Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

(Luận văn thạc sĩ) vận dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế để hoàn thiện hệ thống kế toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (914.99 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

TRẦN THỊ THIÊN NGA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2000


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1

BẢN CHẤT KẾ TOÁN VÀ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN

1

1.1

BẢN CHẤT KẾ TOÁN

1

1.1.1

Vài nét về lịch sử kế toán

1



1.1.2

Định nghóa kế toán

2

1.1.3

Vai trò, vị trí của kế toán

3

1.1.4

Cơ chế vận hành của kế toán

5

1.2

BẢN CHẤT CHUẨN MỰC KẾ TOÁN

6

1.2.1

Định nghóa chuẩn mực kế toán

6


1.2.2

Đặc điểm của chuẩn mực kế toán

7

1.2.3

Mối quan hệ giữa chuẩn mực kế toán với chính sách tài chính,
thuế

8

1.3

CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ

11

1.3.1

Quá trình hình thành chuẩn mực kế toán quốc tế

11

1.3.2

Nội dung của hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế


13

1

Khuôn mẫu của chuẩn mực kế toán quốc tế

13

2

Các chuẩn mực kế toán quốc tế

16

1


CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG CỦA HỆ THỐNG KẾ TOÁN VN

23

2.1

HỆ THỐNG KẾ TOÁN VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1995

23

2.1.1


Hệ thống kế toán Việt nam từ khi ra đời đến năm 1986

23

2.1.2

26

2.2

Hệ thống kế toán Việt nam từ năm 1986 đến năm 1995
HỆ THỐNG KẾ TOÁN VIỆT NAM TỪ NĂM 1995 ĐẾN
NAY

2.2.1

Môi trường pháp lý

29

2.2.2

Nội dung hệ thống kế toán Việt Nam hiện hành

32

2.2.3

Đặc điểm của hệ thống kế toán Việt Nam hiện hành


36

2.2.4

Ưu điểm của hệ thống kế toán Việt Nam hiện hành

37

2.2.5

Nhược điểm của hệ thống kế toán Việt Nam hiện hành

39

2.2.6

So sánh hệ thống kế toán Việt Nam với chuẩn mực kế toán
quốc tế

Bản
g1

VẬN DỤNG MỘT SỐ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ
ĐỂ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG KẾ TOÁN VIỆT NAM

44

QUAN NIỆM VẬN DỤNG MỘT SỐ CHUẨN MỰC KẾ
TOÁN QUỐC TẾ ĐỂ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG KẾ TOÁN

VN

44

Xu hướng hòa hợp các chuẩn mực kế toán của các quốc gia
trên thế giới và quan niệm vận dụng một số chuẩn mực kế
toán quốc tế để hoàn thiện hệ thống kế toán Việt Nam

44

CHƯƠNG 3

3.1

3.1.1

2

29


3.1.2

3.1.3

Cơ sở pháp lý cho việc ra đời của hệ thống chuẩn mực kế toán
Việt Nam
46
Các nguyên tắc xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán Việt
Nam

47

3.1.4

Quy trình nghiên cứu, soạn thảo ban hành và công bố chuẩn
mực kế toán Việt Nam

48

3.1.5

Nội dung xây dựng chuẩn mực kế toán quốc gia Việt Nam

49

1

Về việc xây dựng và ban hành khuôn mẫu

49

2

Về việc ban hành từ điển thuật ngữ kế toán

50

3

Về việc xây dựng các chuẩn mực kế toán Việt Nam


50

3.2

MỘT SỐ Ý KIẾN VẬN DỤNG CHUẨN MỰC KẾ TOÁN
QUỐC TẾ ĐỂ HOÀØN THIỆN HỆ THỐNG KẾ TOÁN VN

52

3.2.1

Lập dự phòng phải thu khó đòi

52

3.2.2

Dự phòng giảm giá hàng tồn kho

53

3.2.3

Tài sản cố định hữu hình

54

3.2.4


Chi phí nghiên cứu và phát triển

56

3.2.5

Tài sản cố định thuê tài chính

57

3.2.6

Đánh giá lại tài sản

58

3.2.7

Chênh lệch tỷ giá

59

3.2.8

Phương pháp hạch toán và việc công bố các lỗi cơ bản và sự
thay đổi chính sách kế toán

60

3.2.9


Các sự kiện bất thường sau ngày lập bảng cân đối kế toán

62

3.2.10

Những vấn đề khác

62

3


1

Cơ cấu doanh thu

62

2

Việc ghi nhận chi phí

63

3

Báo cáo tài chính toàn công ty và kế toán về các khoản đầu tư
vào các xí nghiệp phụ thuộc


