Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

Quan hệ campuchia việt nam từ 1985 đến 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 153 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN QUANG THUẦN

QUAN HỆ CAMPUCHIA – VIỆT NAM
1985 - 2006

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2007


CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CPP

: Đảng Nhân dân Campuchia

FULRO : Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị áp bức.
(Front Uni de Lutte des Races Opprimées)
JIM

: Cuộc gặp khơng chính thức ở Jakarta
(Jakarta Informal Meeting)

SNC

: Hội đồng Dân tộc Tối cao Campuchia
(Supreme Nation Council)

SOC



: Nhà nước Campuchia
(State of Campuchea)

UNHCR : Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn.
(United Nations High Commissioner for Refugees)
UNTAC : Tổ chức gìn giữ hịa bình của Liên Hiệp Quốc ở Campuchia.
(United Nations Transitional Authority in Campuchia)


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Là quốc gia láng giềng có lịch sử quan hệ lâu đời, Campuchia - Việt Nam có
chung đường biên giới trên đất liền, trên biển. Bắt nguồn từ quan hệ láng giềng
truyền thống nên hai dân tộc đã luôn kề vai sát cánh chiến đấu, đồng cam cộng khổ,
một lòng ủng hộ giúp đở lẫn nhau trong cuộc đấu tranh lâu dài gian khổ chống kẻ thù
chung xâm lược, xây đắp nên tình đồn kết chiến đấu sắt son tơi luyện qua thử thách.
Tình đồn kết đó đã là sức mạnh vơ địch lần lượt đánh thắng mọi kẻ thù đế quốc,
bành trướng xâm lược hung hãn nguy hiểm nhất của thời đại. Sức mạnh của tình đồn
kết đó đã đạp đỗ ách thống trị của bọn đế quốc và bành trướng, bá quyền đưa lại độc
lập tự do cho mỗi nước .
Quan hệ Campuchia - Việt Nam là quan hệ láng giềng có những đặc thù riêng
biệt, trải qua bao thăng trầm của nhiều biến cố lịch sử, không phải lúc nào cũng thuận
buồm xi gió. Hơn nữa các thế lực đế quốc và phản động quốc tế có lúc đã lợi dụng
tình trạng bất thường các quan hệ này để tập hợp lực lượng trong và ngồi khu vực
bao vây cơ lập, hòng kiềm chế và làm suy yếu Việt Nam. Bằng quan hệ chính trị
ngoại giao, Campuchia - Việt Nam hai nước đã đấu tranh bề bỉ làm thất các âm mưu
và thủ đoạn đó .
Trong thời đại tồn cầu hố nền kinh tế, liên kết khu vực và hội nhập quốc tế,
muốn duy trì và phát triển quan hệ láng giềng hữu nghị ổn định, thì cần phải đẩy

mạnh hợp tác nhiều mặt trên ngun tắc bình đẳng đơi bên cùng có lợi để tạo nên sự
bền vững, gắn kết với nước láng giềng.
Hơn nữa, biên giới lãnh thổ là thiêng liêng đối với mỗi quốc gia, ổn định biên
giới góp phần ổn định đời sống chính trị của mỗi nước, đem lại láng giềng hữu nghị
tốt đẹp và hợp tác toàn diện để xây dựng phát triển kinh tế.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài quan hệ Campuchia - Việt
Nam từ năm 1985 đến năm 2006 làm đề tài luận văn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề


Vấn đề quan hệ Campuchia - Việt Nam từ xưa đến nay được nhiều nhà khoa
học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu, nhưng do hạn chế về tư liệu nên còn
nhiều vấn đề còn đang thảo luận, ở trong nước cịn q ít tài liệu nói về mối quan hệ
Campuchia - Việt Nam, nhất là giai đoạn từ năm 1986 đến nay. Trong số những cơng
trình nghiên cứu đã được công bố tại Việt Nam, chúng tôi xin điểm qua một vài cơng
trình tiêu biểu:
Năm 1981, Nhà xuất bản Thơng tin lý luận đã xuất bản cơng trình “Tam giác
Trung Quốc - Campuchia - Việt Nam” của Uyn - phrết Bớc - sét cung cấp rất nhiều
tư liệu, tác giả đã vẽ nên bức tranh khá đầy đủ về cuộc sống của nhân dân Campuchia
trong thời kỳ Pônpôt - Iêng Xary lãnh đạo đất nước. Đồng thời công trình làm sáng tỏ
được phần nào thái độ của Việt Nam đối lập hẳn với thái độ giới cầm quyền Bắc
Kinh đối với sự sống còn của nhân dân Campuchia.
Năm 1982, Nhà xuất bản Thanh niên đã xuất bản công trình “Xứ sở nụ cười”
của Tạ Văn Bảo, cơng trình này vạch trần tội ác của Pônpôt - Iêng Xary, đồng thời
lên án âm mưu của các nước Trung Quốc, Mỹ, Thái Lan ni dưỡng, cung cấp vũ
khí để đẩy trở về phá hoại đời sống của nhân dân Campuchia vừa được khôi phục, để
Khmer Đỏ tiếp tục diệt chủng theo sự chỉ đạo của Bắc Kinh. Đã một thời một số cơ
quan nhân đạo quốc tế cũng tiếp tế lương thực, thuốc men cho bọn tàn quân này.
Năm 1984, Nhà xuất bản Sự thật đã xuất bản cơng trình “Sự thật về quan hệ
Thái Lan - Campuchia, Thái Lan - Lào”, Cơng trình này bao gồm hai văn kiện quan

trọng của bộ ngoại giao nước cộng hòa nhân dân Campuchia công bố tháng 9 năm
1983 và của bộ ngoại giao nước cộng hịa dân chủ nhân dân Lào cơng bố tháng 9 năm
1984 nhằm vạch trần chính sách thù địch, xâm lược, bành trướng của Thái Lan đối
với Campuchia và Lào trong lịch sử và trong giai đoạn hiện tại. Trong cơng trình này
nói đến mối quan hệ Campuchia - Việt Nam cũng như mối quan hệ ba nước Đông
Dương luôn kề vai sát cánh chiến đấu, đồng cam cộng khổ, một lòng ủng hộ giúp đỡ
lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược.
Những học giả người úc cũng quan tâm nghiên cứu mối quan hệ giữa các nước
Đông Dương và được Nhà xuất bản Quân đội Nhân Dân đã xuất bản năm 1986. Với
nhan đề “Chân lý thuộc về ai” của tác giả Grantơ Ivanxơ - Kenvin Râulây. Công


trình nghiên cứu về các cuộc xung đột ở khu vực bán đảo Đông Dương từ sau ngày
miền Nam được giải phóng. Dưới cách nhìn và nhận thức của các học giả phương
Tây, các tác giả chứng minh Việt Nam không phải là người gây ra cuộc khủng hoảng
ở Đông Dương; phê phán mạnh mẽ chính sách của Trung Quốc và Mỹ trong khu vực;
chứng minh mối quan hệ giữa ba nước Đơng Dương là mối quan hệ bình đẳng, tin
cậy lẫn nhau, giúp đỡ và hợp tác với nhau.
Năm 1998, Nhà xuất bản Công An Nhân Dân đã xuất bản cơng trình “Năm
mươi năm ngoại giao Việt Nam” gồm 2 tập của tác giả Lưu Văn Lợi. Trong cơng
trình này, tác giả cũng đã nêu lên quan hệ Campuchia - Việt Nam, thơng qua các cuộc
đàm phán, phân tích tiến trình đàm phán “vấn đề Campuchia” để tiến tới ký Hiệp
định Paris 1991.
Năm 2001, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc đã xuất bản cơng trình “Mấy vấn đề
lịch sử châu á và lịch sử Việt Nam một cách nhìn” trong đó tác giả Nguyễn Văn
Hồng với chủ đề “Campuchia con đường lịch sử lựa chọn và sự lựa chọn con đường
có tính chất lịch sử”. Nhân dân Campuchia đã tự lựa chọn con đường lịch sử, mong
muốn xây dựng một nước Campuchia độc lập phồn vinh, bảo đảm hạnh phúc ấm no
cho nhân dân. Trên con đường lịch sử đầy gian khổ thử thách nhưng vinh quang đó,
nhân dân Campuchia cũng như nhân dân Việt Nam nhận thức sâu sắc rằng: “Phát

