một số vấn đề về hoạt động tín dụng của NHTM

lớn mà khả năng nguồn thu ngân sách không đủ đáp ứng. Đối với loại tín dụng này nhà
nước sẽ huy động vốn từ đại bộ phận các tầng lớp dân cư, các ngân hàng, các tổ chức
kinh tế trong xã hội. Với khối lượng lớn như vậy để giảm bớt những căng thẳng cho
ngân sách khi đến hạn thanh toán, bên cạnh loại trái phiếu có kỳ hạn là 5 hay 10 năm
chính phủ các nước còn phát hành loại trái phiếu vónh viễn không ghi thời hạn hoàn trả
và sẽ tổ chức thu hồi dần theo định kỳ tùy vào khả năng của ngân sách và tình hình lưu
thông tiền tệ. Ngoài ra trong điều kiện thị trường vốn các nước được quốc tế hoá nhà
nước còn có thể phát hành loại công trái huy động vốn ngoại tệ ở nước khác.
- Tín dụng tiêu dùng : Đây là loại tín dụng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của các
tầng lớp dân cư trong xã hội như mua sắm phương tiện phục vụ sinh hoạt, xây dựng nhà
ở, ….
Người đi vay sẽ nhận được khoản tín dụng dưới hai hình thức :
+ Hình thức tín dụng bằng tiền : Người cho vay là các ngân hàng, các TCTD.
+ Hình thức tín dụng bằng hàng hoá : Người cho vay là các công ty, xí nghiệp,
tổ chức bán hàng trả góp cho nhân dân.
Mục đích của tín dụng tiêu dùng nhằm từng bước cải thiện đời sống vật chất và
sinh hoạt của các thành viên trong xã hội. Mặt khác khuyến khích nhân dân tiêu thụ
hàng hoá trong điều kiện năng suất lao động xã hội nâng cao. Ngoài ra còn giúp cho
ngân hàng gia tăng doanh số cho vay và thu thêm lợi nhuận từ hoạt động này.
Tóm lại : Quan hệ tín dụng dù vận dụng ở phương thức sản xuất nào, đối tượng
vay mượn là hàng hoá hay tiền tệ thì tín dụng cũng mang 3 đặc điểm cơ bản:
- Người cho vay chuyển giao một lượng giá trị do mình sở hữu cho người đi vay
được quyền sử dụng trong một thời gian nhất định. Giá trị có thể dưới hình thái tiền tệ

hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hoá, máy móc thiết bị, bất động sản, …..
- Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời hạn được thõa thuận
giữa người cho vay và người đi vay. Người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay sau
khi hết thời hạn tín dụng.
- Người sở hữu vốn tín dụng được nhận một phần thu nhập dưới hình thức lợi tức.
1.1.2. Nguồn vốn tín dụng
Vai trò nguồn vốn tín dụng
Nguồn vốn tín dụng là điều kiện để tồn tại và phát triển trong hoạt động kinh
doanh của các NHTM.
Vốn tín dụng là chất liệu để kinh doanh. Nó cũng giống như vật tư, nguyên vật
liệu, giống như quỹ hàng hoá trong kinh doanh. Với nguồn vốn dồi dào, NHTM phát
triển mở rộng thêm khả năng hoạt động kinh doanh của mình. Sự phát triển này là kết
quả tất yếu của việc tăng trưởng nguồn vốn tín dụng hiện có. Như vậy, rõ ràng bảo

Trang 3


Chương 1 : Khái quát một số vấn đề về hoạt động tín dụng của NHTM

toàn và tăng trưởng vốn nguồn tín dụng là điều kiện tồn tại và phát triển mọi hoạt
động kinh doanh của ngân hàng.
- Trước đây theo cơ chế bao cấp thì hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động
theo cơ chế một cấp. Ngân hàng vừa thực hiện chức năng quản lý vừa thực hiện chức
năng kinh doanh tiền tệ tín dụng. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng chủ yếu hình
thành từ nguồn vốn ngân sách, phát hành tiền và một phần rất nhỏ từ huy động vốn tiết
kiệm của dân cư để cấp phát tín dụng chủ yếu cho các đơn vị kinh tế nhà nước và tập
thể. Việc cấp phát tín dụng được chỉ định theo kế hoạch của nhà nước nên công tác
hạch toán kinh doanh và hạn chế rủi ro không được thực hiện.
- Từ khi ngân hàng hai cấp hình thành và hoạt động theo cơ chế thị trường thì
kinh doanh tiền tệ chịu sức ép tác động từ nhiều phiá : (1) Sức ép cạnh tranh, (2) Sự

giám sát, quản lý và kiểm soát của ngân hàng nhà nước để định hướng kinh doanh cho
các NHTM, (3) Sự đòi hỏi về nhu cầu và khả năng cung ứng nguồn vốn và các dịch vụ
ngân hàng có chất lượng cao của nền kinh tế, (4) Yêu cầu tăng tích luỹ cải thiện đời
sống của cán bộ, nhân viên ngân hàng, … Các yêu cầu bức xúc phải giải quyết đó, phát
sinh và phát triển thường xuyên cả về quy mô và mức độ đòi hỏi mỗi NHTM phải vận
hành để tự thích nghi. Và sự thích nghi hiệu nghiệm nhất trong vận hành kinh doanh
chính là lợi nhuận. Do vậy, việc tăng cường hạch toán kinh doanh, cải thiện chất lượng
hoạt động tín dụng, tập trung vốn huy động, bảo toàn tăng trưởng vốn cấp phát tín
dụng là nhiệm vụ hàng đầu đảm bảo cho NHTM tồn tại và phát triển đúng hướng.
Cơ cấu của nguồn vốn tín dụng ngân hàng :
Trên thực tế, nguồn vốn tín dụng của ngân hàng chủ yếu được hình thành từ các
nguồn vốn sau :
Vốn điều lệ và quỹ ngân hàng :
Vốn điều lệ là số vốn đầu tư ban đầu khi thành lập TCTD, số vốn này tối thiểu
phải bằng một hạn mức cụ thể do NHNN quy định . Ví dụ vốn điều lệ tối thiểu hiện
nay để thành lập một NHTM cổ phần ở thành thị là 70 tỷ đồng. Vốn điều lệ quy định
cho một ngân hàng nhiều hay ít là phụ thuộc vào quy mô và phạm vi hoạt động của
ngân hàng đó. Vốn này chủ yếu để mua sắm, xây dựng trụ sở cơ quan, máy móc thiết
bị phục vụ nghiệp vụ ngân hàng, xe cộ, hùn vốn và liên doanh, mua cổ phần của các
TCTD khác, ngân có thể cho vay từ nguồn này.
Quỹ ngân hàng bao gồm :
- Các quỹ được trích từ lợi nhuận ròng của ngân hàng như :
+ Quỹ dự trữ : được hình thành bằng cách trích 5% lợi nhuận ròng hàng năm để
bổ sung vốn điều lệ.
+ Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng
+ Quỹ khen thưởng
Trang 4