63

4

Hạch toán hợp đồng xây dựng

64

5

Thông tin về ảnh hưởng của sự biến động giá cả

64

6

Công bố của các bên hữu quan

64

7

Báo cáo tài chính trong nền kinh tế lạm phát

64

3.2.11

Một số ý kiến khác về hoàn thiện hệ thống kế toán Việt Nam


65

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

4


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản
lý kinh tế, có vai trò tích cực trong việc quản lý, điều hành và kiểm soát các
hoạt động kinh tế. Với tư cách là công cụ quản lý kinh tế, tài chính, kế toán là
một lónh vực gắn liền với hoạt động kinh tế, tài chính, đảm nhiệm hệ thống tổ
chức thông tin có ích cho các quyết định kinh tế.
Nhiều thập niên gần đây đã cho thấy sự ra đời và phát triển của nền kinh
tế toàn cầu – các công ty, tổ chức tài chính và các nhà đầu tư đều tìm cơ hội để
xâm nhập vào nhiều nước, làm phát sinh việc quốc tế hóa thị trường vốn, thị
trường tiêu thụ, thị trường lao động. Điều này là khả thi vì nhờ có sự tiến bộ của
công nghệ thông tin đã cung cấp được những thông tin tài chính và những thông
tin cần thiết khác bất kể sự khác nhau về không gian và thời gian. Tuy nhiên,
các thông tin tài chính thường được soạn thảo phù hợp với chuẩn mực và thông
lệ của từng quốc gia, mà các chuẩn mực và thông lệ giữa các quốc gia thường có
sự khác biệt lớn, do đó để có thể hiểu được và dùng làm cơ sở để đo lường và so
sánh, các thông tin tài chính phải được diễn dịch lại. Từ đó làm nảy sinh nhu cầu
phải thống nhất các nguyên tắc kế toán (trên phạm vi toàn thế giới) trong việc
lập các báo cáo tài chính, và, trong điều kiện như thế, các chuẩn mực kế toán
quốc tế đã ra đời để trở thành cơ sở cho hầu hết các quốc gia trong việc xây

dựng và hoàn thiện hệ thống kế toán của mình.
Không nằm ngoài xu hướng chung đó, Việt Nam – quốc gia đang trong quá
trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo hướng hội nhập vào nền
kinh tế thế giới – cũng phải mau chóng cải tiến hệ thống kế toán cho phù hợp

5


với thông lệ quốc tế, tuy nhiên không phải đơn giản chỉ là sự áp dụng toàn bộ
các chuẩn mực kế toán quốc tế mà phải dựa vào đặc điểm kinh tế-xã hội và yêu
cầu quản lý của nền kinh tế cũng như định hướng phát triển trong tương lai của
Việt Nam để mà vận dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế với những điều chỉnh
thích hợp. Đây chính là một vấn đề bức xúc và vô cùng cần thiết để phát triển
kinh tế Việt Nam đồng thời cũng là đòi hỏi cho quá trình hội nhập quốc tế và
khu vực.
2. MỤC ĐÍCH CỦA LUẬN ÁN
So sánh hệ thống kế toán Việt Nam hiện hành với các chuẩn mực kế toán
quốc tế, sau đó dựa vào những điểm khác biệt đã tìm ra ở trên cùng với việc
xem xét các đặc điểm của Việt Nam về kinh tế, xã hội, luật phát, văn hóa … để
đề xuất phương hướng và biện pháp hoàn thiện hệ thống kế toán Việt Nam.
3. ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của luận án chỉ giới hạn ở phần kế toán tài chính,
không đề cập đến kế toán quản trị cũng như các loại kế toán khác.
Quá trình nghiên cứu bao gồm :
*

Phân tích quá trình hình thành chuẩn mực kế toán quốc tế

*


Phân tích quá trình hình thành và phát triển hệ thống kế toán Việt

Nam qua các thời kỳ
* So sánh hệ thống kế toán Việt Nam với các chuẩn mực kế toán quốc tế,
được thực hiện theo trình tự của hệ thống kế toán Việt Nam, bao gồm :
- Hệ thống tài khoản
- Hệ thống báo cáo
- Hệ thống chứng từ
- Hệ thống sổ sách
trong đó nhấn mạnh ở phần hệ thống tài khoản

6


*

Đề xuất phương hướng và biện pháp hoàn thiện hệ thống kế toán

Việt Nam
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận án sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như phương pháp duy vật
biện chứng, tổng hợp và phân tích, so sánh và đối chiếu, logic … để giúp luận án
đạt được mục tiêu đã đề ra.
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Luận án góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc am hiểu một cách có hệ
thống quá trình phát triển của hệ thống kế toán Việt Nam từ ngày thành lập đến
nay; hệ thống hóa sự khác nhau giữa hệ thống kế toán Việt Nam và chuẩn mực
kế toán quốc tế, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận dụng các chuẩn mực
kế toán quốc tế vào Việt Nam trên cơ sở chọn lọc sao cho phù hợp với điều kiện
phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam; đề xuất phương hướng chung cũng như

những kiến nghị cụ thể để hoàn thiện hệ thống kế toán Việt Nam.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Luận án gồm 68 trang, 1 bảng, 1 sơ đồ, 2 phụ lục và có kết cấu như sau :
- Mở đầu
- Chương 1 : Bản chất kế toán và chuẩn mực kế toán
-Chương 2 :

Thực trạng của hệ thống kế toán Việt Nam. So sánh hệ

thống kế toán Việt Nam hiện hành với chuẩn mực kế toán quốc tế
- Chương 3 : Một số ý kiến vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế để hoàn
thiện hệ thống kế toán Việt Nam
-

Kết luận

-

Tài liệu tham khảo

-

Phụ lục

7


CHƯƠNG 1
BẢN CHẤT KẾ TOÁN VÀ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN


1.1 BẢN CHẤT KẾ TOÁN
1.1.1 VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ KẾ TOÁN
Sự hình thành của khoa kế toán xuất hiện cùng một lúc với sự hình thành
đời sống kinh tế xã hội của loài người. Xuyên qua các thời đại đánh dấu đà tiến
triển quan trọng của nền văn minh cổ sơ các dân tộc như Ai Cập, Babylonienne,
Hy Lạp, La Mã… với những cổ vật tìm được từ những thời đại xa xưa để lại (như
những di tích bằng đất nung, những bia đá trên đó có ghi khắc nhiều tài liệu)
chứng tỏ rằng môn kế toán đã hình thành từ 3, 4 ngàn năm trước Công nguyên.
Việc ghi chép, tính toán, kiểm tra của thời xưa mang nhiều đặc điểm
tương tự như của chúng ta ngày nay. Chẳng hạn như các nhà quản lý thời xưa
cũng ghi chép lại những khoản thu, chi và sử dụng những thủ tục để kiểm tra sự
trung thực và đáng tin cậy của các nhân viên.
Một nghiên cứu về sự tiến hóa của kế toán đã chỉ ra rằng kế toán đã phát
triển tương ứng với nhu cầu của kinh doanh, và sự phát triển kinh tế đã tác động
đến sự phát triển của kế toán. Lịch sử cho thấy trình độ văn minh càng cao thì
các phương pháp kế toán càng chi tiết, tỉ mỉ.
Sự ra đời của phương pháp ghi sổ kép là một sự kiện trọng đại trong lịch
sử kế toán. Năm 1494, ông Luca Pacioli, một giáo só cơ đốc, đã trình bày
phương pháp ghi sổ kép trong một tác phẩm của ông có tựa đề là “Summa de
Arithmetica, Geometric, Proportion et Proportionalite”. Đây chính là những
nguyên tắc kế toán căn bản, thiết yếu và có tính cách truyền thống mà hiện nay
chúng ta vẫn đang áp dụng.