triển và củng cố mối quan hệ giữa ba nước Đơng Dương đồn kết và tơn trọng độc
lập, chủ quyền mỗi nước. Hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc là qui luật sống còn và phát triển của cả ba dân tộc anh em” [18, tr.326].
Năm 2003, Nhà xuất bản Cơng An Nhân Dân đã xuất bản cơng trình “Từ cuộc
chiến chống CIA đến người tù của Khmer Đỏ” công trình được dựa theo Hồi ký của
Nơrơđơm Xihanuc, thuật lại những biến cố to lớn xảy ra trên đất Campuchia từ giai
đoạn 1970 đến 1979, mở đầu bằng cuộc đảo chính do cục tình báo trung ương Mỹ
chủ mưu và kết thúc bằng sự sụp đổ của Khmer Đỏ.
Năm 2005, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã xuất bản cơng trình “Ngoại
giao Việt Nam 1945-2000” của tác giả Nguyễn Đình Bin (Chủ biên). Trong cơng
trình này, đáng chú ý là tác giả đã dành 15 trang để tái hiện và phân tích tiến trình
đàm phán “vấn đề Campuchia” để tiến tới ký Hiệp định Paris 1991. Trong đó tác giả


làm nổi bật lên vấn đề là Việt Nam luôn chủ động thúc đẩy tiến trình đàm phán để
nhanh chóng giải quyết “vấn đề Campuchia” không để các nước lớn lợi dụng “vấn đề
Campuchia” để chống phá Việt Nam.
Năm 2006, Nhà xuất bản Thế giới đã xuất bản cơng trình “Lược sử vùng đất
Nam Bộ” của Hội khoa học lịch sử Việt Nam do GS.TSKH Vũ Minh Giang làm chủ
biên. Nhóm tác giả biên soạn trên cơ sở tổng hợp các kết quả nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học liên quan ở trong nước và ngồi nước. Cơng trình trình bày một cách
khách quan, có hệ thống , đơn giản và cô động những tư liệu chứng cứ cơ bản về lịch
sử phát triển của vùng đất Nam Bộ. Công trình cịn phản ánh sự tranh chấp biên giới
vùng đất Nam Bộ giữa Campuchia - Việt Nam trong qua khứ. Hiện nay được hai
nước đàm phán bằng con đường hòa bình để phân định cắm mốc biên giới.
Những nghiên cứu riêng biệt nêu trên dẫu sao cũng không thể khái quát một
cách đầy đủ về quan hệ Campuchia - Việt Nam. Quan hệ Campuchia - Việt Nam là
vấn đề hết sức nhạy cảm, đặc biệt là trong những năm gần đây quan hệ hai nước có
nhiều diễn biến mới vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Mặt khác, từ lịch sử nghiên
cứu vấn đề cho thấy, việc nghiên cứu mối quan hệ Campuchia - Việt Nam từ năm

1986 đến 2006 như một chỉnh thể vận động là một hướng đi mới cần được tiếp tục
khai phá, bởi vì có những thông tin gần đây mới được công khai và phổ biến.
3. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu quan hệ Campuchia - Việt Nam trong giai đoạn 1985 - 2006.
- Làm rõ mối quan hệ chính trị, ngoại giao giải quyết các vấn đề tranh chấp
biên giới giữa hai nước, quá trình đàm phán để ký Hiệp ước biên giới năm 1985.
- ảnh hưởng của các nước lớn đến mối quan hệ Campuchia - Việt Nam trong
quá trình đàm phán để ký Hiệp định Paris về vấn đề Campuchia.
- Mối quan hệ hợp tác giữa hai nước tác động trên các lĩnh vực: An ninh, kinh
tế, du lịch và các vấn đề khác mà hai nước cùng quan tâm.
Từ những đặc điểm của mối quan hệ hai nước để rút ra những nhận xét đánh
giá nhằm thấy được những thời cơ và thách thức cũng như triển vọng quan hệ
Campuchia - Việt Nam trong tương lai.
4. Đối tượng nghiên cứu.


Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là Campuchia quan hệ với Việt Nam.
Trong đó chủ thể của mối quan hệ này là Campuchia.
Những quan hệ chính trị thường gắn liền với những lợi ích về lãnh thổ, đất đai.
Hịa bình hay chiến tranh, xung đột hay khoan nhượng... Tất cả cịn phụ thuộc vào
chính sách đối ngoại của mỗi nước cũng như những thay đổi của tình hình khu vực và
thế giới, chính vì vậy khơng thể khơng nghiên cứu mối quan hệ của các nước có ảnh
hưởng tới quan hệ Campuchia - Việt Nam đó là Trung quốc, Mỹ, Liên Xô, Thái Lan,
Lào...
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, trong đề
tài này chúng tôi cố gắng nghiên cứu tổng thể mối quan hệ Campuchia - Việt Nam
trong sự vận động nội tại của nó dưới sự tác động của tình hình thế giới và khu vực.
Nghiên cứu các vấn đề quan hệ chính trị - ngoại giao và giải quyết các vấn đề tranh
chấp, nghiên cứu sâu về Hiệp ước biên giới, quá trình đàm phán để tiến tới ký Hiệp

định Paris về vấn đề Campuchia, quan hệ hợp tác an ninh quốc phòng, thương mại,
du lịch, các vấn đề mà hai nước đều quan tâm.
6. Giới hạn đề tài.
Quan hệ Campuchia - Việt Nam được giới hạn trong thời gian từ năm 1985
đến năm 2006, đây khơng phải là những vấn đề hồn tồn mới mà có cội nguồn và
tiền đề lịch sử tồn tại trong tiến trình lịch sử của quan hệ hai nước qua các giai đoạn.
Năm 1985 là cột mốc quan trọng, hai nước ký Hiệp ước hoạch định biên giới. Năm
2006 là thời điểm có hiệu lực Hiệp ước bổ sung hoạch định biên giới 1985. Vì vậy,
để đảm bảo tính hệ thống, tác giả dành một chương để tìm hiểu quan hệ Campuchia Việt Nam ở giai đoạn trước.
Không gian nghiên cứu của vấn đề chỉ dừng lại ở phạm vi quan hệ giữa hai
nhà nước Campuchia và Việt Nam.
7. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời trong quá
trình nghiên cứu, là một đề tài lịch sử, quan điểm khi nghiên cứu là tuân thủ phương


pháp lịch sử. Ngồi việc phân tích, so sánh mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử, tác
giả cố gắng trình bày các luận điểm trên cơ sở bám sát các sự kiện lịch sử, chân thực
lịch sử, để tái hiện lại bức tranh sinh động của mối quan hệ Campuchia - Việt Nam
trong hơn 20 năm qua (1985 - 2006). Đồng thời với q trình đó, tác giả kết hợp kết
hợp sử dụng phương pháp lơgic để lí giải một số vấn đề mang tính chất phức tạp
trong quan hệ giữa hai nước, phát hiện ra bản chất và những đặc điểm manh tính quy
luật đang ẩn mình vô vàn sự kiện phức tạp của quan hệ Campuchia - Việt Nam giai
đoạn này.
Ngồi ra, cịn sử dụng phương pháp liên ngành: Phương pháp nghiên cứu quan
hệ quốc tế, quan hệ kinh tế, chính trị, thống kê để sử lí số liệu, phương pháp trao đổi,
thảo luận để tranh thủ ý kiến mang tính phản biện cho những nhận định, đánh giá...
của mình, nhằm làm giảm bớt chủ quan trong quá trình nghiên cứu.
8. Bố cục luận văn
Luận văn gồm có 178 trang. Phần nội dung chính là 153 trang, trong đó phần

mở đầu 07 trang, kết luận 11 trang, tài liệu tham khảo 09 trang. Luận văn sử dụng 92
tài liệu tham khảo, có 02 bảng và 1 biểu đồ.
Luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát quan hệ Campuchia - Việt Nam trong lịch sử.
Chương 2: Quá trình ký kết Hiệp định Paris và quan hệ Campuchia -Việt
Nam giai đoạn (1986-1991).
Chương 3: Quan hệ Campuchia - Việt Nam sang trang mới
2006).