Chương 1 : Khái quát một số vấn đề về hoạt động tín dụng của NHTM


+ Quỹ phúc lợi
- Các quỹ không hình thành từ lợi nhuận ngân hàng như :
+ Quỹ khấu hao TSCĐ và sửa chữa lớn
+ Quỹ dự bù đắp rủi ro : quỹ này dùng để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình
kinh doanh của ngân hàng như tiền bị giảm giá, các khoản vay không thu được do
nguyên nhân khách quan, … Quỹ này được trích lập và được đưa vào chi phí.
+ Các quỹ khác theo quy định của pháp luật.
Nguồn vốn tự có của ngân hàng thường thì chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn
vốn nhưng nó là cơ sở để ngân hàng tiến hành kinh doanh, thu hút các nguồn khác vốn
như vốn huy động, vốn vay, ….
Nguồn vốn tiền gởi của khách hàng :
Vốn tiền gởi là nguồn vốn chủ yếu trong tổng nguồn vốn hoạt động của ngân
hàng. Theo luật định, các NHTM không được phép huy động vượt quá 20 lần vốn tự có
và quỹ ngân hàng.
- Tiền gởi không kỳ hạn : loại tiền gởi mà người gởi có thể rút ra để sử dụng vào
bất kỳ thời điểm nào. Loại này gồm có tiền gởi tạm thời của các tổ chức kinh tế, tiền
gởi tiết kiệm không kỳ hạn của dân cư. Mục đích của người gởi nhằm sử dụng các dịch
vụ thanh toán của ngân hàng, không nhằm mục đích hưởng lãi tiền gởi cao. Nguồn tiền
gởi không kỳ hạn thì thường biến động lớn tuỳ thuộc vào nhu cầu thanh toán của người
gởi, nên ngân hàng chỉ có thể sử dụng nguồn vốn này để cho vay ngắn hạn là chính.
- Tiền gởi có kỳ hạn : là loại tiền gởi mà người gởi chỉ được rút ra khi tới hạn,
hoặc muốn rút trước hạn thì phải báo trước cho ngân hàng. Loại này bao gồm tiền gởi
của các TCKT, của các nhà kinh doanh tiền tệ và tiền gởi tiết kiệm của các tầng lớp
dân cư, … Tiền gởi có kỳ hạn là nguồn vốn tương đối ổn định nên ngân hàng có thể sử
dụng chúng để cho vay ngắn hạn, trung – dài hạn.
Nguồn vốn đi vay :
Loại nguồn vốn này thường bao gồm :
- Vốn vay của NHNN : đây là nguồn nhận được từ việc NHNN nhận cho vay,
chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá của NHTM.

- Vốn vay của các NHTM và các TCTD khác thông qua thị trường tiền tệ liên
ngân hàng.
- Vốn vay của các tổ chức tài chính và ngân hàng nước ngoài.
- Vốn huy động từ việc phát hành các loại chứng chỉ có giá như kỳ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ tiền gởi của ngân hàng, … nhằm bổ sung vốn hoạt động của ngân
hàng khi vốn tự có và vốn tiền gởi chưa đáp ứng đủ yêu cầu kinh doanh.
Nguồn vốn nhận uỷ thác :
Trang 5


Chương 1 : Khái quát một số vấn đề về hoạt động tín dụng của NHTM

Đây là những nguồn vốn mà các NHTM nhận uỷ thác từ các tổ chức trong hoặc
ngoài nước, từ NSNN để thực hiện các chương trình và dự án có mục tiêu của các tổ
chức uỷ thác này.
Ngoài ra cũng còn có một số nguồn vốn nhỏ không đáng kể khác được hình thành
trong quá trình hoạt động của nhân hàng như làm đại lý dịch vụ thanh toán, thu hộ, bán
chứng phiếu có giá ….
Sử dụng nguồn vốn tín dụng ngân hàng :
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng chủ yếu được đưa vào đầu tư phát triển sản xuất
và kinh doanh thương mại như xây dựng các cơ sở sản xuất, đổi mới thiết bị máy móc,
dây chuyền công nghệ, đầu tư thu mua nguyên liệu chế biến xuất khẩu, đầu tư nhập
khẩu nguyên nhiên liệu, vật tư máy móc thiết bị và phụ tùng thay thế phục vụ cho nhu
cầu sản xuất trong nước, … Bên cạnh đó, nguồn vốn tín dụng cũng được đưa vào đầu tư
phục vụ và nâng cao đời sống cho nhân dân như cho vay sửa chữa và xây dựng nhà ở,
cho vay mua các tư liệu sinh hoạt, xây dựng phát triển giáo dục và y tế, ….
Việc sử dụng hợp lý nguồn vốn tín dụng sẽ mang lại hiệu quả trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng. Bởi lẽ :
- Về mặt kinh tế, hiệu quả tín dụng là sự điều hoà, phân phối vốn trong nền kinh
tế vừa làm lợi cho các chủ thể có nguồn vốn nhàn rỗi và chủ thể tạm thời thiếu vốn

cần có nhu cầu bù đắp. Làm cho nguồn vốn nhàn rỗi trở nên có ích hơn và chính vì thế
mà kích thích kinh tế phát triển tạo ra các năng lực mới trong quản lý và phát triển
SXKD.
- Về mặt xã hội, tín dụng khuyến khích tiết kiệm, sắp xếp bố trí lại lao động,
giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân,
hình thành các quan hệ ngân hàng lành mạnh trên nền tảng kinh tế phát triển.
Hiệu quả tín dụng có tính tổng hợp, có tác động tích cực đến sự phát triển lành
mạnh về kinh tế - xã hội. Song để đạt được điều đó yếu tố cơ bản trong cơ chế vận
hành tín dụng là sự vận động hợp lý của "nguồn vốn tín dụng". Sự vận động và đem lại
hiệu quả thiết thực của nguồn vốn tín dụng chính là yếu tố quyết định tín dụng. Nguồn
vốn tín dụng vận động theo cơ chế vận hành tín dụng và đạt được các mục đích phát
triển kinh tế – xã hội tức tín dụng có hiệu quả.
1.1.3. Các hình thức tín dụng phổ biến của NHTM
Tuỳ thuộc vào căn cứ để phân loại, chúng ta có các hình thức tín dụng sau :
- Căn cứ vào thời hạn tín dụng thì chia làm 3 loại hình thức tín dụng :
+ Tín dụng ngắn hạn : có thời hạn cho vay dưới 1 năm, chủ yếu cho vay bổ sung
vốn kinh doanh thiếu hụt tạm thời hoặc cho vay phục vục tiêu dùng cá nhân.