8


Từ đó đến nay, nền thương mại, kỹ nghệ, nền văn minh nhân loại đã có
những bước tiến vượt bực, các hoạt động kinh tế, tài chính, ngân hàng, ngoại
thương… càng ngày càng phát triển đa dạng và tất nhiên, khoa kế toán phải luôn
luôn cải tiến để vận dụng cho phù hợp với đà phát triển kinh tế một cách khoa

học và tinh vi hơn.
1.1.2 ĐỊNH NGHĨA KẾ TOÁN
Có rất nhiều định nghóa về kế toán, tuy nhiên chúng không mâu thuẫn
nhau mà luôn thống nhất với nhau về mục tiêu và bản chất của kế toán.
Mục tiêu cơ bản của kế toán là cung cấp thông tin tài chính về một thực
thể kinh tế. Những thông tin tài chính do hệ thống kế toán cung cấp cần thiết cho
những người ra quyết định quản lý trong việc lập kế hoạch và giám sát hoạt
động của thực thể kinh tế đó.
Muốn cung cấp được các dữ kiện tài chính này, kế toán phải thực hiện
một số công việc như ghi nhận vào sổ sách các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, sau
đó phân loại và hệ thống hóa theo từng loại nghiệp vụ cũng như tổng hợp những
nghiệp vụ này lại. Cuối cùng là tính toán kết quả của những nghiệp vụ kinh tế
diễn ra trong thời kỳ bằng cách lập các báo cáo tài chính để cho ban giám đốc
thấy được kết quả hoạt động và tình hình tài chính của đơn vị mình. Chính vì kế
toán viên phải thực hiện những công việc như trên mà ta có thể định nghóa như
sau : “Kế toán là một khoa học, liên quan đến việc ghi nhận; phân loại; tổng hợp
và tính toán kết quả của các hoạt động kinh tế tài chính của một tổ chức giúp
ban giám đốc có thể căn cứ vào đó mà ra các quyết định quản lý”.
Theo điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước Việt Nam thì “kế toán là công
việc ghi chép, tính toán bằng con số dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian
lao động, chủ yếu dưới hình thức giá trị để phản ánh kiểm tra tình hình vận động

9


của các loại tài sản, quá trình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng
vốn và kinh phí của Nhà nước, cũng như từng tổ chức, xí nghiệp”.
Theo Hiệp Hội Kế toán Mỹ, “kế toán là quá trình ghi nhận, đo lường, và
công bố các thông tin kinh tế, giúp người sử dụng phán đoán và ra quyết định
dựa trên những thông tin này”.

Kế toán còn được gọi là “ngôn ngữ của kinh doanh”. Ngôn ngữ là một
công cụ để giao tiếp xã hội, do đó ngôn ngữ phải thay đổi để đáp ứng những nhu
cầu biến động của xã hội. Tương tự như vậy, kế toán cũng liên tục diễn ra sự
biến động và hoàn thiện.
1.1.3 VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA KẾ TOÁN
Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên của kế toán. Do kế toán đã có
những tiến bộ to lớn nên việc thực hiện các chức năng kế toán trở thành yêu cầu
thiết yếu đối với mỗi đơn vị trong xã hội. Mỗi cá nhân đều phải tính toán thu
nhập của mình, các công ty lớn phải chịu trách nhiệm trước các cổ đông của họ,
trước các cơ quan chính phủ và trước công chúng. Đối với một doanh nghiệp,
một trường học, một chương trình xã hội hoặc một thành phố, kế toán được sử
dụng làm cơ sở để kiểm soát nguồn lực và đo lường mức độ hoàn thành công
việc của họ, là cơ sở thiết yếu giúp họ thành công.
Cụ thể là đối với doanh nghiệp : nhờ kế toán mà người quản lý điều hành
trôi chảy các hoạt động đơn vị, tạo cho sự quản lý lành mạnh, tránh những hiện
tượng thâm lạm tài sản. Nhờ kế toán mà người quản lý tính được hiệu quả công
việc mình làm đồng thời cũng qua đó vạch ra hướng hoạt động cho tương lai. Kế
toán giúp doanh nghiệp theo dõi thường xuyên tình hình hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, là cơ sở đảm bảo vững chắc trong sự giao dịch buôn
bán, giúp cho ngøi quản lý ra quyết định kịp thời, phù hợp, giúp điều hòa tình
hình tài chính của doanh nghiệp. Ngoài ra, kế toán còn là cơ sở để giải quyết sự