(1992-


Bản đồ vương quốc campuchia

Nguồn: Tổng Lãnh sự quán Campuchia tại Tp. Hồ Chí Minh


Chương I. Khái quát quan hệ Campuchia - Việt Nam trong lịch sử
Campuchia - Việt Nam là hai nước láng giềng có nhiều nét tương đồng về văn
hóa và phong tục tập quán. Hai nước từng có truyền thống hữu nghị trong nhiều thời
kỳ lịch sử, thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1967. Trong quá khứ hai nước cũng đã
trải qua bao thăng trầm của lịch sử và cùng nhau đấu tranh chống xâm lược. Hai nước
có chung đường biên giới trên bộ, trên biển và có chung dịng sơng Mêkơng nối liền
hai nước. Đất nước Campuchia và vùng đất Nam bộ và Tây Nguyên của Việt Nam
trên cơ bản thuộc địa vực hạ lưu và châu thổ sơng Mêkơng. Đây là một vùng có nền
văn hóa lâu đời và tập trung những quan hệ văn hóa truyền thống. Từ những kết quả
nghiên cứu khảo cổ học, người ta có thể nhận ra rằng mấy ngàn năm lịch sử
Campuchia và Việt Nam cùng nằm trong một khu vực văn hóa chun g với những đặc
trưng thống nhất trong lối làm ăn, lối sống, văn hóa nghệ thuật ... Tất cả đã gắn bó
với nhau, phát triển trong suốt chiều dài lịch sử. Trong quá trình hàng ngàn năm thời

tiền sử và sơ sử, tổ tiên những cộng đồng tộc người sống trên đất Campuchia và
những cư dân vùng đất Nam bộ Việt Nam đã có quan hệ gắn bó với nhau, cùng sáng
tạo nên nền văn minh sơng Mêkơng với hai trung tâm chính là Tơnlê Sap và Đồng
Nai.
1.1. Quan hệ Campuchia - Việt Nam trong lịch sử
Thực tế lịch sử hàng ngàn năm qua, nhân dân Campuchia và nhân dân Việt
Nam đã có mối quan hệ láng giềng hữu nghị, chia ngọt sẻ bùi, tương thân tương ái,
chung lưng đấu cật cải tạo thiên nhiên và chống ngoại xâm. Lịch sử đã chứng minh
rằng trong suốt tiến trình lịch sử, nhân dân hai nước đã nhiều lần cùng nhau chống
giặc ngoại xâm và làm nên những trang sử vẻ vang của cả hai dân tộc.
Trong lịch sử Campuchia, chiến tranh và nội chiến xảy ra liên miên. Đến đầu
thế kỷ VI, nước Chân Lạp và chế độ phong kiến tập quyền được xác lập. Thời kỳ
phồn thịnh của Vương quốc Campuchia bắt đầu kể từ khi vua Giayavacman II giành
độc lập thống nhất đất nước từ tay người Gia va (802-854) đóng đơ ở Angkor, mở
đầu cho thời kỳ Angkor. Trong thời kỳ này, các vua Campuchia đã không ngừng tiến
hành rất nhiều cuộc xâm lược các nước láng giềng, xây dựng rất nhiều đền đài nguy


nga, tráng lệ: “sự say sưa chiến công, xa hoa, lãng phí của các ơng vua Angkor làm
cho kinh tế đất nước ngày càng kiệt quệ, khiến nhân dân thêm khổ cực và bất mãn.
Đó là nguyên nhân khiến cho đế chế Angkor suy sụp” [1, tr.8].
Sau thời kỳ Angkor huy hồng, Campuchia rơi vào tình trạng suy thối kéo
dài. Nước Đại Việt sau thời Lê sơ cũng lâm vào khủng hoảng và bị chia cắt. Trái lại,
Vương quốc Xiêm trẻ trung ngày càng phát tiển, trở thành một Vương quốc hùng
mạnh bậc nhất của khu vực. Trong bối cảnh đó Campuchia mặc nhiên trở thành đối
tượng xâm lược triền miên của người Thái. Những cuộc chiến tranh với người Thái
đã làm cho Vương quốc Campuchia suy yếu trầm trọng. Từ đầu thế kỷ XVII, thông
qua quan hệ hôn nhân, vua Campuchia Chey Chestha II (1618-1625) cưới Ngọc Vạn
con gái chúa Nguyễn Phước Nguyên làm hoàng hậu. Dưới sự bảo trợ của của bà
hoàng hậu người Việt này, cư dân người Việt tới làm ăn sinh sống ở lưu vực sông

Đồng Nai ngày càng nhiều. Những hoạt động của cộng đồng cư dân ngày càng đông
của người Việt đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúa Nguyễn từng bước hợp pháp hóa
sự kiểm sốt của mình đối với vùng đất đã được người Việt khai khẩn. Chính vì vậy
các chúa Nguyễn ở Đàng trong đã bước đầu xác lập được ảnh hưởng với triều đình
Campuchia.
Năm 1623, chúa Nguyễn được vua Campuchia Chey Chestha II cho phép:
“Lập thương điếm ở vị trí tương ứng với Sài Gịn để thu thuế” [67, tr.61]. Năm 1658,
Chân lạp xâm phạm lãnh thổ của chúa Nguyễn ở vùng Thuận - Quảng. Chúa Nguyễn
sai quân đi đánh tan buộc Chân Lạp “làm phiên thần hàng năm nộp cống” [7, tr.72].
Năm 1679, hơn 3.000 quân tướng nhà Minh (Trung Quốc) của Dương Ngạn Địch,
Hồng Tiến ... khơng chịu quy phục nhà Thanh đến Đà Nẵng xin được quy phục chúa
Nguyễn. Chúa Nguyễn chấp nhận và khiến vua Chân Lạp cho họ tới lập nghiệp ở
Đông Phố vùng đất Đồng Nai. Cùng thời gian này, Mạc Cửu người Quảng Đơng
(Trung Quốc), cũng vì khơng khuất phục triều Thanh, tới Chân Lạp “chiêu tập dân
siêu dạt đến các nơi Phú Quốc, Cần Bột, Gía Khê, Luống cày, Hương úc, Cà Mau
(thuộc tỉnh Hà Tiên) thành lập 7 xã thôn” [7, tr.122], biến toàn bộ vùng đất Hà Tiên
thành khu vực cát cứ của dịng họ mình, hồn tồn độc lập, khơng lệ thuộc vào chính
quyền Chân Lạp nữa.


Năm 1693, khi chúa Nguyễn thu phục được vùng đất Chiêm Thành thì Chân
Lạp mới là nước láng giềng trực tiếp của Việt Nam. Mặc dù vùng đất châu thổ sơng
Cửu Long lúc đó danh nghĩa thuộc Chân Lạp, nhưng trong thực tế còn hoanh vu, dân
cư thưa thớt, triều đình Chân Lạp chưa quản lý được. Yêu cầu về nhân lực để khai
phá vùng đất này rất lớn. Đúng lúc đó làn sóng di cư ngày càng đơng đảo của nông
dân người Việt, Hoa, Chăm đã kéo đến cùng người Khmer sống từ trước tại đây ra
sức khai phá, cải tạo thiên nhiên, chinh phục vùng đất bồi ven biển. Trong việc khai
phá, cải tạo này, vai trò của người Việt rất lớn, sự có mặt của họ lúc đó rõ ràng là rất
cần thiết, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Với đà phát triển về mọi mặt của
vùng đất này, nơi đây đã trở thành địa bàn cư trú chủ yếu của người Việt đến lập

