Tải bản đầy đủ (.pdf) (225 trang)

Tìm hiểu phương thức ẩn dụ trong tiếng việt (thể hiện qua ca dao trữ tình, thơ tình xuân diệu và thơ tình xuân quỳnh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 225 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM THỊ XN RỚT

Chun ngành : Ngơn ngữ học
Mã số : 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN THỊ HAI

Thành phố Hồ Chí Minh – 2007


LỜI CẢM ƠN
- Tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đối với
Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Thị Hai, Người đã dành
nhiều thời gian và công sức để hướng dẫn tơi hồn thành
luận văn.
- Tơi xin cảm ơn quý Thầy Cô khoa Ngữ Văn trường
Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình chỉ
dẫn, giúp đỡ và cho chúng tôi những tri thức cần thiết
trong quá trình học tập cũng như trong quá trình thực hiện
luận văn.
- Tơi xin cảm ơn Thầy Cơ phịng Khoa học cơng
nghệ và Sau đại học, và bạn bè đã quan tâm, giúp đỡ tôi
thực hiện đề tài này.
- Cuối cùng tôi xin cảm ơn trường THPT Tánh Linh,
Hạt Kiểm lâm Tánh Linh và anh Hồ Thanh Tuyền đã


động viên về tinh thần, giúp đỡ về vật chất để tơi hồn
thành luận văn.


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thấy có những sự vật bản chất không phải là A
nhưng lại được mang tên gọi của A do giữa A và chúng có một nét nào đó tương đồng nhau.
Đặc điểm này của các sự vật đã kích thích vào khả năng liên tưởng, giúp chúng ta nhận thức
về thế giới khách quan đa dạng một cách sinh động. Dựa vào thực tế cuộc sống, qua cảm
nhận chủ quan và cảm nhận của thời đại, các tác giả đã đưa vào tác phẩm văn chương của
mình những kết quả liên tưởng ấy. Nói cách khác, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và phát
huy, các tác giả đã thực hiện những liên tưởng của mình sao cho thỏa mãn được nhu cầu
giao tiếp của cộng đồng. Do đó, cách liên tưởng như vậy vừa có tính truyền thống, tính thời
đại, vừa mang tính cá nhân chủ quan. Cách liên tưởng ấy chính là ẩn dụ - một phương thức
chuyển nghĩa phổ biến.
Việc hiểu và nắm vững phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ góp phần làm giàu vốn ngôn
ngữ, làm tiếng Việt thêm phong phú, đa dạng về ý nghĩa. Mặt khác, nếu biết sử dụng tốt
phương thức này thì cách diễn đạt của ta chắc chắn sẽ súc tích, bóng bẩy, truyền cảm, đạt
hiệu quả giao tiếp cao.
Hơn thế nữa, người thực hiện luận án này là một giáo viên phổ thông, trực tiếp đứng lớp.
Cho nên việc hiểu kỹ phương thức ẩn dụ lại càng cần thiết hơn, bởi nó cịn giúp nâng cao
khả năng cảm thụ văn chương, khả năng phân tích tác phẩm sâu sắc, gợi cảm. Nhờ vậy mới
mong có được giờ giảng sinh động, có sức truyền cảm mạnh, thu hút được hứng thú của học
sinh.
Với tất cả những lý do nêu trên chúng tôi quyết định đi vào đề tài: Tìm hiểu phương
thức ẩn dụ trong tiếng Việt (thể hiện qua Ca dao trữ tình, Thơ tình Xuân Diệu và thơ
tình Xuân Quỳnh ).
2. Lịch sử vấn đề
Việc tìm hiểu phương thức ẩn dụ từ lâu đã được các nhà Việt ngữ học quan tâm. Năm