10


tranh tụng khiếu tố, được tòa án công nhận là bằng chứng về hành vi thương
mại.
Đối với Nhà nước : nhờ kế toán, Nhà nước có thể theo dõi được sự phát
triển của các ngành sản xuất kinh doanh để từ đó tổng hợp được sự phát triển
của nền kinh tế quốc gia. Nhờ số liệu kế toán, Nhà nước làm trọng tài giải quyết

sự tranh chấp về quyền lợi giữa các doanh nghiệp. Kế toán cung cấp các dữ kiện
hữu ích cho các quyết định kinh tế, chính trị, xã hội… xác định được khả năng
trách nhiệm, cương vị quản lý và cung cấp các dữ kiện hữu ích cho việc đánh giá
khả năng tổ chức và lãnh đạo. Đối với nền kinh tế quốc gia, kế toán lưu ý với
chính quyền trong việc soạn thảo và ban hành những luật lệ về thuế, thiết lập
những chính sách kinh tế cho phù hợp với tình hình thương mại và kinh tế nước
nhà. Qua kết quả tổng hợp các báo cáo tài chính của ngành, chính quyền có thể
biết được tình hình thịnh suy của nền kinh tế nước nhà, biết được sự thành công
hay thất bại của các ngành doanh nghiệp đồng thời biết được nguồn lợi về thuế
sẽ thu được cho ngân sách.
Tóm lại, kế toán có vai trò tích cực đối với việc quản lý vốn tài sản và
việc điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp, nó là nguồn
thông tin số liệu đáng tin cậy để nhà nước điều hành nền kinh tế, kiểm tra, kiểm
soát hoạt động của các ngành, các khu vực. Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước
ban hành kèm theo NĐ số 25 HĐBT (nay là Hội đồng chính phủ) có nêu
rõ…”…Kế toán là công cụ quan trọng để tính toán, xây dựng và kiểm tra việc
chấp hành Ngân sách Nhà nước, để điều hành và quản lý nền kinh tế quốc dân.
Đối với các tổ chức, xí nghiệp, kế toán là công cụ quan trọng để điều hành, quản
lý các hoạt động, tính toán kinh tế và kiểm tra việc bảo vệ, sử dụng tài sản, vật
tư, tiền vốn nhằm bảo đảm việc chủ động trong sản xuất, kinh doanh và chủ
động tài chính của tổ chức, xí nghiệp…”

11


1.1.4 CƠ CHẾ VẬN HÀNH CỦA KẾ TOÁN
Để cung cấp thông tin tài chính hữu ích, có nghóa là đạt được các mục tiêu
của báo cáo tài chính, kế toán không chỉ tùy thuộc vào sự am hiểu các kỹ thuật
ghi chép của kế toán mà còn tùy thuộc vào sự nắm vững cấu trúc của kế toán và
sự thống nhất với môi trường kinh doanh. Cấu trúc của kế toán được hình thành

bởi các giả thiết, khái niệm, nguyên tắc và các thủ tục kế toán ; được minh họa
theo sơ đồ sau :
1- Các mục tiêu của báo cáo tài chính

2a- Các giả thiết kế toán

2b- Các khái niệm kế toán

2a- Các nguyên tắc kế toán

2a- Các thủ tục kế toán
Các khái niệm và giả thiết kế toán do con người thu nhận từ môi trường
kinh doanh, nó không phải là những quy luật tự nhiên. Nhưng khi môi trường
kinh doanh thay đổi thì khái niệm và giả thiết kế toán rất hiếm thay đổi. Các giả
thiết và khái niệm của kế toán là những điều hiển nhiên được công nhận vì nó
phù hợp với mục tiêu của báo cáo tài chính.
Nguyên tắc kế toán được xây dựng trên cơ sở những giả thiết và khái
niệm kế toán, đó là những hướng dẫn tổng quát cho việc thực hành thu thập, xử
lý thông tin.

12


Thủ tục kế toán là những cách thức, phương pháp riêng biệt trong ứng
dụng kế toán để thực hiện chức năng của kế toán, do đó thủ tục kế toán dễ dàng
thay đổi cho phù hợp với môi trường kinh doanh – cụ thể gồm các công việc sau
:
- Kế toán viên quan sát, nhận diện và đo lường bằng giá trị các nghiệp vụ kinh
tế phát sinh.
- Để phản ánh và giám đốc, kế toán vận dụng hệ thống phương pháp kế toán

như lập chứng từ kế toán, kiểm kê, đánh giá, tính giá thành, tài khoản, ghi sổ
kép để cung cấp những dữ kiện cần thiết cho việc lập báo cáo tài chính.
Những dữ kiện đó được thiết lập trên cơ sở tuân thủ một cách nghiệm ngặt
các nguyên tắc kế toán và bị chi phối bởi định chế pháp luật của nước sở tại.
Thông thường các báo cáo tài chính trước khi công bố ra bên ngoài phải được
một công ty kiểm toán xác nhận.
1.2 BẢN CHẤT CHUẨN MỰC KẾ TOÁN
1.2.1 ĐỊNH NGHĨA CHUẨN MỰC KẾ TOÁN
Chuẩn mực kế toán là những quy định và hướng dẫn về nguyên tắc, nội
dung, phương pháp và thủ tục kế toán cơ bản, chung nhất, đủ làm cơ sở ghi chép
kế toán và lập báo cáo tài chính nhằm đạt được sự đánh giá trung thực, hợp lý,
khách quan về thực trạng tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp,
được nhiều người thừa nhận.
Chuẩn mực kế toán bao gồm những quy định có tính nguyên tắc, mực
thước làm cơ sở cho doanh nghiệp tổ chức công tác kế toán, lập và trình bày báo
cáo tài chính. Chuẩn mực kế toán vừa có những quy định mang tính pháp quy về
các nguyên tắc, phương pháp kế toán để đảm bảo tính trung thực, khách quan,
hợp lý và khả năng so sánh của thông tin kế toán, tạo ra độ tin cậy cao cho
những người sử dụng; chuẩn mực kế toán còn bao gồm các quy định mang tính