nghiệp và vùng đất này đã được sát nhập vào bản đồ Việt Nam không bằng bạo lực,
mà bằng con đường hịa hợp chung sống hịa bình, rõ ràng: “Người Việt đến Chân
Lạp khơng chỉ có những đội qn được đưa sang Chân Lạp chống lại quân Xiêm
hoặc lực lượng thân Xiêm theo yêu cầu của các vua Chân Lạp, không phải dùng
gươm để chiếm lấy đất đai mà là do sự trả công một cách tự nguyện của người Chân
Lạp” [30, tr.7].
Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu cử Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng
đất Đông Phố: “Bắt đầu đặt phủ Gia Định, Sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh kinh
lượt đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố, lấy sứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long (nay
thăng làm phủ) dựng dinh phiên Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày nay), lấy xứ Sài Gịn
làm huyện Tân Bình (nay thăng làm phủ), dựng dinh Phiên trấn (tức Gia Định ngày
nay), mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và các cơ đội thuyền thủy bộ
tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất đai nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu
mộ những người dân xiêu dạt từ Bố Chính trở về Nam cho đến ở cho đơng” [7,
tr.111]. Từ đó Gia Định đã trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa và hành chính - chính
trị của Nam Bộ. Trước sự phát triển nhanh chóng của vùng Gia Định dưới chính
quyền chúa Nguyễn, năm 1708, Mạc Cửu đem tồn bộ vùng đất Hà Tiên do mình cai
quản về với chúa Nguyễn.
Cuối năm 1755, do mắc lỗi với chúa Nguyễn, vua Chân Lạp là Nặc Nguyên
chạy về Hà Tiên, nương nhờ Mạc Thiên Tứ (con Mạc Cửu). Năm 1756, Nặc Nguyên


xin hiến đất hai phủ Tâm Bôn, Lôi Lạp và nạp bù lễ cống còn thiếu trong những năm
trước để chuộc tội [7, tr.164]. Những người kế ngôi tiếp theo của các vua Chân Lạp
tiếp tục dâng các vùng đất Nam Bộ cho chúa Nguyễn. Với việc dâng đất tiếp theo của
Nặc Tơn năm 1757, hầu như tồn bộ vùng đất Nam Bộ thực tế đã hoàn toàn thuộc
quyền cai quản của chúa Nguyễn, tức là chủ quyền của Việt Nam.
Như vậy có thể nói, do kết quả của những cuộc di dân của những lưu dân
người Việt, Hoa, Chăm cũng như những thỏa thuận của các lực lượng trong triều đình
Campuchia với các chúa Nguyễn để đổi lấy sự ủng hộ của các chúa Nguyễn trong

cuộc đấu tranh giành quyền lực ở Campuchia, vào cuối thế kỷ XVIII, toàn bộ vùng
đất Nam Kỳ đã thuộc về chính quyền các chúa Nguyễn.
Năm 1802 triều Nguyễn được thành lập, Việt Nam trở thành một quốc gia
phong kiến thống nhất. Sự ra đời của triều Nguyễn đã làm thay đổi sâu sắc tương
quan lực lượng trên bán đảo Đơng Dương và có tác động tới quan hệ giữa hai nước
Campuchia - Việt Nam, hai nước thường cử sứ giả qua lại giao hảo. Tuy nhiên, trong
những năm Vua Gia Long mới lên ngơi, nhà Nguyễn do phải lo củng cố chính quyền
trên cả nước và tìm kiếm sự ủng hộ, thừa nhận của nhà Thanh nên vẫn chưa có điều
kiện tăng cường ảnh hưởng chính trị ở Campuchia, mặc dù triều Nguyễn và cá nhân
vua Gia Long nhận thức rất rõ tầm quan trọng của vấn đề này đối với an ninh quốc
gia ở biên giới Tây Nam.
Để giảm áp lực và sự o ép của Xiêm, vua Ang Chan quyết định dựa vào triều
Nguyễn. Tháng 9 năm 1807 Ang Chan cử sứ giả sang Huế xin triều Nguyễn phong
Vương. Đề nghị của Ang Chan được triều Nguyễn chấp nhận ngay. Với việc Ang
Chan xin thần thuộc, triều Nguyễn đã có một cơ hội thuận lợi để tăng cường đáng kể
ảnh hưởng của mình ở Campuchia.
Đến cuối thế kỷ XIX, giai cấp phong kiến đầu hàng thực dân Pháp, nhân dân
Campuchia liên kết với các nghĩa sĩ Việt Nam trong phong trào Trương Công Quyền
- Pôkumpao để chống xâm lược phương Tây. Sự hỗ trợ lẫn nhau trong những ngày
đầu chống thực dân Pháp xâm lược là những minh chứng thể hiện sự hợp tác chặt chẽ
của hai dân tộc cùng chống kẻ thù chung trong tiến trình lịch sử: “Chính sự thống trị


của thực dân Pháp đã đưa Campuchia - Việt Nam lại với nhau thành một đơn vị chính
trị” [15, tr15].
Từ năm 1930 trở đi với sự ra đời của Đảng Cộng sản Đơng Dương, truyền
thống đồn kết chiến đấu của hai dân tộc được nâng lên một bước, biến đổi về chất,
thấm đượm tinh thần cách mạng. Cách mạng tháng Tám thành công, cuộc trường kỳ
kháng chiến từng bước thắng lợi. Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hội nghị Giơnevơ
(1954) đã mang lại thắng lợi to lớn cho cả ba nước trên bán đảo Đơng Dương. Đó là

điều kiện lịch sử vô cùng thuận lợi để nhân dân Campuchia tiếp tục đấu tranh đưa đất
nước Campuchia thoát khỏi sự ràng buộc của đế quốc Pháp (25.9.1955) chấm dứt 100
năm đô hộ của chế độ thực dân.
Tuy nhiên, nhân dân Campuchia và nhân dân Việt Nam lại phải tiếp tục đoàn
kết chiến đấu trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai kéo dài từ năm 1954
đến năm 1975 với sự thắng lợi hồn tồn của nhân dân Đơng Dương. Trong thập niên
1960, Campuchia tuyên bố trung lập, mặc dù chưa chính thức thiết lập quan hệ ngoại
giao với Hà Nội nhưng Campuchia đã cho: “Quân đội Bắc Việt vào đóng trong lãnh
thổ, làm căn cứ đánh Miền Nam Việt Nam” [20, tr.213]. Trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, nhân dân hai nước Campuchia - Việt Nam đã phối hợp cùng
đánh thắng hàng loạt các chiến lược quân sự của Mỹ và tay sai như chiến tranh đặc
biệt, chiến tranh cục bộ Việt Nam hóa, Campuchia hóa chiến tranh. Nhân dân hai
nước đã đánh bại các cuộc hành quân chiến lược của Nich xơn như “Chen La I”,
“Lam Sơn 719”, “Chen La II”... Trên đà thắng lợi ngày càng có tính chất quyết định
trên chiến trường, mùa xn năm 1975, cuộc tổng tấn công và nổi dậy của quân dân
Việt Nam đánh vào hang ổ cuối cùng của quân ngụy Sài Gòn đã tạo thời cơ thuận lợi
cho qn và dân Campuchia tổng cơng kích qn ngụy, Phnơm Pênh đã giành thắng
lợi ngày 17 tháng 4 năm 1975.
1.2. Quan hệ Campuchia - Việt Nam 1975 - 1985.
1.2.1. Chính sách đối ngoại của tập đồn Pơnpơt giai đoạn 1975-1979.
Việt Nam vừa được hồn tồn giải phóng thống nhất đất nước ngày 30 tháng 4
năm 1975, thì ngày 01 tháng 5 năm 1975 , tập đồn Pơnpơt đã dùng lực lượng quân
sự tấn công, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam từ Hà Tiên đến Tây Ninh.