Trang 6


Chương 1 : Khái quát một số vấn đề về hoạt động tín dụng của NHTM

+ Tín dụng trung hạn : có thời hạn cho vay từ 1 - 5 năm, đối tượng cho vay bao
gồm mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, có thời
gian thu hồi vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn : có thời hạn cho vay trên 5 năm, được sử dụng chủ yếu cho
vay xây dựng cơ bản, đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất có quy mô lớn, thời gian
thu hồi vốn dài.
- Căn cứ vào đối tượng tín dụng thì chia làm 2 loại :

+ Tín dụng vốn lưu động : là loại tín dụng chủ yếu cho vay hình thành vốn lưu
động của các doanh nghiệp. Loại tín dụng này chủ yếu cho vay dưới hình thức ngắn
hạn và được chia làm các loại sau : Cho vay dự trữ hàng hoá, cho vay chi phí sản xuất
và cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu thương phiếu.
+ Tín dụng vốn cố định : là loại tín dụng chủ yếu cho vay hình thành vốn cố định
của doanh nghiệp. Loại tín dụng được thực hiện cho vay dưới hình thức trung và dài hạn.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng thì được chia làm 2 loại :
+ Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá : là loại tín cho các doanh nghiệp và
chủ thể kinh doanh khác vay để tiến hành sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá.
+ Tín dụng tiêu dùng : là loại tín dụng chủ yếu cho vay mua sắm hàng hoá tiêu
dùng để nâng cao đời sống cho dân cư. Thời hạn tín dụng có thể là ngắn hạn, trung dài hạn tuỳ thuộc vào loại hàng hoá tiêu dùng.
- Căn cứ vào chính sách ưu tiên của nhà nước thì có 2 hình thức tín dụng :
+ Tín dụng ưu đãi : là loại tín dụng ưu đãi về lãi suất hoặc các điều kiện khác
được cấp cho các thành phần, ngành nghề mà nhà nước khuyến khích phát triển do
điều kiện kinh doanh khó khăn hoặc có tính then chốt và tính xã hội cao.
+ Tín dụng không ưu đãi : là loại tín dụng mà lãi suất tín dụng được sử dụng phổ
biến cho thành phần kinh tế, mọi ngành kinh tế không có tính đến ưu đãi lãi suất.
- Căn cứ vào vật đảm bảo thì có 2 hình thức tín dụng :
+ Tín dụng có tài sản đảm bảo : là hình thức tín dụng chỉ được cấp khi người vay
có tài sản được làm vật đảm bảo cho khoản vay. Thông thường giá trị khoản cho vay
chỉ bằng 70% giá trị tài sản thế chấp cấm cố.
+ Tín dụng tín chấp (cho vay tín chấp) : là hình thức tín dụng chủ yếu dựa trên
uy tín và khả năng sử dụng hiệu quả vốn vay của người vay. Hoặc có sự bảo lãnh bằng
uy tín của người hoặc tổ chức thứ ba.
1.1.4. Lãi suất tín dụng
Khái niệm
Lãi suất tín dụng là tỷ lệ phần trăm tính theo một thời hạn xác định (ngày, tuần,
tháng, quý, năm) dùng làm căn cứ để tính toán số lợi tức tín dụng mà chủ thể đi vay
Trang 7



Chương 1 : Khái quát một số vấn đề về hoạt động tín dụng của NHTM

phải trả cho chủ thể cho vay để điều hoà các lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia
quan hệ tín dụng.
Lãi suất tín dụng là một phạm trù kinh tế phức tạp có liên quan đến mọi mặt trong
đời sống kinh tế - xã hội. Sự hình thành khung lãi suất tín dụng dựa trên nhiều nhân tố
: (1) Quan hệ cung cầu vốn tín dụng trên thị trường trong từng thời kỳ; (2) Tỷ lệ lạm
phát của nền kinh tế; (3) Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh
doanh; (4) Chính sách kinh tế của nhà nước.
Vai trò của lãi suất
- Lãi suất phải đảm bảo được sự duy trì và phát triển của hoạt động ngân hàng.
Điều đó có nghóa là lãi suất nhất thiết phải đảm bảo bù đắp được mọi chi phí (hợp lý)
và có lãi. Đã nói đến kinh doanh ngân hàng phải hiểu rằng chi phí và lợi nhuận là hai
phạm trù có liên quan tỷ lệ nghịch với nhau. Chính vì vậy buộc các nhà kinh doanh
ngân hàng phải quan tân đến việc tiết kiệm chi phí cho hoạt động kinh doanh và tổ
chức hợp lý bộ máy tổ chức và lao động của đơn vị mình.
- Điều tiết khối lượng tín dụng và qua đó điều chỉnh quan hệ cung cầu vốn trên thị
trường.
Lãi suất là vũ khí sắc bén để cạnh tranh giữa các ngân hàng. Ngân hàng nào có
lãi suất linh hoạt, thõa đáng, thì một mặt, sẽ huy động được nhiều vốn, mặt khác, tăng
được khối lượng tín dụng đối với nền kinh tế. Ngân hàng như vậy sẽ ngày càng có uy
tín đối với khách hàng, càng tạo được ưu thế cạnh tranh.
- Lãi suất là yếu tố thúc đẩy việc kinh doanh có hiệu quả của các doanh nghiệp.
Doanh nghiệp vay vốn ngân hàng phải hoàn trả cho ngân hàng đúng hạn cả gốc
và lãi. Vì vậy, muốn đảm bảo có nguồn trả nợ cho ngân hàng, các doanh nghiệp vay
vốn phải thực sự quan tâm đến kết quả hoạt động kinh doanh của mình.
Như vậy, để lãi suất tín dụng thực hiện được vay trò là đòn bẩy kích thích và mở
rộng các quan hệ tín dụng trong nền kinh tế thì lãi suất tín dụng đảm bảo được kiểm
soát trong khung gới hạn : Tỷ lệ lạm phát < Lãi suất huy động < Lãi suất cho vay < Tỷ

suất lợi nhuận bình quân.
Các loại lãi suất tín dụng
- Nếu đứng trên giác độ huy động vốn thì có các loại lãi suất tín dụng sau :
+ Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn.
+ Lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
+ Lãi suất tiền gửi từ các đơn vị, tổ chức kinh tế.
+ Lãi suất tiền gửi tiết kiệm từ các tầng lớp dân cư.
+ Lãi suất của các loại chứng từ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu.
- Nếu đứng trên giác độ sử dụng vốn thì có các loại lãi suất tín dụng sau :
Trang 8


Chương 1 : Khái quát một số vấn đề về hoạt động tín dụng của NHTM

+ Lãi suất cho vay bằng tiền. Loại này nếu phân ra theo kỳ hạn sẽ bao gồm :
Lãi suất cho vay ngắn hạn, trung hạn, và dài hạn.
+ Lãi suất cho vay cầm cố.
+ Lãi suất chiết khấu các chứng từ có giá.
- Nếu đứng trên giác độ điều tiết vốn giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền
tệ, lãi suất tín dụng có các loại chủ yếu sau :
+ Lãi suất tái chiết khấu : Là lãi suất do ngân hàng trung ương áp dụng đối với
các ngân hàng thương mại, khi ngân hàng trung ương với tư cách là người cung cấp tín
dụng cho các ngân hàng thương mại và qua nghiệp vụ tái chiết khấu các thương phiếu,
hoặc các chứng từ có giá khác.
+ Lãi suất liên ngân hàng : Là loại lãi suất cho vay lẫn nhau giữa các ngân hàng
được hình thành trên thị trường liên ngân hàng.
1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế - xã hội
Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế là rất lớn, có tác động tích cực đến kết quả
kinh doanh của các đơn vị và cá nhân sản xuất kinh doanh. Dưới đây là một số vai trò
chủ yếu của tín dụng ngân hàng :