13


hướng dẫn, giải thích thống nhất các phương pháp tính toán và thủ tục ghi chép
phản ánh. Mục tiêu của chuẩn mực kế toán là quy định thống nhất nội dung,
cách trình bày và thuyết minh báo cáo tài chính doanh nghiệp, hay nói cách khác
là nâng cao tính so sánh và nhất quán dựa trên thông lệ kế toán chung.
Theo thông lệ phổ biến ở các quốc gia trên thế giới, cơ quan nghiên cứu
và công bố chuẩn mực kế toán quốc gia thường là các Hiệp hội nghề nghiệp
hoặc Bộ Tài chính, hoặc tổ chức vừa có tính chất Nhà nước, vừa có tính chất

nghề nghiệp.
Ví dụ :
- Ở Anh :

Chuẩn mực kế toán do Ủy ban Chuẩn mực kế toán trực thuộc Hội

đồng báo cáo tài chính công bố
- Ở Mỹ : Chuẩn mực kế toán do Hội đồng tiêu chuẩn kế toán tài chính
(FASB) trực thuộc Viện kế toán viên công chứng Hoa Kỳ (AICPA)
ban hành.
- Ở Pháp : Chuẩn mực kế toán do Hội đồng kế toán quốc gia soạn thảo, Bộ
Kinh tế tài chính (CNCC) ban hành
1.2.2 ĐẶC ĐIỂM CỦA CHUẨN MỰC KẾ TOÁN
Chuẩn mực kế toán là những quy định mang tính pháp lý (tuy nhiên đặc
điểm này không hoàn toàn có ở tất cả các quốc gia, ví dụ như ở Vương quốc Anh
thì chuẩn mực kế toán chỉ là những quy định có tính hướng dẫn (không bắt buộc)
do Hiệp hội nghề nghiệp xây dựng) và mang tính mực thước. Nó liên quan đến
chính sách tài chính, chính sách thuế ở đặc điểm là vừa thống nhất, vừa độc lập
với chính sách tài chính, chính sách thuế, vấn đề này sẽ được phân tích rõ hơn ở
mục 1.2.3 “Mối quan hệ giữa chuẩn mực kế toán với chính sách tài chính, thueá
“.

14


Chuẩn mực kế toán linh hoạt hơn Luật kế toán và dễ sửa đổi khi cần thiết,
nó thường được trình bày một cách dễ hiểu (theo ngôn ngữ chuyên môn), thể
hiện cụ thể khuôn mẫu các vấn đề liên quan đến thu nhận, xử lý, trình bày và
cung cấp thông tin kế toán. Chuẩn mực kế toán không đề cập chi tiết hết mọi
khía cạnh trong mọi nghiệp vụ giao dịch mà nó tạo điều kiện cho các kế toán

viên có thể vận dụng sự xét đoán của mình (tuy nhiên đặc điểm này cũng còn
tùy thuộc từng quốc gia)
Chuẩn mực kế toán có thể được trình bày dưới các hình thức văn bản khác
nhau, có thể là theo từng chuẩn mực riêng rẽ hoặc trình bày trong hệ thống kế
toán chung tùy theo đặc điểm của mỗi quốc gia.
Chuẩn mực kế toán có tác dụng :
- Đảm bảo tính thống nhất trong ghi chép kế toán, trình bày và thuyết minh các
báo cáo tài chính của doanh nghiệp
- Đảm bảo độ tin cậy và sự an tâm cho những người sử dụng thông tin kế toán
- Tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ kế toán thực hiện công tác kế toán một
cách thuận tiện, có căn cứ, phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp trong môi
trường pháp lý chung. Mặt khác, thuận lợi cho công tác đào tạo, huấn luyện,
di chuyển cán bộ kế toán trong phạm vi từng quốc gia cũng như khu vực hoặc
toàn thế giới.
1.2.3 MỐI QUAN HỆ GIỮA CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VỚI CHÍNH
SÁCH TÀI CHÍNH, THUẾ
Chính sách (còn gọi là cơ chế hoặc quy chế) tài chính doanh nghiệp là
những quy định mang tính pháp quy của Nhà nước đối với hoạt động tài chính
của một doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho hoạt động tài chính doanh nghiệp
được lành mạnh, hiệu quả, công bằng, phản ánh trung thực tình hình tài chính,

15


tính toán và nộp đủ thuế theo pháp luật Nhà nước, bảo đảm quyền lợi của người
đầu tư không bị xâm phạm.
Chính sách thuế là những quy định của Nhà nước về các sắc thuế đối với
các đơn vị kinh doanh và cá nhân nhằm thực hiện việc động viên các nguồn thu
vào Ngân sách Nhà nước, điều tiết vó mô nền kinh tế và đảm bảo công bằng xã
hội.

Ngoại trừ những vấn đề mang tính khái niệm, định nghóa, nguyên tắc
đánh giá liên quan đến thu nhập, chi phí, lợi nhuận đòi hỏi phải đạt đến sự thống
nhất về cơ bản ở cả 3 loại chính sách : Chính sách tài chính, chính sách thuế và
chuẩn mực kế toán, mối quan hệ giữa chuẩn mực kế toán và thuế là mối quan
hệ độc lập, chủ yếu là ở việc chấp nhận sự khác biệt giữa lợi nhuận kế toán và
lợi nhuận chịu thuế. Nguyên nhân là do khi xác định lợi nhuận chịu thuế, Luật
thuế đã không cho tính vào chi phí hợp lý một số khoản chi phí của doanh
nghiệp hoặc là quy mô các khoản chi phí đó vượt quá định mức giới hạn quy
định. Sự khác biệt này là điều tất yếu và phổ biến ở các quốc gia.
Chuẩn mực kế toán và chính sách tài chính có nhiều điểm thống nhất,
trùng hợp và cũng có nhiều điểm không thống nhất và hoàn toàn độc lập, bởi vì :
- Chính sách tài chính bao gồm các quy định đối với hoạt động tài chính của
doanh nghiệp. Chuẩn mực kế toán đưa ra các quy định áp dụng cho hạch toán
kế toán và lập báo cáo tài chính, mà đối tượng phản ánh của thông tin kế toán
tài chính cũng là hoạt động tài chính của doanh nghiêp. Do đó, những quy
định trong chuẩn mực kế toán về phản ánh các thông tin về hoạt động tài
chính được lượng hóa bằng chỉ tiêu giá trị yêu cầu phải trùng hợp, thống nhất
về cơ bản với quy định trong chính sách tài chính.
- Sự khác biệt, không trùng hợp giữa chuẩn mực kế toán và chính sách tài chính
được thể hiện ở các quy định về vấn đề quản lý tài chính hoặc hướng dẫn các