1940, tác phẩm của Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm [50] giới thiệu một cách sơ
lược về ẩn dụ trong văn chương. Trong các giáo trình về từ vựng học tiếng Việt (cụ thể:
Nguyễn Văn Tu [121], Đỗ Hữu Châu [13], Nguyễn Thiện Giáp [33]) đều có đề mục viết về
hiện tượng chuyển nghĩa nói chung, phương thức ẩn dụ nói riêng.
Bên cạnh đó các tác giả viết về phong cách học như: Đinh Trọng Lạc [56]; Cù Đình Tú
[122], Nguyễn Nguyên Trứ [120], Nguyễn Thái Hòa [43],… cho rằng ẩn dụ là một biện


pháp tu từ chỉ dùng để trang trí, góp phần làm giàu hình tượng, cảm xúc cho tiếng Việt.
Song ở mỗi tác giả, ở mỗi thời điểm lại có cách gọi và phân loại khác nhau.
Đinh Trọng Lạc [56; tr.103-111] gọi ẩn dụ là một phương thức chuyển nghĩa, có khả
năng gợi hình, gợi cảm. Về mặt ý nghĩa, tác giả phân ẩn dụ ra làm ba loại: từ cụ thể đến cụ
thể, từ cụ thể đến trừu tượng và từ trừu tượng đến cụ thể. Cách phân loại này dựa vào tính
cụ thể của đối tượng chọn làm ẩn dụ. Với cách phân chia này, mối quan hệ tương đồng giữa
hai sự vật, hai hiện tượng không được thể hiện rõ nét và cũng khơng thấy được tính đa dạng,
phong phú của ẩn dụ tu từ.
Cù Đình Tú [122; tr. 279] xem ẩn dụ là cách cá nhân lâm thời lấy tên gọi biểu thị đối
tượng này dùng để biểu thị đối tượng kia dựa trên cơ sở của mối liên tưởng về nét tương
đồng giữa hai đối tượng. Dựa vào khả năng tương đồng giữa hai đối tượng, tác giả chia ẩn
dụ tiếng Việt ra làm năm loại: tương đồng về màu sắc, tương đồng về tính chất, tương đồng
về trạng thái, tương đồng về hành động và tương đồng về cơ cấu. Nhìn chung, cách phân
loại này phù hợp với chức năng biểu cảm của ẩn dụ tu từ. Tuy nhiên, cách nhận định về ẩn
dụ tu từ của Cù Đình Tú mang nhiều tính truyền thống, chưa làm rõ các phương tiện và biện
pháp tu từ.
Đinh Trọng Lạc, một lần nữa, khi nghiên cứu lại các giáo trình và tài liệu về phong
cách học của mình trước đây, đồng thời tiếp thu những thành tựu mới của ngôn ngữ học
hiện đại, đã khẳng định ẩn dụ là Sự định danh thứ hai mang ý nghĩa hình tượng, dựa trên sự
tương đồng hay giống nhau giữa khách thể A được định danh với khách thể B có tên gọi
được chuyển sang dùng cho A [57; tr.52]. Căn cứ vào từ loại và chức năng của từ ẩn dụ, tác
giả chia ẩn dụ ra làm 3 loại: ẩn dụ định danh, ẩn dụ nhận thức và ẩn dụ hình tượng. Trong

ba loại này, ẩn dụ định danh và ẩn dụ nhận thức thuộc ẩn dụ từ vựng, hiệu quả tu từ được
tạo nên khơng lớn lắm; cịn ẩn dụ hình tượng mang lại hiệu quả tu từ cao, nó tác động vào
trực giác của người nhận và đem lại khả năng sáng tạo.
Kể từ 1969 trên tạp chí ngơn ngữ, có nhiều bài viết về hiện tượng chuyển nghĩa ẩn dụ
như: Nguyễn Văn Mệnh [73]; Nguyễn Thế Lịch [67], [68], …
Nguyễn Thế Lịch, trong [68], cho rằng ẩn dụ là một hiện tượng chuyển nghĩa được
hình thành từ cấu trúc so sánh hoàn chỉnh sau khi đã lượt bớt các yếu tố 3 (yếu tố thể hiện
quan hệ so sánh) và yếu tố 1 (yếu tố bị/ được so sánh), chỉ còn lại hoặc là yếu tố 2 (phương
diện so sánh) hoặc là yếu tố 4 (yếu tố so sánh) trong cấu trúc mà thơi. Ơng cịn cho rằng
cùng một yếu tố chuẩn để so sánh có thể có ba dạng thức song song tồn tại: so sánh, tổ hợp