(1) Tín dụng ngân hàng đóng vai trò trung gian giải quyết mâu thuẫn phát sinh
trong quá trình tuần hoàn luân chuyển vốn của các đơn vị SXKD, đáp ứng vốn cho quá
trình SXKD được thực hiện liên tục.
Quá trình sản xuất kinh doanh phải được tiến hành liên tục, nhưng vấn đề tuần
hoàn và luân chuyển vốn đã tạo ra sự không ăn khớp về thời gian và khối lượng giữa
vật tư hàng hoá phục vụ cho SXKD với việc tiêu thụ. Sự không ăn khớp này đã tạo ra
hiện tượng thừa và thiếu vốn tạm thời tại các doanh nghiệp. Tín dụng đóng vai trò
trung gian để giải quyết sự ứ đọng vốn tạm thời và bù đắp sự thiếu vốn tạm thời ở các
doanh nghiệp, góp phần điều tiết các nguồn vốn tạo điều kiện cho quá trình sản xuất
kinh doanh không bị gián đoạn.
(2) Tín dụng ngân hàng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi, thúc đẩy quá trình tập trung vốn
và tập trung sản xuất, đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế và ổn định giá cả.
Tín dụng thực hiện việc huy động vốn tiết kiệm của cá nhân, của các đơn vị, tổ
chức kinh tế, của ngân sách nhà nước để đáp ứng nhu cầu đầu tư. Mỗi khoản tiết kiệm
đều có mục đích nhất định, như các cá nhân thì tiết kiệm để xây dựng nhà cửa, mua
sắm phương tiện đi lại, nhà kinh doanh tiết kiệm để mở rộng sản xuất, …. Trong thời
gian chưa thực hiện được mục tiêu nhất định, những chủ sở hữu vốn này có thể gởi nó
vào ngân hàng để lấy lãi. Trong trường hợp này tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa tiết
kiệm và đầu tư, thông qua tín dụng ngân hàng.
Ngoài ra với chức năng tập trung và tận dụng những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã
hội, tín dụng ngân hàng đã trực tiếp giảm khối lượng tiền mặt tồn đọng trong löu
Trang 9


Chương 1 : Khái quát một số vấn đề về hoạt động tín dụng của NHTM

thông. Lượng tiền dôi thừa này nếu không được huy động và sử dụng kịp thời có thể
gây ảnh hưởng xấu đến tình hình lưu thông tiền tệ dẫn đến mất cân đối trong quan hệ
hàng - tiền và hệ thống giá cả biến động là điều không thể tránh khỏi. Do đó trong
điều kiện nền kinh tế bị lạm phát, tín dụng được xem như là một trong những biện

pháp hữu hiệu góp phần làm giảm lạm phát.
Mặt khác, tín dụng ngân hàng còn tạo điều kiện mở rộng công tác thanh toán
không dùng tiền mặt. Đây là một trong những nhân tố tích cực tiết giảm việc sử dụng
tiền mặt trong nền kinh tế là bộ phận lưu thông tiền mà nhà nước rất khó quản lý và
lại dễ bị tác động của quy luật lưu thông tiền tệ.
Từ phân tích nêu trên, cho thấy tín dụng ngân hàng đã đóng góp không nhỏ trong
việc tập trung vốn cho đầu tư phát triển và ổn định tiền tệ tạo điều kiện để ổn định giá
cả và là tiền đề quan trọng để thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá.
(3) Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế chậm phát triển,
các ngành kinh tế then chốt và các ngành kinh tế mũi nhọn góp phần vào việc điều
chỉnh cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý hơn.
Trong nền kinh tế thị trường việc lựa chọn lónh vực đầu tư là quyền của mỗi
doanh nghiệp và chịu sự tác động điều tiết rất lớn của cơ chế thị trường. Dưới gốc độ
từng doanh nghiệp, việc tập trung đầu tư vào các lónh vực, các ngành nghề mà điều
kiện kinh doanh thuận lợi, lợi nhuận cao là điều hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, trên
phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, cần có sự cân đối trong cơ cấu kinh tế, cần phải
có sự đầu tư vào các ngành kinh tế kém phát triển, bên cạnh đó các ngành kinh tế then
chốt, các ngành kinh tế mũi nhọn cũng cần đẩy mạnh tư để tạo điều kiện lôi kéo sự
phát triển của ngành khác. Với chức năng phân phối lại các nguồn tài nguyên, quan
trọng nhất là vốn, cũng như thông qua chính sách tài trợ mà quan trọng nhất là lãi suất
tín dụng sẽ kích thích các ngành kinh tế phát triển, góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế
cho từng thời kỳ hợp lý hơn.
(4) Tín dụng ngân hàng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn
định trật tự xã hội.
Vai trò này của tín dụng có thể nói là hệ quả tất yếu của ba vai trò nêu trên. Nền
kinh tế phát triển trong một môi trường ổn định về tiền tệ là điều kiện nâng cao dần
đời sống của các thành viên trong xã hội, là điều kiện thực hiện tốt hơn các chính sách
xã hội. Từ đó rút ngắn chênh lệch giàu nghèo giữa các bộ phận dân cư góp phần thay
đổi cấu trúc xã hội.
Hoạt động tín dụng không chỉ đáp ứng cho nhu cầu của các doanh nghiệp mà còn

phục vụ cho các tầng lớp dân cư. Các NHTM sẳn sàng cung cấp nhu cầu vay vốn hợp
lý của các cá nhân như phát triển kinh tế gia đình, mua sắm nhà cửa, tư liệu sinh hoạt
v.v... với mục đích cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, tạo công ăn việc làm,
giảm tỷ lệ thất nghiệp, qua đó, góp phần ổn định trật tự xã hội.
Trang 10