Cùng với việc thanh trừng nội bộ, chính quyền Pơnpơt xua đuổi và giết hại
Việt kiều sinh sống hợp pháp trên đất Campuchia từ nhiều năm, chuyển dân
Campuchia sống ở vùng biên giới với Việt Nam vào sâu trong nội địa Campuchia và
từ thành phố về nông thôn sinh sống.
Sau khi xảy ra những sự kiện nghiêm trọng trên biên giới hai nước, vào tháng 6

năm 1975, nhận lời mời của Đảng Lao động Việt Nam, đoàn Đại biểu Đảng Cộng sản
Campuchia (tên gọi công khai của Đảng này từ năm 1975 là Tổ chức Cách mạng
Campuchia) do Pơnpơt, Bí thư Trung ương Đảng, dẫn đầu, sang thăm chính thức Việt
Nam.
Trong cuộc hội đàm, Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Campuchia Pônpôt đã phát biểu: "Thắng lợi của chúng tôi mặc dù là do những nhân
tố chủ quan tạo nên; nhưng nếu khơng có sự giúp đỡ của Đảng Lao động Việt Nam;
của bộ đội và nhân dân Việt Nam, và của nhân dân thế giới, trong đó đặc biệt là nhân
dân Việt Nam, thì chúng tơi khơng thể có thắng lợi như vừa qua được”[3, tr.5].
Đối với nước Campuchia Dân chủ, Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
kiên trì chủ trương dùng phương pháp hiệp thương nhất trí với hai bên để giải quyết
đúng đắn những vụ va chạm về biên giới. Ngày 07 tháng 6 năm 1977, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hồ Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã có thư gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Campuchia và
Chính phủ nước Campuchia Dân chủ bày tỏ "lòng chân thành mong muốn nhanh
chóng giải quyết vấn đề biên giới, chấm dứt những va chạm đổ máu làm tổn thương
tình đồn kết chiến đấu và hữu nghị anh em Campuchia - Việt Nam , cùng nhau xây
dựng đường biên giới hữu nghị lâu dài giữa hai nước", và đề nghị "có cuộc gặp càng
sớm càng tốt giữa lãnh đạo cấp cao của Đảng và hai Chính phủ..."[3, tr.5]. Rất tiếc là
phía Campuchia đã khước từ đề nghị gặp gỡ này, công khai gây cuộc chiến tranh biên
giới giữa hai nước đồng thời tăng cường vu khống Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Điều đặc biệt hơn là trong nội bộ, Pônpôt hay nói bóng gió: “Đối với Việt
Nam, chúng ta đã tiến hành tương đối nhiều cuộc thương lượng nhưng đều vô ích, và
người ta chẳng biết đến thế kỷ nào mới giải quyết được các vấn đề ấy...”[62, tr.207].


Đối với Việt Nam, Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn yêu cầu
hai nước ký hiệp ước hữu nghị và nói rõ rằng: “Hai bên đều phải tôn trọng nền độc
lập của nhau, tôn trọng đất đai của nhau, có như vậy mới đồn kết được chặt chẽ, mới
giữ được tình nghĩa anh em giữa nhân dân hai nước và cần phải tiến hành đàm phán

để ký kết hiệp ước về biên giới giữa hai nước” [6, tr.302].
Tiếp theo đó, tháng 8 năm 1975, Đồn đại biểu cấp cao Đảng Lao động Việt
Nam do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn dẫn đầu thăm Campuchia, phía Việt Nam đồng ý
trao trả số quân nhân Campuchia bị bắt khi họ tiến công đảo Thổ Chu và bị quân đội
Việt Nam truy kích đến đảo Way.
Tháng 3 năm 1976, Nn Chia, Phó bí thư Đảng Cộng sản Campuchia, gửi thư
cho Phó thủ tướng Việt Nam Phạm Hùng. Campuchia đề nghị có cuộc gặp cấp cao
hai đảng về vấn đề biên giới. Ngày 6 tháng 4 năm 1976, Trung Ương Đảng Lao động
Việt Nam gửi điện cho Trung ương Đảng Cộng sản Campuchia tán thành đề nghị đó
và thoả thuận cuộc gặp sẽ tiến hành vào tháng 6 năm 1976. Từ ngày 4 đến 18 tháng 5
năm 1976, Thứ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam dẫn đầu đoàn sang Campuchia họp
trù bị cho hội nghị cấp cao.
Tại cuộc họp trù bị này: “phía Pơnpơt đã đồng ý lấy đường biên giới trên đất
liền theo bản đồ Pháp tỷ lệ 1/100.000 thơng dụng trước năm 1954 nhưng lại địi Việt
Nam phải chấp nhận bộ bản đồ do Campuchia đưa ra có chín chỗ bị cạo sửa và địi
lấy đường Brévíe làm đường biên giới trên biển”[6, tr.302]. Chính vì vậy cuộc đàm
phán thất bại và không tiến hành được cuộc gặp cấp cao hai đảng. Hai bên chỉ thỏa
thuận được ba biện pháp tạm thời do đoàn Việt Nam đề nghị : “Hai bên giáo dục cán
bộ, chiến sĩ và nhân dân nước mình ở biên giới tăng cường đồn kết, hữu nghị và
tránh va chạm. Mọi va chạm phải được giải quyết trên tinh thần đồn kết, hữu nghị,
tơn trọng lẫn nhau. Ban liên lạc hai bên tiến hành điều tra các vụ va chạm và gặp
nhau để giải quyết.”[6, tr.303]
Việt Nam đã nghiêm chỉnh thực hiện các biện pháp tạm thời được hai bên thỏa
thuận, duy trì tiếp xúc với Ban liên lạc biên giới của phía Campuchia. Ngược lại, phía
Campuchia vẫn tăng cường các hành động tấn cơng, xâm lấn lãnh thổ và giết hại dân
thường Việt Nam ở biên giới.


Trước tình hình nghiêm trọng đó, ngày 7 tháng 6 năm 1977, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ Việt Nam gửi thư cho Ban

Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Campuchia và Chính phủ Campuchia Dân
chủ đề nghị có cuộc hội đàm càng sớm càng tốt giữa lãnh đạo cấp cao hai đảng, hai
chính phủ ở Phnôm Pênh, Hà Nội, hay bất cứ nơi nào khác do hai bên thỏa thuận.
Ngày 18 tháng Sáu 1977, phía Campuchia Dân chủ trả lời : "Chờ một thời gian cho
tình hình bình thường trở lại và những xung đột ở biên giới được chấm dứt sẽ gặp gỡ
cấp cao"[6, tr.303].
Với ý đồ xâm lấn biên giới Việt Nam, một mặt từ chối thương lượng, mặt khác
Pônpôt tiếp tục cho quân tấn công biên giới Việt Nam. Ngày 18 tháng 7 năm 1977,
lực lượng vũ trang của Campuchia Dân chủ đồng loạt tấn công trên chiều dài 40 km
vào tỉnh Kiên Giang, pháo kích nhiều lần vào thị xã Châu Đốc. Trên quốc tế, họ vu
cáo Việt Nam. Phát biểu tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Iêng Xary ám chỉ Việt
Nam xâm lược Campuchia. Ngày 26 tháng 9 năm 1977, Pônpôt tuyên bố Đảng Cộng
sản Campuchia đi thăm chính thức Trung Quốc. Cùng thời điểm đó, Pơnpơt cho một
lực lượng lớn qn đội tấn cơng tồn tuyến biên giới tỉnh Tây Ninh, sát hại thường
dân Việt Nam.
Để giải quyết bất đồng giữa hai nước, chính phủ Việt Nam đã đưa ra những đề
nghị đầy thiện chí với mong muốn giải quyết sự bất đồng bằng phương pháp thương
lượng hồ bình nhưng chế độ Pơnpơt đã bác bỏ mọi đề nghị thiện chí của Việt Nam.
Đến cuối năm 1977, chính quyền Pơnpơt chính thức ra tun bố vu cáo Việt Nam
xâm lược Campuchia, chúng đã cắt đứt mọi quan hệ ngoại giao với Việt Nam, rút sứ
quán Campuchia ở Hà Nội và yêu cầu tất cả cán bộ ngoại giao của sứ quán Việt Nam
ở Phnôm Pênh về nước. Chúng tập trung lực lượng, tấn công trên quy mô lớn vào
lãnh thổ miền Nam Việt Nam, triệt phá nhiều làng mạc, giết hại nhiều dân thường vơ
tội.
Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố vạch rõ thái độ và hành động của phía
Campuchia khiêu khích và tấn cơng xâm phạm lãnh thổ Việt Nam. Việc Việt Nam
đánh trả là hành động tự vệ và tỏ thiện chí muốn giải quyết vấn đề biên giới giữa hai
nước bằng thương lượng hồ bình. Việt Nam đề nghị hai bên gặp nhau càng sớm