16


phương pháp kế toán : có những quy định chỉ được đưa ra trong chính sách tài
chính doanh nghiệp mà không được đề cập trong chuẩn mực kế toán, ngược
lại, có những quy định chỉ có trong chuẩn mực kế toán mà không có trong
chính sách tài chính.
Trên thế giới, ở một sốù nước, hệ thống chuẩn mực kế toán được thiết lập
ban đầu bởi khu vực kinh tế tư nhân (Mỹ, Hà Lan) và sự vận hành khá tự do,

những ràng buộc pháp lý khá lỏng lẻo. Ở một số nước khác, hệ thống chuẩn mực
kế toán lại chịu ảnh hưởng nặng nề bởi luật pháp và các quy định về thuế (Tây
Đức, Nhật Bản). Có những nước, kế toán chịu chi phối khá chặt chẽ của Nhà
nước (Pháp, Hy Lạp), của cơ chế kế hoạch hóa tập trung (Liên Xô cũ, một vài
nước Đông u), có nước quan tâm kế toán xã hội, kế toán quốc gia (Hy Lạp,
Pháp), quan tâm chuẩn mực kế toán trong môi trường lạm phát (Brazil). Có nước
quan tâm và rộng rãi trong lập dự phòng nợ khó đòi, phát triển thị trường ngoài
nước (Nhật). Có nước lại quan tâm nhiều đến kế toán quản trị và sự bí mật của
thông tin (Thụy Só). Một vài nước có sự thống nhất khá cao trong quy định về hệ
thống tài khoản kế toán (Pháp và một số nước đã từng là thuộc Pháp). Ngược
lại, có một số nước lại không có quy định bắt buộc về hệ thống tài khoản kế
toán. Nhiều nước có hệ thống kế toán tương tự như hệ thống kế toán của các
nước cai trị thuộc địa trước đây như Aixơlen, New Zealand, Hongkong,
Singapore, Tuynidi, Ma Rốc. Nhưng nhìn chung, tại các quốc gia có nền kinh tế
thị trường lâu đời, có hai nhóm trường phái kế toán tiêu biểu, đó là trường phái
Châu u lục địa và trường phái Anglo-Saxon mà điểm khác biệt chủ yếu nhất
giữa hai trường phái này là sự đồng nhất kế toán trong toàn quốc gia. Các quốc
gia thuộc khối Anglo-Saxon cho rằng việc đồng nhất là do sự thiếu nhận thức về
tính đa dạng của thực tiễn, và các khuôn mẫu kế toán có liên quan trong khi các
quốc gia thuộc khối Châu u lục địa lại cho rằng đồng nhất hóa về kế toán sẽ

17


giúp cho người sử dụng tránh khỏi những khác biệt trọng yếu do tính thiếu đồng
nhất gây ra.
1.3 CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ
1.3.1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ
Trên thế giới, đã từ lâu ở mỗi quốc gia có một hệ thống kế toán phù hợp
đặc điểm, trình độ và tập quán của từng nước, trên cơ sở những nguyên lý chung

và lý thuyết về phương pháp kế toán. Ở Việt Nam cũng vậy, hệ thống kế toán
tương đối hoàn chỉnh của chúng ta hình thành từ những năm 60 trên nền tảng của
kế toán Trung Quốc, Liên Xô. Chúng ta gọi là chế độ kế toán hoặc hệ thống chế
độ kế toán. Những năm gần đây, xu hướng toàn cầu hóa, hợp tác và phát triển
kinh tế đã diễn ra khá sôi động – sự hình thành và phát triển của hàng loạt công
ty đa quốc gia, của thị trường tài chính quốc tế và các hoạt động thương mại
ngoài biên giới đã cho phép nhiều nhà đầu tư hoạt động trong phạm vi khu vực
và quốc tế. Hoạt động kế toán không còn là vấn đề mang tính quốc gia mà cần
phải được giải quyết ở tầm cỡ và quy mô quốc tế. Nhu cầu này đòi hỏi phải xúc
tiến quá trình hài hòa, thống nhất hóa các chuẩn mực kế toán quốc gia và hình
thành chuẩn mực kế toán quốc tế làm cơ sở ghi chép kế toán, trình bày và lập
báo cáo tài chính ở các doanh nghiệp trên phạm vi toàn cầu, giúp cho việc tổng
hợp báo cáo, so sánh và hiểu được thông tin trình bày trên báo cáo tài chính.
Hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế đề cập đến những vấn đề mang tính
nền tảng, khuôn mẫu, những nguyên tắc, phương pháp có tính chất cơ bản có thể
áp dụng ngay ở những quốc gia đã có đầy đủ những điều kiện cần thiết và ở các
quốc gia chưa phát triển.
Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) đã được thành lập từ năm 1973
bởi tổ chức kế toán của 10 quốc gia là c, Cana, Pháp, Tây Đức, Nhật,
Mexico, Hà Lan, Anh, i Nhó Lan và Mỹ để thực hiện việc cải tiến và hài hoøa

18


báo cáo tài chính, chủ yếu thông qua sự phát triển và công bố các chuẩn mực kế
toán quốc tế.
Mục tiêu của IASC là :
- Thiết lập và công bố trước công chúng các chuẩn mực kế toán quốc tế được
áp dụng trong việc lập báo cáo tài chính và nâng cao sự chấp nhận và tôn
trọng trên toàn thế giới.