Chương 1 : Khái quát một số vấn đề về hoạt động tín dụng của NHTM

(5) Tín dụng ngân hàng góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán
kinh doanh của các đơn vị sản xuất kinh doanh sử dụng vốn vay.
Đặc trưng của tín dụng là người đi vay phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi đúng thời hạn
đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, Nếu vi phạm quy định này thì đơn vị sẽ bị
ngân hàng phạt lãi suất hoặc các biện pháp chế tài khác. Bằng biện pháp chế tài như
vậy đòi hỏi các đơn vị sử dụng vốn vay thường xuyên phải quan tâm đến hạch toán
kinh doanh giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay của vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn và đó cũng chính là điều kiện nâng cao lợi nhuận cho đơn vị kinh doanh.
(6) Tín dụng ngân hàng góp phần điều chỉnh chiến lược kinh tế cho phù hợp với
nền kinh tế thị trường và đẩy lùi lạm phát.
Nhà nước thông qua công cụ tài chính tín dụng ngân hàng, nhằm khai thác mọi
tiềm năng của đất nước để điều hoà và dịch chuyển cơ cấu kinh tế phát triển theo xu
hướng ngày càng hiện đại hơn.
Thông qua công cụ lãi suất, ngân hàng sử dụng nó một cách đúng đắng, linh hoạt
phù hợp với những điều kiện kinh tế trong từng thời kỳ nhất định sẽ có tác dụng trực
tiếp và quan trọng đến việc kiểm soát, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, kích thích đầu tư,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Dự trữ bắt buộc là công cụ của chính sách tiền tệ quốc gia mang tính truyền
thống, có thể làm thay đổi khả năng tạo tiền của các NHTM. Vì vậy tuỳ tình hình tiền
tệ trong lưu thông mà ngân hàng nhà nước trung ương tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt
buộc của các NHTM, nghóa là tăng hay giảm khối lượng tiền tệ cung ứng cho lưu

thông. Từ đó có khả năng hạn chế và kiểm soát lạm phát.
(7) Tín dụng ngân hàng góp phần phát triển các quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Trong điều kiện hiện nay, cùng với sự phân công và hợp tác quốc tế ngày một sâu
rộng thì quá trình điều tiết vốn không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà hình
thành các quan hệ tín dụng quốc tế.
Đối với các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng, tín dụng ngân
hàng đóng vay trò quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hoá, đồng thời nhờ
nguồn vốn tín dụng bên ngoài để CNH, HĐH nền kinh tế. Như vậy, tín dụng ngân hàng
góp phần phát triển các mối quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Tóm lại : Trong nền kinh tế thị trường càng phát triển thì vai trò của tín dụng ngân
hàng càng được cũng cố và tăng cường, làm cho hoạt động tín dụng trở thành một
trong những lónh vực hoạt động có vai trò to lớn tác động tích cực đến hoạt động SXKD
và phát triển kinh tế - xã hội.
Từ những vấn đề trình bày trên có thể nói vai trò của tín dụng ngân hàng góp
phần thúc đẩy tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế, góp phần thúc đẩy việc thu hút vốn từ
nước ngoài và mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế. Tín dụng ngân hàng góp phần
Trang 11


Chương 1 : Khái quát một số vấn đề về hoạt động tín dụng của NHTM

điều tiết số lượng tiền tệ nhàn rỗi và bổ sung hoặc rút bớt lượng tiền trong lưu thông
cho phù hợp với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, để tín dụng ngân hàng thực hiện tốt vai trò của mình, phần lớn phụ
thuộc vào chính sách tín dụng, có nghóa là phụ thuộc vào các hoạt động chủ quan của
các cơ quan quản lý trước hết là ngân hàng. Chính sáùch tín dụng ngân hàng đúng đắng,
phản ánh đúng quy luật khách quan thì hoạt động tín dụng mới đem lại hiệu quả, bằng
không sẽ đem lại hậu quả tai hại cho nền kinh tế, gây trở ngại cho sự phát triển kinh tế
đất nước.
1.3. Tình hình hoạt động tín dụng ngân hàng của cả nước trong thời gian qua

1.3.1. Tình hình huy động vốn
Bảng 1 : Huy động vốn
Năm

Doanh số huy động (tỷ đồng)

Tỷ lệ tăng giảm so với năm trước

1998

115.379

25,9%

1999

146.200

27,4%
(Nguồn : Báo cáo hoạt động ngành ngân hàng)

Kể từ khi hai Luật ngân hàng đi vào cuộc sống đã khắc phục được những mặt hạn
chế của hoạt động tín dụng ngân hàng vốn có trước đây. Doanh số huy động và cho
vay hàng năm đều tăng so với năm trước. Năm 1998 doanh số huy động đạt 115.397,
tăng 25% so với năm 1997 thì đến năm 1999 doanh số huy động lên đến 146.200 tỷ
đồng, tăng đến 27,4%.
1.3.2. Tình hình dư nợ tín dụng
Bảng 2 : Dư nợ tín dụng
Năm


Dư nợ cho vay (tỷ đồng)

Tỷ lệ tăng giảm so với năm trước

1998

117.000

19,0%

1999

138.200

12,4%
(Nguồn : Báo cáo hoạt động ngành ngân hàng)

Tính đến ngày 31/12/1998 tổng dư nợ cho vay đạt 117.000 tỷ đồng, tăng 19% so
với 31/12/1997, thấp hơn mức tăng 27,1% của năm 1997. Năm 1999 tổng dư nợ cho
vay đạt 138.200 tỷ, chỉ tăng 12,4% so với năm 1998, thấp hơn mức tăng 19% của năm
1998. Như vậy tốc độ dư nợ cho vay từ năm 1997 đến 1999 liên tục giảm.
Năm 1999, trong tổng dư nợ cho vay, dư nợ cho vay tiền đồng tăng 15% trong khi đó
dư nợ cho vay ngoại tệ không tăng hoặc tăng rất ít. Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh tiền
đồng tăng 4.600 tỷ đồng với tỷ lệ tăng 28%, thì dư nợ cho vay ngoại tệ chỉ tăng 484 tỷ
đồng (quy ra VNĐ) với tỷ lệ tăng 3% so với năm 1998. Điền này phản ánh xu hướng
chuộng vay tiền đồng hơn vay ngoại tệ vì lãi suất cho vay tiền đồng giảm thấp và tỷ giá
Trang 12