càng tốt ở bất cứ cấp nào để giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước trên tinh thần
"hữu nghị anh em" nhưng Campuchia bác bỏ đề nghị thương lượng hồ bình.
Tiếp theo đó, Việt Nam liên tiếp đưa ra các đề nghị đàm phán, đặc biệt quan
trọng là Tuyên bố ngày 5 tháng 2 năm 1978 của Chính phủ Cộng hoà Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về quan hệ Campuchia - Việt Nam, bày tỏ thiện chí thật sự mong
muốn chấm dứt xung đột, giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước bằng thương
lượng hịa bình. Bản tuyên bố đưa ra đề nghị ba điểm: “Chấm dứt mọi hành động
quân sự thù địch ở vùng biên giới, lực lượng vũ trang mỗi bên đóng sâu trong lãnh
thổ của mình, cách đường biên giới 5 km. Hai bên gặp nhau ngay để bàn bạc, ký Hiệp
ước hữu nghị và không xâm lược nhau và Hiệp ước hoạch định biên giới. Hai bên
thoả thuận một hình thức thích hợp đảm bảo quốc tế và giám sát quốc tế”[34, tr.19].
Đề nghị ba điểm của Việt Nam được dư luận thế giới hoan nghênh nhưng phía
Pơnpơt bác bỏ đề nghị trên. Theo gợi ý của Lào, ngày 10 tháng 4 năm 1978, Phó thủ
tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh gửi công hàm nhờ Lào chuyển
cho Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia Iêng Xary nhắc lại đề nghị ba điểm. Ngày 15
tháng Năm 1978, Bộ Ngoại giao Campuchia gửi công hàm trả lời, vu khống Việt
Nam xâm lược, có ý đồ thành lập Liên bang Đơng Dương, đồng thời địi Việt Nam
thực hiện một số điều kiện trong thời hạn bảy tháng (đến cuối năm 1978) thì hai bên
mới có thể gặp nhau. Campuchia đã đưa ra các điều kiện đó là: “Việt Nam chấm dứt
mọi hành động xâm lược; chấm dứt ý đồ lập Liên bang Đông Dương; tôn trọng chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ Campuchia” [6, tr.305].
Ngày 6 tháng 6 năm 1978, Bộ Ngoại giao Việt Nam một lần nữa gửi công hàm
cho Bộ Ngoại giao Campuchia nhắc lại đề nghị ba điểm ngày 5 tháng 02 năm 1978
và đề nghị hai bên tuyên bố chấm dứt hoạt động thù địch ở vùng biên giới vào một
ngày gần nhất mà hai bên thoả thuận, tách quân khỏi biên giới 5km; đại diện ngoại
giao hai bên tại Viêng Chăn hoặc bất cứ thủ đô nào gặp nhau để thỏa thuận ngày, giờ,
địa điểm, cấp bậc cuộc họp giữa đại diện hai Chính phủ.
Mọi cố gắng đề nghị thương lượng của Việt Nam đều bị bác bỏ, kể cả các
đề nghị thông qua trung gian của Liên Hiệp Quốc và Phong trào Khơng liên kết.
Trong khi đó những cuộc tiến công của quân Pônpôt giết hại người Việt Nam ở biên



giới ngày càng nghiêm trọng, điển hình là vụ thảm sát ở xã Ba Chúc (An Giang) và
cuộc pháo kích kéo dài bằng đại bác 130 ly vào thị xã Châu Đốc.
Trung tuần tháng 12 năm 1978, chính quyền Pơnpơt tập trung 19

trong

tổng số 25 sư đoàn chủ lực ở biên giới Campuchia - Việt Nam ngày 23

tháng

12 năm 1978, quân Pônpôt tiến công thị trấn Bến Sỏi (Tây Ninh) với mục tiêu là đánh
chiếm thị xã Tây Ninh. Pônpôt cịn vạch ra kế hoạch tấn cơng quy mơ rộng lớn hơn
nhằm tiến cơng thành phố Hồ Chí Minh và chúng còn đưa ra khẩu hiệu: “Tất cả cho
tiền tuyến để đánh Việt Nam” [63, tr.70].
ở Campuchia, do chính sách thống trị vô cùng tàn bạo của chế độ Pônpôt nên
mâu thuẫn giữa nhân dân với tập đoàn thống trị ngày càng sâu sắc. Chúng xây dựng
một xã hội chưa từng có trong lịch sử: “Khơng có thành phố, khơng có quyền sở hữu,
khơng có chợ búa và tiền tệ, khơng có gia đình” [14, tr.3]. Nhân dân đã nổi dậy đấu
tranh chống lại chế độ diệt chủng. Trên cơ sở Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước
Campuchia ra đời do ông Hiêngxomrin làm Chủ tịch. Với sự giúp đỡ của bộ đội Việt
Nam, từ cuối tháng 12 năm 1978, sau khi đập tan hệ thống phòng thủ vòng ngồi, lực
lượng cách mạng đã tiến hành giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh vào ngày 07 tháng 01
năm 1979, lật đổ chế độ “Campuchia dân chủ” của Pônpôt. Trong hồi ký của mình,
Xihanuc thừa nhận: “Nếu khơng có sự can thiệp quân sự thắng lợi của Việt Nam vào
Campuchia thì có thể Xihanuc sẽ bị Khmer Đỏ thủ tiêu” [29, tr.279]. Thắng lợi này
đã mở ra một giai đoạn phát triển mới của đất nước Campuchia. Sau đó, để bảo vệ
thành quả cách mạng trong khi chính quyền cách mạng mới thành lập, ngày 18 tháng
02 năm 1979, Chính phủ Hiêngxomrin đã ký với Chính phủ Việt Nam một hiệp ước

yêu cầu quân đội Việt Nam ở lại Campuchia để bảo vệ thành quả cách mạng. Như
vậy, sự có mặt của quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia là theo yêu cầu của
Campuchia, nhằm giúp: “Nhân dân Campuchia bảo vệ độc lập, chủ quyền, an ninh và
công cuộc hồi sinh của mình” [32, tr.43]. Thế nhưng, các thế lực chống đối cách
mạng đã nêu lên “vấn đề Campuchia”. Với sự thao túng của một số cường quốc, Liên
Hiệp Quốc đã ra một số nghị quyết ủng hộ thế lực Pônpôt đã bị nhân dân lật đổ. ở
Campuchia, các thế lực chống đối cách mạng đã liên kết với nhau để chống Chính
phủ Cộng hịa nhân dân Campuchia. Sau đó, các lực lượng chống đối xây dựng hệ


thống căn cứ trên đất Thái Lan và thành lập “Chính phủ liên hiệp 3 phái” do Xihanuc
đứng đầu. Với sự giúp đỡ của những thế lực bên ngoài, từ năm 1979 các cuộc xung
đột ở Campuchia diễn ra rất quyết liệt. Nhưng với sự giúp đỡ của quân tình nguyện
Việt Nam, quân và dân Campuchia đã liên tiếp đánh bại các cuộc tấn công của các
lực lượng thù địch và từng bước khôi phục, xây dựng đất nước. Trong những nước
ủng hộ Khmer Đỏ điển hình là Trung Quốc. Vì vậy những người u chuộng hịa
bình đã lên án Trung Quốc ủng hộ Khmer Đỏ, các nhà sử học chứng minh rằng: “Bắc
Kinh đã viện trợ tiền và vũ khí cho hoạt động phong trào Khmer Đỏ trong những thập
niên 70 và 80, những kẻ phải chịu trách nhiệm về cái chết của khoảng 1,7 triệu người
dân Campuchia trong thời gian chúng nắm quyền từ năm 1975 - 1979” [54, tr.6]. Để
chứng minh sự ủng hộ của Bắc Kinh đối với Khmer Đỏ, Bộ trưởng cao cấp Xingapo
Lý Quang Diệu trong cuốn hồi ký của mình cũng khẳng định: “Khmer Đỏ và các
nhóm chống cộng khác tại Campuchia đã nhận được khoảng 1 tỷ USD viện trợ của
Trung Quốc” [54, tr.7].
Phản ứng quốc tế đối với việc Việt Nam đưa qn vào Campuchia nói chung
khơng thuận. Chỉ có Liên Xô, Lào và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu ra tuyên bố
ủng hộ. Đi đôi với việc lên án Việt Nam đưa quân vào Campuchia và đòi Việt Nam
rút quân, các thế lực thù địch đã tiến hành tập hợp lực lượng, thực hiện chính sách
bao vây cấm vận nhằm làm suy yếu và tạo sức ép với Việt Nam.
Trước tình hình đó, Việt Nam đấu tranh chống lại âm mưu của các thế lực thù