- Thực hiện việc cải tiến và hài hòa các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán và thủ
tục liên quan đến sự trình bày báo cáo tài chính.
Những thành viên của IASC bao gồm những tổ chức kế toán chuyên nghiệp là
thành viên của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) đại diện cho hơn một triệu kế
toán viên ở các ngành công nghiệp, thương nghiệp, giáo dục… và chính phủ.
Hoạt động của IASC được tiến hành bởi một Hội đồng quản trị bao gồm đại diện
của 13 quốc gia và tối đa là bốn tổ chức khác có quan tâm đến báo cáo tài chính
(ví dụ như đại diện của Ủy ban phối hợp quốc tế của Hiệp hội các nhà phân tích
tài chính, Liên đoàn các công ty cổ phần mẹ ngành công nghiệp Thụy Só , Hiệp
hội quốc tế các viện điều hành tài chính…) có nhiệm vụ xây dựng, sửa đổi các
chuẩn mực. Hội đồng quản trị còn gặp gỡ thường xuyên một nhóm cố vấn quốc
tế bao gồm đại diện của những người sử dụng và soạn thảo báo cáo tài chính
cũng như các quan sát viên từ các tổ chức liên chính phủ. Nhóm cố vấn này có
nhiệm vụ tư vấn cho IASC về việc soạn thảo các IAS và tham gia phản biện học
(nhưng không biểu quyết).
IASC đã phát triển các chuẩn mực kế toán thông qua một quá trình liên quan
đến các chuyên gia về báo cáo kế toán và tài chính trên khắp thế giới. Quá trình
này cung cấp cho những người sử dụng, soạn thảo và kiểm toán báo cáo tài
chính cơ hội để trình bày quan điểm của mình về các chuẩn mực kế toán cần

19


thực hiện. Quá trình này cần thiết cho việc duy trì chất lượng của các chuẩn mực
kế toán quốc tế.
Các đại diện của Hội đồng quản trị , các tổ chức thành viên, các thành viên của
nhóm Cố vấn và những cá nhân và tổ chức khác cũng như nhân viên IASC được
khuyến khích đểõ đệ trình những đề nghị về đề tài mới liên quan đến các IAS
trong đó có nêu rõ lý do tại sao nên thêm đề tài này vào chương trình làm việc
hiện tại. Những đề nghị này sẽ được Hội đồng quản trị xem xét. Khi Hội đồng

đã thêm đề tài vào chương trình làm việc của mình, họ sẽ thành lập một Ban
thường trực. Sau khi nghiên cứu đề tài, Ban thường trực sẽ đưa ra dự thảo. Dự
thảo được Hội đồng xem xét rồi chuyển cho các tổ chức thành viên, các thành
viên của Nhóm Cố vấn và các cơ quan có liên quan để lấy ý kiến. Sau khi nhận
ý kiến đóng góp, Hội đồng sẽ xem lại và hiệu đính (nếu cần thiết). Sau đó, nếu
dự thảo được tối thiểu 3/4 Hội đồng quản trị chấp thuận, dự thảo sẽ trở thành
một chuẩn mực, và có hiệu lực từ ngày được ghi trong chuẩn mực.
Ngôn ngữ của các chuẩn mực và dự thảo đều được viết bằng tiếng Anh. Những
thành viên của Ủy ban dưới sự chỉ đạo của Hội đồng quản trị sẽ có trách nhiệm
soạn thảo các bản dịch. Muốn có giá trị, bản dịch ra các ngôn ngữ khác phải
được Hội đồng quản trị chấp thuận.
1.3.2 NỘI DUNG CỦA HỆ THỐNG CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ
Hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế gồm 3 phần chính :
- Khuôn mẫu của chuẩn mực kế toán quốc tế
- Các chuẩn mực kế toán quốc tế
- Từ điển thuật ngữ
1- Khuôn mẫu của chuẩn mực kế toán quốc tế
IASC đã ban hành khuôn mẫu cho việc soạn thảo và trình bày báo cáo tài chính.
Khuôn mẫu là những quy ước chung về các khái niệm kế toán căn bản, về các

20


đặc điểm định tính của báo cáo, về các yếu tố cần có, và về các phương pháp
đánh giá các yếu tố của báo cáo tài chính.
Mục đích của khuôn mẫu bao gồm :
- Giúp đỡ IASC trong việc phát triển các chuẩn mực kế toán quốc tế tương lai
và xem xét lại các IAS hiện hữu.
- Giúp đỡ IASC trong việc cải tiến và hài hòa các nguyên tắc, chuẩn mực kế
toán và thủ tục liên quan đến việc trình bày báo cáo tài chính bằng cách cung

cấp cơ sở để giảm bớt việc chọn lựa các phương pháp kế toán được IAS cho
phép.
(Trong một số trường hợp khi các chuẩn mực kế toán quốc tế cho phép hai
phương pháp kế toán cho những nghiệp vụ và sự kiện giống nhau thì một phương
pháp sẽ được thiết kế như là phương pháp chuẩn (benchmark treatment) còn
phương pháp kia sẽ là phương pháp thay thế được cho phép (allowed alternative
treatment))
Khuôn mẫu của chuẩn mực kế toán quốc tế bao gồm những vấn đề chính
sau :
* Các giả định căn bản
- Giả định dồn tích : Kết quả của các hoạt động kinh doanh và các sự kiện
khác được công nhận ngay khi chúng xảy ra (chứ không phải khi phát sinh
luồng tiền). Những sự kiện này được ghi chép lại và đưa vào các báo cáo
tài chính trong các kỳ báo cáo tương ứng.
- Giả định hoạt động liên tục : Giả định rằng đơn vị vẫn tiếp tục hoạt động
trong một tương lai định trước
* Các đặc điểm định tính của báo cáo tài chính