Chương 1 : Khái quát một số vấn đề về hoạt động tín dụng của NHTM


của đồng Việt Nam đối với ngoại tệ luôn đang biến động theo hướng giảm giá trị đồng
Việt Nam.
Tốc độ tăng trưởng tín dụng của những năm gần đầy liên tục giảm là do :
+ Tình hình kinh tế cả nước đang gặp khó khăn, năng lực sản xuất dư thừa so với
nhu cầu có khả năng thanh toán, sản phẩm có khả năng cạnh tranh kém dẫn đến tình
trạng hàng hoá ứ đọng không tiêu thụ được, trong khi đó các NHTM lại khó tìm được
các dự án đầu tư cho vay khả thi.
+ Các NHTM đang trong quá trình chấn chỉnh để nâng cao chất lượng tín dụng,
khả năng sinh lời, khắc phục về khả năng tài chính nên quy trình xét duyệt cho vay
được thực hiện chặt chẽ, chú trọng đến tính pháp lý và hiệu quả của đầu tư hơn trước.
1.3.3. Cơ cấu cho vay
Các NHTM đã chú trọng đến cho vay trung – dài hạn để đẩy mạnh tốc độ tăng
trưởng kinh tế cả nước. Tỷ lệ cho vay ngắn hạn từ 85% và trung – dài hạn 15% ở năm
1991 thì đến năm 1994 đã thay đổi 67% và 33%. Đến năm 1999, tỷ lệ cho vay ngắn
hạn chỉ còn 64% và dư nợ cho vay trung – dài hạn đã tăng lên 36%.
Trong thời gian qua, dư nợ cho vay không còn tập trung chủ yếu vào khối kinh tế
quốc doanh, tính đến năm 1999, tỷ trọng dư nợ cho vay khối kinh tế quốc doanh chỉ
còn 74,4% (trong khi tỷ lệ này vào năm 1991 là 90% và vào năm 1992 là 80%). Như
vậy, so với giai đoạn trước đây tín dụng đã phản ánh sự bình đẳng hơn giữa các thành
phần kinh tế, đây chính là động lực phát triển kinh tế đất nước.
1.3.4. Lãi suất
Sau một thời gian thực hiện 4 trần lãi suất với mức khống chế đầu vào đầu ra là
0,35%/tháng, đến 21/01/1998 NHNN đã ban hành Quyết định số 39/1998/NHNN1 xoá
bỏ sự cách biệt về lãi suất cho vay giữa thành thị và nông thôn chỉ còn quy định 3 trần
lãi suất và không quy định chênh lệch 0,35%/ tháng. Quy định này có tính tích cực ở
chỗ giảm sự chênh lệch về lãi suất cho vay ở thành thị so với nông thôn nhằm khuyến
khích nông dân vay vốn phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên nông thôn lại thiếu vốn và
không đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD, nhất là các TCTD nông thôn.
Ngày 05/08/2000 NHNN đã chuyển sang thực hiện điều hành lãi suất theo lãi suất

cơ bản.
+ Đối với lãi suất cho vay đồng Việt Nam : Lãi suất cho vay của TCTD cao nhất
= LSCB + tỷ lệ %. Như vậy, lãi suất kinh doanh của các TCTD được hình thành trên cơ
sở cung – cầu vốn trên thị trường nhưng vẫn có sự khống chế mức độ của NHNN. Thời
điểm hiện nay, NHNN công bố lãi suất cơ bản là 0,65%/tháng, biên độ trên đối với lãi
suất cho vay ngắn hạn là 0,3%/tháng, biên độ trên đối với lãi suất cho vay trung – dài
hạn là 0,5%/tháng. Lãi suất cơ bản và biên độ dao động được công bố định kỳ hàng
tháng, trường hợp cần thiết NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.
Trang 13


Chương 1 : Khái quát một số vấn đề về hoạt động tín dụng của NHTM

+ Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ : Lãi suất cho vay USD ngắn hạn của
các TCTD không vượt quá mức SIBOR kỳ hạn 3 tháng + 1,0%/năm; lãi suất cho vay
trung - dài hạn không vượt quá mức SIBOR kỳ hạn 6 tháng + 2,5%/năm. Cho vay bằng
ngoại tệ khác do chiếm tỷ lệ nhỏ trong dư nợ tín dụng nên NHNN cho phép các TCTD
xem xét quyết định lãi suất trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu về vốn tín
dụng của loại ngoại tệ này trên thị trường trong nước.
1.3.5. Nợ quá hạn
Gần đây, trong cuộc trả lời phỏng vấn tại cuộc họp Đại biểu Quốc hội tháng
11/2000, Thống đốc NHNN Việt Nam Lê Đức Thuý đã cho biết rằng, hiện nay số nợ
xấu của cả hệ thống NHTM Việt Nam chiếm 11,7%/tổng dư nợ cho vay, mặc dù đã
giảm 2% so với năm 1999, nhưng vẫn còn ở mức quá cao so với mức an toàn cho phép
(5% tổng dư nợ).
Tóm lại, tình hình hoạt động tín dụng ngân hàng của Việt Nam trong vài năm gần
đây đã có nhiều chuyển biến tích cực. Dư nợ huy động và cho vay liên tục tăng (tuy
vẫn còn ở mức thấp) đã cung ứng một lượng vốn lớn cho các thành phần kinh tế, lượng
vốn này đã là tiền đề rất quan trọng để các thành phần kinh tế, các TCTD giữ vững,
đẩy mạnh, mở rộng SXKD góp phần không nhỏ để tăng trưởng GDP cả nước. Chính

sách lãi suất tín dụng đã từng bước chuyển dần sang một chính sách lãi suất theo thị
trường tiền tệ tài chính, với những bước đi thích hợp, thận trọng, với điều kiện thực tế
của Việt Nam, từng bước tiến tới tự do hoá lãi suất, quốc tế hoá hoạt động tài chính
trong nước, đồng thời nâng cao được năng lực tài chính và năng lực điều hành của các
TCTD. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động tín dụng ngân hàng vẫn còn
một số những tồn tại như khả năng tạo tiền của các NHTM thấp do các doanh nghiệp
vay bằng tiền mặt là chủ yếu, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt chiếm tỷ trọng
thấp, nguồn vốn huy động trung – dài hạn để đầu tư dài hạn vẫn còn quá nhỏ, trong
quá trình cho vay các ngân hàng còn quá chú trọng đến TSTC để cho vay, chưa đánh
giá đúng điều kiện quan trọng để cho vay là hiệu quả hoạt động kinh doanh và khả
năng tài chính của khách hàng. Nợ quá hạn, nợ xấu của các TCTD còn ở mức quá cao,
các tài sản xiết nợ, TSTC chưa được đẩy mạnh khai thác và phát mãi thu hồi nợ.

Trang 14


Chương 2 : Thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM trên địa bàn iên Giang

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA
CÁC NHTM TRÊN ĐỊA BÀN KIÊN GIANG
2.1. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của các NHTM trên địa bàn tỉnh
Đến nay, ngoài Chi nhánh NHNN làm nhiệm vụ quản lý nhà nước trên địa bàn
tỉnh đã có tất cả 8 NHTM và chi nhánh NHTM, bao gồm :
- 4 chi nhánh NHTM quốc doanh : Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương, Chi
nhánh Ngân hàng Công thương, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư phát triển, Chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- 1 chi nhánh NHTM cổ phần Đông Á.
- 3 NHTM cổ phần nông thôn : NHTM cổ phần Tân Hiệp, NHTM cổ phần Kiên
Long, NHTM cổ phần Sông Kiên.
- Ngoài ra còn có Hệ thống 45 Quỹ tín dụng nhân dân rãi khắp tỉnh để hổ trợ