địch bao vây, cấm vận Việt Nam và tăng cường phối hợp giữa ba nước Việt Nam,
Lào và Campuchia trong các hoạt động quốc tế. Đồng thời, cùng với các bạn bè quốc
tế, Việt Nam ra sức giúp nhân dân Campuchia khắc phục hậu quả do chế độ diệt
chủng để lại, xây dựng đời sống kinh tế, xã hội mới, góp sức giúp đất nước
Campuchia hồi sinh.
Sau khi Campuchia được giải phóng khỏi chế độ diệt chủng Pơnpơt, theo u
cầu của Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Campuchia, Việt Nam để lại một lực lượng
quân đội và cử chuyên gia các ngành dân sự sang giúp nhân dân Campuchia ổn định
tình hình và xây dựng lại đất nước. Các lực lượng của Cộng hoà Nhân dân
Campuchia phối hợp với quân đội Việt Nam tiếp tục truy quét tàn quân Pônpôt, duy


trì ổn định, bảo đảm an ninh xã hội và khắc phục nạn đói cho 4 triệu dân Campuchia.
Với nỗ lực to lớn của chính quyền mới và của nhân dân Campuchia, được sự giúp đỡ
của Việt Nam, Liên Xô và các nước bè bạn, đời sống của người dân Campuchia dần
dần trở lại bình thường. Chợ búa, trường học, bệnh xá bị Pơnpơt xố bỏ được phục
hồi. Nhân dân Campuchia tiến hành tổng tuyển cử bầu ra quốc hội. Về đối ngoại,
ngay sau khi thành lập nhà nước mới, Campuchia đã thiết lập quan hệ chính thức với
Việt Nam. Ngày 12 tháng 01 năm 1979, hai nước trao đổi đại sứ. Ngày 17 tháng 02
năm 1979, Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn
đầu tới Phnơm Pênh thăm chính thức Campuchia. Nhân dịp này, hai nước đã ký hiệp
ước hồ bình, hữu nghị và hợp tác. Hiệp ước hồ bình, hữu nghị và hợp tác
Campuchia - Việt Nam góp phần khơi phục mối quan hệ hữu nghị láng giềng thân
thiện và hợp tác giữa hai nước. Trong quá trình đấu tranh về vấn đề Campuchia, Liên
Xô luôn luôn ủng hộ lập trường của Việt Nam, Campuchia và Lào.
Còn đối với Việt Nam, chỉ hơn bốn năm sau khi giải phóng đất nước, Việt
Nam bị đưa đẩy vào cuộc chiến thảm khốc ở Campuchia. Sau hai cuộc kháng chiến
gian khổ, dân Việt Nam mới chỉ được hưởng mùi vị của chiến thắng và hòa bình êm ả
chưa đầy 5 năm. Vết thương chiến tranh chưa lành thì lâm vào cảnh nửa hịa bình nửa
chiến tranh. Chiến tranh chống Mỹ tuy gian khổ khốc liệt song Việt Nam được mặt

trận nhân dân thế giới rộng lớn ủng hộ, còn trong cuộc chiến đấu chống diệt chủng
Pơnpơt thì Việt Nam hầu như hồn tồn cơ lập. Các nước cùng khu vực lo sợ sau khi
“hạ xong” Campuchia sẽ phát huy sức mạnh quân sự ra cả Đơng Nam á. Cịn Trung
Quốc ra sức vu khống “Việt Nam xâm lược Campuchia” và có mưu đồ lập “Liên
bang Đơng Dương” để làm chủ cả Lào lẫn Campuchia, xóa mờ tính chất “chống diệt
chủng” của việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia.
Để chống lại các thế lực thù địch nêu lên “Vấn đề Campuchia”, ngày 16 tháng
7 năm 1979, Bộ ngoại giao nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia khẳng định: “Chính
phủ nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn tôn trọng độc lập, chủ
quyền, thống nhất và tồn vẹn lãnh thổ của nước Cộng hịa Nhân dân Campuchia.
Chừng nào tàn quân Pônpôt - Iêng Xary, tay sai của Bắc Kinh và các bọn phản động
tay sai của đế quốc khơng cịn hoạt động phá hoại cuộc sống yên lành của nhân dân


Campuchia, chừng nào bọn bành trướng Bắc Kinh và đế quốc đồng minh của Bắc
Kinh khơng cịn thơng qua bọn Pônpôt - Iêng Xary và các bọn phản động khác đe dọa
nền độc lập của Campuchia, thì quân đội nhân dân Việt Nam sẽ rút ngay về nước”
[34, tr.35].
Trong giai đoạn này Campuchia trở thành tiêu điểm của sự đối đầu giữa một
bên là Trung Quốc và một bên là Việt Nam được Liên Xô ủng hộ. Sự đối đầu ấy trở
thành xung đột quân sự ngay từ tháng 5 năm 1975 và phát triển lên thành cuộc chiến
tranh biên giới Tây - Nam Việt Nam. Thực chất của cái gọi là “vấn đề Campuchia” là
việc Trung Quốc sử dụng một trong những công cụ đắc lực nhất của họ để can thiệp
và đe doạ an ninh của các nước Đông Dương, trước hết là Campuchia. Nếu cho rằng
đây là xung đột giữa Liên Xô - Việt Nam với Trung Quốc - Khmer Đỏ là một điều sai
lầm. Vì như thế sẽ không thấy được mối đe doạ lớn đối với an ninh của tất cả các
nước khu vực này là chủ nghĩa bành trướng và bá quyền Trung Quốc, Liên Xô từ
trước đến nay chỉ giúp nhân dân ba nước Đông Dương bảo vệ độc lập và xây dựng
đất nước hồ bình.
Thực chất của “vấn đề Campuchia” là cuộc xung đột giữa một bên là tàn quân

Pônpôt với sự ủng hộ, giúp đỡ từ bên ngoài nhằm thủ tiêu những thành quả cách
mạng mà nhân dân Campuchia đã giành được, nhằm lật đổ Chính phủ nước Cộng hịa
Nhân dân Campuchia, phục hồi chế độ diệt chủng và một bên là cuộc chiến đấu chính
nghĩa của Chính phủ nước Cộng hịa Nhân dân Campuchia và nhân dân Campuchia
có sự giúp đỡ thiện chí, vơ tư của Việt Nam và lực lượng u chuộng hịa bình, cơng
lý trên tồn thế giới để bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng cuộc sống mới.
Nguyên nhân gây nên sự căng thẳng ở Campuchia trong những năm 80 khơng phải từ
phía Việt Nam như quan điểm một số nước mà là từ phía Pơnpơt. Hành động của
qn tình nguyện Việt Nam là hồn tồn chính nghĩa, phù hợp với Hiến chương Liên
Hiệp Quốc về quyền tự vệ chính đáng của các quốc gia và quyền giúp đỡ nhau chống
thảm họa diệt chủng, phù hợp với truyền thống đoàn kết chiến đấu giữa hai dân tộc,
là hành động sáng ngời chính nghĩa, là biểu hiện cao đẹp của tinh thần quốc tế trong
sáng của Việt Nam. Tuyệt nhiên, hành động đó khơng phải là "xâm lược" như một số
nước lớn tiếng chỉ trích. Hành động đó được nhân dân Campuchia hết lịng ghi nhận,