21


- Tính có thể hiểu được : Thông tin cần phải dễ hiểu đối với người sử dụng –
những người có kiến thức cơ bản về kinh doanh, kinh tế và kế toán và
muốn nghiên cứu thông tin.
- Tính phù hợp : Thông tin phù hợp ảnh hưởng tới các quyết định kinh tế của
người sử dụng, giúp cho họ đánh giá các sự kiện đã, đang và sẽ xảy ra hoặc
xác nhận/điều chỉnh những đánh giá trước đây của họ. Tính phù hợp của
thông tin chịu sự ảnh hưởng của bản chất và tầm quan trọng của thông tin.
- Tính có thể tin cậy được : Thông tin đáng tin cậy không mang lỗi trọng yếu
và phiến diện. Nó phụ thuộc vào : trình bày trung thực, nội dung hơn hình

thức, tính khách quan, tính thận trọng, tính đầy đủ.
- Tính có thể so sánh được : Thông tin cần được trình bày nhất quán giữa các
kỳ và giữa các doanh nghiệp để người sử dụng có thể đưa ra những so sánh
trên nhiều khía cạnh.
Những hạn chế đối với việc cung cấp thông tin phù hợp và đáng tin cậy
như hạn chế về thời gian, cân đối giữa lợi ích và chi phí, cân đối giữa các đặc
điểm định tính.
* Các yếu tố của báo cáo tài chính
- Đối với Bảng cân đối kế toán, gồm tài sản, công nợ và vốn chủ sở hữu
- Đối với Báo cáo kết quả kinh doanh, gồm thu nhập (bao gồm doanh thu và
lãi), chi phí và lỗ
* Phương pháp đánh giá các yếu tố trên báo cáo tài chính
- Giá phí lịch sử
- Giá phí hiện hành
- Giá trị có thể thực hiện
- Giá trị hiện tại
* Khái niệm về vốn và bảo tồn vốn bao gồm :

22


- Khái niệm về vốn :
+ Vốn tài chính : Vốn đồng nghóa với tài sản thuần/vốn chủ sở hữu; nó
được đo bằng đơn vị tiền tệ danh nghóa. Lợi nhuận thể hiện khoản tăng
vốn bằng tiền danh nghóa trong kỳ.
+ Vốn vật chất : Vốn được xem là năng lực hoạt động; nó được đo bằng
khả năng sản xuất. Lợi nhuận thể hiện sự tăng lên trong khả năng sản
xuất trong kỳ.
- Khái niệm về bảo toàn vốn và xác định lợi tức.
2- Các chuẩn mực kế toán quốc tế :

Cho đến nay IASC đã ban hành được 40 chuẩn mực. Quá trình hình thành
và phát triển các chuẩn mực kế toán quốc tế có thể tóm tắt như sau :
IAS 1 : Sự công bố chính sách kế toán
Công bố lần đầu vào tháng 1/1975. Có cải cách vào năm 1994.
Sửa đổi lần 2 vào tháng 8/1997, thay thế cho IAS 5 và IAS 13.

IAS 2 – Cách đánh giá và trình bày hàng tồn kho theo hệ thống giá phí nguyên
thủy
Công bố lần đầu vào tháng 10/1975. Bỏ và biên soạn lại vào tháng 12/1993.

IAS 3 – Báo cáo tài chính của toàn công ty
Công bố vào tháng 6/1976.
Tháng 4/1989, bỏ IAS này và công bố IAS 27.

IAS 4 – Hạch toán về khấu hao
Công bố tháng 10/1976. Cải cách năm 1994. Đặc biệt về khấu hao tài sản, máy

23


móc thiết bị được phản ánh vào IAS 16 – Kế toán nhà xưởng, máy móc, thiết bị.

IAS 5 – Số liệu phải được công bố trong các báo cáo tài chính
Công bố vào tháng 10/1976. Cải cách vào năm 1994.
Tháng 8/1997, được hủy bỏ và thay thế bằng IAS 1.

IAS 6 – Kế toán về sự ứng phó với thay đổi giá cả
Công bố vào tháng 6/1977. Hủy bỏ vào tháng 11/1981 và thay thế bằng IAS 15
– Thông tin phảøn ánh ảnh hưởng của sự thay đổi giá cả.


IAS 7 – Bảng kê về các biến động về tình hình tài chính
Công bố tháng 10/1977 với tên Báo cáo sự thay đổi vị trí tài chính.
Tháng 12/1992, được hủy bỏ và đổi tên thành IAS 7–Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.

IAS 8 – Lãi lỗ ròng trong kỳ, các sai sót và những thay đổi cơ bản trong các
chính sách kế toán.
Ban hành vào tháng 2/1978 với tên gọi : Sự thay đổi chính sách kế toán với
những sự kiện bất thường.
Tháng 12/1993, hủy bỏ và công bố IAS 8 với tên mới như đang được áp dụng.

IAS 9 – Hạch toán về hoạt động nghiên cứu và phát triển
Công bố vào tháng 7/1978 với tên gọi : Kế toán những hoạt động nghiên cứu và
phát triển.
Tháng 12/1993, bỏ và sửa đổi thành chi phí nghiên cứu và phát triển.
Tháng 7/1998, bỏ và thay bằng IAS 38.

24


×