cho vay nông nghiệp nông thôn.
Kể từ khi thành lập đến nay, các NHTM trên địa bàn đã không ngừng phát triển
và lớn mạnh. Chất lượng các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng ngày càng được nâng
cao. Đặc biệt, đối với các chi nhánh NHTM quốc doanh đã từng bước xoá bỏ hình thức
hoạt động kiểu kế hoạch cấp phát sang hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường.
Ngân hàng đang thực sự trở thành những tổ chức trung gian tài chính thu hút mọi nguồn
vốn nhàn rỗi và tài trợ vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Ngân hàng
đã quan hệ giao dịch với tất cả mọi thành phần kinh tế, cho vay phát triển kinh doanh
và cho vay tiêu dùng nâng cao đời sống.
Đa số các nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng đã chuyển từ thủ công sang thực
hiện bằng máy vi tính nối mạng hiện đại trên phạm vi của từng hệ thống ngân hàng và
phạm vi cả nước. Ngoài ra, hầu hết các NHTM quốc doanh đã tham gia vào mạng hệ
thống thanh toán toàn cầu SWIFT.
Cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt nên hoạt động kinh doanh của các
NHTM cũng có nhiều thay đổi. Các NHTM đã coi trọng các dịch vụ ngân hàng, thay
đổi cung cách phục vụ, xây dựng chính sách tín dụng, lãi suất hợp lý và linh động hơn.
Bảng 3 : Kết quả hoạt động kinh doanh năm 2000 của một số NHTM
Đơn vị tính : tỷ đồng
Chỉ tiêu

NHCT
NHNT
NHĐT&PT
1. Tổng thu nhập
23,88
18,29
31,74
Trong đó, thu về hoạt động cho vay
23,04
15,90

2. Tổng chi phí
14,02
11,77
24,48
Trong đó, chi về hoạt động huy động vốn
9,26
8,71
3. Lợi nhuận trước thuế
9,86
6,52
7,26
(Nguồn : Báo các tổng kết của các NHTM trên địa bàn)
Trang 15


Chương 2 : Thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM trên địa bàn iên Giang

Tính đến cuốn năm 2000, tất cả các NHTM trên địa bàn đều kinh doanh có lãi.
Kết quả kinh doanh của đa số các ngân hàng chủ yếu do đóng góp của hoạt động tín
dụng. Cụ thể: NHNT Kiên Giang năm 2000 có tổng thu nhập là 18, 3 tỷ đồng thì trong
đó thu từ hoạt động tín dụng là 15,9 tỷ chiếm 86,9%, còn thu nhập từ dịch vụ chỉ có 1,3
tỷ đồng chiếm 7,1%. Trong khi tổng chi là 11,8 tỷ thì trong đó chi cho trả lãi huy động
vốn hết 8,8 tỷ chiếm 74,6%. NHCT cả năm có tổng thu nhập là 23,9 tỷ thì trong đó thu
nhập từ lãi cho vay là 23 tỷ chiếm 96,46% tổng thu nhập. Trong khi tổng chi phí cả
năm là 14 tỷ thì trong đó trả lãi huy động vốn chỉ có 9,3 tỷ chiếm 66,43%.
Tuy rằng, các ngân hàng đã đa dạng hoá các nghiệp vụ hoạt động nhưng thu nhập
chủ yếu vẫn từ hoạt động nghiệp vụ cho vay và chiếm khoảng trên dưới 80% thu nhập
của ngân hàng. Vì vậy có thể nói, trong điều kiện kinh doanh hiện nay, hoạt động tín
dụng là hoạt động chính của các NHTM trên địa bàn Kiên Giang.
2.2. Tình hình hoạt động tín dụng của các NHTM trên địa bàn tỉnh Kiên Giang

2.2.1. Tình hình huy động vốn
Huy động vốn nói chung
Hoạt động huy động vốn của các NHTM trên địa bàn trong những năm gần đây
có những biến chuyển rõ rệt. Nghiệp vụ huy động vốn ngày càng hoàn thiện và thu
được những thành tựu đáng kể trong việc thu hút vốn nhàn rỗi từ nhiều nguồn để phục
vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Ngoài nguồn vốn huy động tại địa
bàn, các NHTM còn sử dụng nguồn vốn điều chuyển trong hệ thống và vay các TCTD
khác ngoài địa bàn.
Bảng 4 : Tình hình tăng trưởng nguồn vốn huy động
Đơn vị tính: tỷ đồng

Chỉ tiêu
Tổng nguồn vốn huy động

Tỷ lệ tăng, giảm %

1998

1999

2000

1548,3

1881,3

2176,9

21,5


15,7

480,4

767,2

1021,5

59,7

33,1

1067,9

1114,1

1155,4

4,3

3,7

99/98

00/99

Trong đó :
- Vốn huy động tại chỗ
- Vốn điều chuyển trong HT
và vay các TCTD khác

(Nguồn : NHNN tỉnh Kiên Giang)

Trang 16


Chương 2 : Thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM trên địa bàn iên Giang

Biểu đồ : Tình hình huy động vốn

1200

1114,1

1067,9

1000

1021,5

767,2

800
600

1155,4

480,4

400
200

0

1998

1999

2000

Vốn huy động tại chỗ
Vốn điểu chuyển trong HT và vay các TCTD khác
Qua bảng số liệu và biểu đồ trên chúng ta thấy tổng nguồn vốn huy động của các
NHTM trên địa bàn liên tục tăng. Cuối năm 1998 tổng nguồn vốn huy động có số dư là
1548,3 tỷ đỗng, cuối năm 1999 là 1881,3 tỷ đồng, tăng 21,5% (số tuyệt đối là 338 tỷ
đồng) so với năm 1998, đến cuối năm 2000 tổng nguồn vốn huy động có số dư đã đạt
là 2176,8 tỷ đồng, tăng 15,7% (số tuyệt đối là 295,6 tỷ đồng).
Xét trên cơ cấu của nguồn vốn huy động thì chúng ta thấy nguồn vốn huy động tại
chỗ tăng nhanh trong thời gian qua. Năm 1998 cả hệ thống NHTM trên địa bàn chỉ huy
động được 480,4 tỷ đồng thì đến cuối năm 1999 nguồn vốn huy động tại chỗ đạt 767,2
tỷ đồng, tăng 59,7% và đến cuối năm 2000 nguồn vốn huy động đã lên đến 1.021,5 tỷ
đồng, tăng 2,13 lần so với năm 1998, tăng 33,1%.
Kết quả huy động vốn trên địa bàn của hệ thống NHTM tăng nhanh và liên tục
trong thời gian qua xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, chủ yếu là một số lý do sau :
- Các NHTM đã ý thức được tầm quan trọng của vai trò tạo vốn, sử dụng nhiều
biện pháp để gia tăng nguồn vốn như đa dạng hoá các loại tiền gởi đáp ứng được nhu
cầu của người gởi tiền, cải tiến cung cách phục vụ, mở rộng mạng lưới huy động, cung
cấp các dịch vụ thanh toán thuận tiện cho khách hàng.
- Lãi suất huy động đảm bảo thực dương, khoảng chênh lệch giữa lãi suất tiền gởi
và tỷ lệ lạm phát ngày càng thu hẹp, người gởi tiền đảm bảo có nguồn thu nhập từ việc
gởi tiền hơn là để tại nhà.
Trang 17



Chương 2 : Thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM trên địa bàn iên Giang