được dư luận u chuộng hịa bình và cơng lý trên tồn thế giới đồng tình, ủng hộ và
đánh giá cao. Chính được sự giúp đỡ của quân đội Việt Nam, lực lượng cách mạng
Campuchia đã tiến vào Phnôm Pênh lật đổ chính quyền Pơnpơt và thành lập nên nước
Cộng hoà Nhân dân Campuchia. Quan hệ giữa hai nước bước vào một thời kỳ mới.
Chính sách của Pơnpơt là kích động hằn thù dân tộc giữa Campuchia và Việt
Nam, phá hoại tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước là nằm chung trong chính sách
gây xung đột biên giới với các nước láng giềng, trong chính sách đối ngoại đóng cửa
đề cao chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, khước từ các vấn đề hợp tác quốc tế và hợp tác khu
vực (như hợp tác về sơng Mêkơng). Chính sách đối ngoại đó của nhà cầm quyền
Campuchia là nhằm phục vụ chính sách đẩy mạnh các cuộc đàn áp nhân dân trong
nước, thanh trừng những người cách mạng và yêu nước chống lại đường lối sai lầm
của họ nhằm củng cố lại quyền lực của họ; đồng thời đánh lạc hướng dư luận nhân
dân trong nước căm phẩn trước những chính sách đầy tội ác của họ. Chính sách đó
khơng những đã phá hoại truyền thống đoàn kết giữa hai dân tộc, mà nhà cầm quyền

Campuchia phản bội đối với bạn chiến đấu thân thiết của nhân dân họ, họ cũng đang
đi ngược lại tình cảm thiêng liêng và lợi ích dân tộc của chính nhân dân Campuchia.
1.2.2. Những biến đổi của tình hình thế giới, tác động đến quan hệ
Campuchia - Việt Nam giai đoạn 1979-1985
Vào đầu những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
phát triển tăng tốc, với các đợt sóng cơng nghệ cao, nổi bật là công nghệ thông tin,
mang lại những biến đổi ngày càng sâu sắc và nhanh chóng mọi mặt đời sống nhân
loại. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã thúc đẩy xã hội hoá sản xuất vật chất,
tạo ra những bước nhảy vọt về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, đẩy mạnh
việc cơ cấu lại các nền kinh tế, tạo ra nhiều ngành kinh tế mới và thúc đẩy kinh tế tri
thức. Sự phổ cập nhanh chóng của hệ thống Internet và các phương tiện hiện đại khác
ngày càng mở rộng giao lưu quốc tế. Đồng thời, xu thế khu vực hoá và tồn cầu hố
được tăng cường, lơi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia và làm gia tăng các hoạt
động kinh tế thương mại quốc tế. Cải cách và mở cửa đã xuất hiện như một trào lưu


tại nhiều nước trên thế giới. Để đẩy mạnh cải cách kinh tế và hiện đại hoá, một số
nước tiến hành ở mức độ khác nhau quá trình dân chủ hố và cải cách chính trị.
Trước tình hình quốc tế và khu vực ngày càng diễn biến phức tạp, để bắt tay
với Trung Quốc chống Liên Xô ở châu á - Thái Bình Dương. Ngày 15 tháng 12 năm
1978, Mỹ và Trung Quốc đã ra thơng cáo chung chính thức công nhận nhau và thiết
lập quan hệ ngoại giao từ ngày 01 tháng 01 năm 1979. Việc bình thường quan hệ Mỹ
- Trung Quốc đã gây bất lợi cho quan hệ Việt Nam mà mãi tới 20 năm sau (1995)
quan hệ Việt Nam - Mỹ mới được bình thường hóa và gia nhập khối ASEAN (1995)
một cách khá chật vật.
Ngày 16 tháng 12 năm 1979, Chính quyền Mỹ Jimmy Carter có nêu 6 nguyên
tắc xử sự khi Trung Quốc xâm chiếm biên giới Việt Nam: Mỹ không can thiệp trực
tiếp; khuyến khích các bên tự kiềm chế; Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và Trung
Quốc rút quân khỏi Việt Nam; cuộc xung đột khơng đe doạ lợi ích trước mắt của Mỹ;
khơng đặt lại vấn đề bình thường hố với Trung Quốc; quyền lợi đồng minh của Mỹ

không bị đe dọa. Cũng từ đó, cuộc xung đột Campuchia và quan hệ với Việt Nam đã
được đặt trong khuôn khổ của mối quan hệ giữa 3 nước lớn Mỹ - Xô - Trung và cũng
từ đó Mỹ gắn vấn đề quan hệ Mỹ - Việt Nam với quá trình giải quyết vấn đề
Campuchia.
Cùng thời gian này, do những khó khăn kinh tế - xã hội chồng chất của thời kỳ
chiến tranh chưa được tháo gỡ, lại bị bao vây cấm vận bên ngồi nên trong nước đã
nảy sinh ra tình trạng “vượt biên” trốn ra nước ngoài của một bộ phận dân chúng ở cả
hai miền Nam Bắc, tạo thêm gánh nặng về đối ngoại cho Việt Nam, bơi đen thêm
hình ảnh Việt Nam trên quốc tế. Vấn đề Campuchia và vấn đề “thuyền nhân” lúc đó
là gánh nặng trên mặt trận đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn này.
Đối với các nước Đông Dương, từ năm 1980 đến 1985, Campuchia, Việt Nam
và Lào, sáu tháng một lần tổ chức họp định kỳ, họp hội nghị bộ trưởng ngoại giao ba
nước để phối hợp hoạt động quốc tế. Một hướng hoạt động ngoại giao quan trọng của
ba nước là thúc đẩy đối thoại với các nước ASEAN.
Trong vấn đề Campuchia, chủ trương của các nước ASEAN là phối hợp với
các nước ngồi khu vực đấu tranh địi Việt Nam rút quân, chấp nhận giải pháp không


có lợi cho Campuchia, tạo thế cân bằng giữa các nước lớn ở khu vực. Ngay từ đầu,
các nước ASEAN đưa ra Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc dự thảo nghị quyết lên án:
“Việt Nam xâm lược Campuchia và đòi Việt Nam rút quân” [6, tr.308]. Việt Nam
cảnh báo thái độ của họ đã đi ngược lại lợi ích các nước trên bán đảo Đông Dương sẽ
dẫn tới đối đầu giữa hai nhóm nước.
Tuy các nước ASEAN khơng giữ vai trò lớn trong việc giải quyết vấn đề
Campuchia, nhưng từ năm 1980, Campuchia, Việt Nam và Lào, chủ trương thúc đẩy
đối thoại với các nước này nhằm tạo khơng khí hoà dịu, tránh đối đầu, xây dựng quan
hệ cùng tồn tại hồ bình giữa hai nhóm nước, tạo điều kiện thúc đẩy hồ bình, ổn
định của khu vực.
Tháng 01 năm 1980, Hội nghị ngoại trưởng ba nước Campuchia, Việt Nam và
Lào tỏ ý sẵn sàng đàm phán để ký kết hiệp định song phương về không xâm lược với

các nước Đông Nam á và bàn vấn đề xây dựng Đông Nam á thành khu vực hồ bình,
độc lập, tự do, trung lập, ổn định, phồn vinh. Tháng 9 năm 1981, Bộ trưởng Ngoại
giao Lào thay mặt các nước Campuchia, Việt Nam và Lào đưa ra tại Đại hội đồng
Liên Hiệp Quốc đề nghị về bảy nguyên tắc chỉ đạo quan hệ cùng tồn tại hồ bình giữa
hai nhóm nước Đơng Dương và ASEAN. Tháng 7 năm 1982, Hội nghị ngoại trưởng
ba nước lại đề nghị họp Hội nghị quốc tế về Đơng Nam á gồm hai nhóm nước, cùng
Mianma, ấn Độ và năm nước lớn nhưng đề nghị này không được đáp ứng. Cũng tại
Hội nghị ngoại trưởng ba nước này lần đầu tiên kể từ khi Việt Nam đưa quân vào
Campuchia năm 1979, Campuchia và Việt Nam đã tuyên bố về việc Việt Nam rút
một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước.
Tháng 02 năm 1983, Hội nghị cấp cao ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia
họp ở Viêng Chăn bàn về tăng cường hợp tác kinh tế, văn hoá giữa ba nước. Hội nghị
này Việt Nam đã ra tuyên bố: “Sự có mặt của quân đội Việt Nam ở Campuchia là
theo yêu cầu của Campuchia, Việt Nam sẽ rút hết quân về nước khi an ninh
Campuchia được bảo đảm” [6, tr.309]. Thực hiện theo lời tuyên bố, căn cứ vào mức
độ ổn định của tình hình Campuchia, hàng năm một bộ phận quân tình nguyện Việt
Nam sẽ được rút về nước. Tháng 7 năm 1983, Hội nghị ngoại trưởng ba nước tuyên


×