- Thu nhập của đa số dân cư trên địa bàn có xu hướng tăng, dân chúng có khoản
tích luỹ, các lónh vực chuyển tải vốn từ tiết kiệm sang đầu tư hoạt động chưa hữu hiệu,
vì vậy gởi tiền vào ngân hàng gần như là cách duy nhất mà dân chúng sử dụng tiền
nhàn rỗi của họ kiếm lời.
Bảng 5 : Vốn huy động tại chỗ so với dư nợ cho vay của các NHTM qua các năm
Đơn vị tính: 1 tỷ đồng
Chỉ tiêu
1. Dư nợ cho vay
2. Vốn huy động tại chỗ
3. Tỷ lệ vốn huy động tại
chỗ trên dư nợ

1997

1998

1999

2000

891
398,5
44,7

1326
480,4

36,2

1764
767,2
43,5

2037
1021,5
50,1

(Nguồn : NHNN tỉnh Kiên Giang)

Nguồn vốn huy động tại chỗ mặc dù tăng nhanh trong các năm qua nhưng chỉ mới
đáp ứng được khoảng 44% dư nợ tín dụng đầu tư phát triển kinh tế trên địa bàn. Bảng
số liệu trên cho thấy năm 1997 vốn huy động tại chỗ chỉ đáp ứng được 44,7% dư nợ tín
dụng, năm 1998 đáp ứng 36,2%, năm 1999 là 43,5%, đến năm 2000 thì nguồn vốn huy
động này đáp ứng được 50,1% dư nợ cho vay. Do đó, nguồn vốn điều chuyển trong hệ
thống của các NHTM và vay các TCTD khác cũng rất là quan trọng đối với các NHTM
trên địa bàn trong hoạt động tài trợ tín dụng cho nhu cầu phát triển kinh tế của địa
phương.
Bảng 6 : Tỷ trọng vốn huy động trong tổng nguồn vốn của các NHTM qua các năm
Đơn vị tính: tỷ đồng
Ngân hàng

1. Ngân hàng Công
thương
2. Ngân hàng Đầu tư
& PT
3. Ngân hàng Ngoại
thương

4. Ngân hàng Nông
nghiệp
5. Ngân hàng TM cổ
phần
Tổng cộng

Năm 1998
Vốn
Tổng
huy vốn huy
động
động
trên địa
bàn
76,5
250,0

Tỷ
trọn
g%

30,6

Năm 1999
Năm 2000
Vốn
Tổng Tỷ
Vốn
Tổng Tỷ
huy

vốn trọng huy
vốn trọng
động
huy
%
động
huy
%
trên địa động
trên địa động
bàn
bàn
180,9 294,4 61,4 169,5 284,6 59,6

43,5

251,2 17,3

91,4

348,9 26,2

65,4

39,0

221,6 17,6

39,4


204,7 19,2

53,5

253,4

686,0 36,9 331,6

840,2 39,5

642,1

1048,3 61,3

68,0

139,5 48,7 123,9

193,1 64,2

91,0

192,7 47,2

480,4

1548,3 31,0 767,2

1881,3 40,8 1021,5 2176,9 46,9
(Nguồn : NHNN tỉnh Kiên Giang)


Trang 18

393,3 16,6
258

20,7


Chương 2 : Thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM trên địa bàn iên Giang

Đối với từng NHTM, theo bảng 6 cho thấy Ngân hàng Công thương, Ngân hàng
Nông nghiệp và NHTM cổ phần có nguồn vốn huy động tại chỗ chiếm một tỷ trọng hơi
cao trong tổng nguồn vốn huy động và cao hơn các NHTM khác còn lại. Ngân hàng
Công thương là ngân hàng có tỷ lệ nguồn vốn huy động tại chỗ, kể từ năm 1999 trở đi,
cao nhất khoảng trên dưới 60% tổng nguồn vốn huy động; kế đến là Ngân hàng Nông
nghiệp, NHTM cổ phần. Tuy nhiên, để đủ vốn cho hoạt động tín dụng tất cả các
NHTM trên địa bàn đều phải sử dụng vốn điều chuyển trong hệ thống là chủ yếu. Vốn
huy động tại chỗ chiếm tỷ trọng nhỏ hơn so với vốn điều chuyển. Điều này chứng tỏ
các NHTM trên địa bàn còn phụ thuộc rất lớn về vốn từ bên ngoài địa bàn. Nếu quá
trình điều chuyển vốn trong hệ thống ngân hàng bị trục trặc như không đáp ứng kịp
thời về mặt thời gian, số lượng vốn thì các NHTM trên địa bàn sẽ khó có thể đẩy mạnh
hoạt động tín dụng cũng như các các hoạt động kinh doanh khác. Mặt khác lãi suất vay
điều chuyển này thường cao hơn lãi suất huy động bình quân tại chỗ từ 0,1 đến
0,2%/tháng, làm cho hiệu quả hoạt động tín dụng của các NHTM trên địa bàn thấp,
hạn chế việc đẩy mạnh cho vay vốn. Ngoài ra, tỷ lệ huy động tại chỗ của các NHTM
thấp còn cho chúng ta thấy rằng khả năng huy động vốn tại chỗ của các NHTM còn
nhiều hạn chế, chưa thu hút được những nguồn vốn nhàn rỗi tiềm năng còn lớn trong
dân cư; đặc biệt, lượng tiền kiều hối do thân nhân nùc ngoài gởi về cho người thân
trong tỉnh không thông qua hệ thống ngân hàng là rất lớn. Vì vậy các ngân hàng phải

có những biện pháp huy động vốn hấp dẫn và hiệu quả để thu hút ngày càng nhiều vốn
nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế trên địa bàn nhằm nâng cao tính tự chủ và
hiệu quả trong hoạt động tín dụng của ngân hàng mình.
Huy động vốn tại chỗ
Bảng 7 : Tình hình huy động vốn các loại trên địa bàn
Đơn vị tính: tỷ đồng

Chỉ tiêu
1. Tiền gởi thanh toán
- Không kỳ hạn
- Có kỳ hạn
2. Tiền gởi tiết kiệm
- Không kỳ hạn
- Có kỳ hạn
3. Tiền gởi kỳ phiếu, trái phiếu
4. Tiền gởi khác
Tr.đó : TG Kho bạc nhà nước
Tổng cộng

1998

1999

125,5
120,4
5,1
228,0
25,3
202,7
39,6

87,2
84,4
480,3

Trang 19

350,0
339,1
10,9
282,3
21,4
260,9
11,4
123,5
109,2
767,2

Tỷ lệ tăng, giảm (%)
99/98
00/99
361,4
178,9
3,3
347,1
181,6
2,4
14,4
114,4
31,7
293,5

23,8
4,0
26,3
-15,4
22,8
267,2
28,7
2,4
32,0
-71,1
180,0
334,6
41,6
171,0
331,5
29,3
203,7
1021,6
59,7
33,2
(Nguồn : NHNN tỉnh Kiên Giang)

2000


×