ẩn dụ và ẩn dụ. Không phải ẩn dụ nào cũng tạo ra hiệu quả nghệ thuật cao hơn so sánh.
Trong ngơn ngữ nghệ thuật, chính những so sánh và tổ hợp ẩn dụ tươi mới rất sinh động,
gợi cảm, còn ẩn dụ tạo ra từ so sánh và tổ hợp ẩn dụ ấy lại chịu thiệt thòi là đã quen thuộc,
khơng cịn bất ngờ nữa.
Thêm vào đó, trong Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ (1981) có bài
của Hồng Lai [58], Nguyễn Ngọc Trâm [116]. Cịn trong Những vấn đề ngơn ngữ học về
các ngơn ngữ phương Đơng (1986) có bài của Nguyễn Thế Lịch [66]. Trong Tiếng Việt và
các ngôn ngữ Đông Nam Á (1888) có bài của Hà Quang Năng [79].
Theo các tác giả này, có nhiều cách tạo ra hiện tượng chuyển nghĩa trong tiếng Việt.
Nguyễn Ngọc Trâm cho rằng sự biến đổi các nét nghĩa trong từ đa nghĩa chủ yếu là do hai
hiện tượng đẳng cấu ngữ nghĩa và phi đẳng cấu ngữ nghĩa dẫn tới việc chuyển nghĩa. Cịn
Hồng Văn Hành thì khẳng định hiện tượng chuyển nghĩa là hiện tượng tạo ra các đơn vị từ
vựng phát sinh theo bốn phương thức chính: ghép, láy, phỏng và chuyển. Trong khi đó, tác
giả Hồng Lai lại nhận thấy quá trình chuyển nghĩa xảy ra nhờ vào mối quan hệ liên tưởng
về ngữ nghĩa giữa hai thành tố vốn xa lạ với nhau. Sở dĩ ta liên tưởng được là nhờ một
nghĩa vị chung nào đó vốn có trong bản chất của hai thành tố hoặc được gán ghép vào từ
ngồi trong một tình huống nhất định.
Ở một góc nhìn khác, ít nhiều liên quan đến hiện tượng chuyển nghĩa của từ, có một

loạt bài [111], [112], [113] và cơng trình [114] của Nguyễn Đức Tồn. Trong đó, cơng trình
Tìm hiểu đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy của người Việt (trong sự so
sánh với những dân tộc khác) [114] đã đi sâu nghiên cứu vấn đề chuyển nghĩa theo hướng
lý thuyết tâm lý - ngôn ngữ học tộc người. Khi so sánh với cách liên tưởng của người Nga,
người Anh… đồng thời thơng qua việc tìm hiểu đặc điểm dân tộc của việc định danh động
vật, định danh thực vật, định danh bộ phận cơ thể người của người Việt, thông qua những
nội dung về đặc điểm ngữ nghĩa của trường tên gọi động vật, trường tên gọi thực vật, ngữ
nghĩa của các từ chỉ bộ phận cơ thể người, ông đã chỉ ra đặc điểm tư duy liên tưởng của
người Việt.
Trong những năm gần đây, trên thế giới lý thuyết ngôn ngữ học tri nhận phát triển
mạnh; đi theo hướng nghiên cứu này, ở Việt Nam gần đây cũng có khơng ít bài báo và cơng
trình. Những khảo cứu theo hướng đi này đã gợi mở ít nhiều cho việc nghiên cứu vấn đề
liên tưởng, chuyển nghĩa. Năm 1994, Lý Toàn Thắng trong [99] đã cho ta một cái nhìn khái
quát phương hướng nghiên cứu phạm trù không gian trong tiếng Việt như: định hướng


khơng gian, bản đồ tri nhận khơng gian. Qua đó, mơ hình khơng gian và cách tri nhận
khơng gian của người Việt Nam được trình bày rõ ràng. Năm 1998, Nguyễn Ngọc Thanh
[98] khẳng định rằng ẩn dụ là một cơ chế tri nhận đi từ cụ thể đến trừu tượng. Cơ chế tri
nhận này giúp ta hiểu thêm được khái niệm trừu tượng thời gian bằng các hình ảnh cụ thể
trong thế giới khách quan. Năm 2001, cũng Lý Toàn Thắng [100] nêu lên cái cách thức mà
người Việt dùng các loại từ để mơ tả các thuộc tính khơng gian của vật thể và từ đó xếp loại
chúng. Căn cứ vào đó ta có thể suy đốn về một cách thức riêng của tiếng Việt trong việc ý
niệm hóa phân loại và mơ tả thế giới khách quan. Đây là một vấn đề đang thu hút sự chú ý
của trào lưu ngôn ngữ học tri nhận trên thế giới. Chắc rằng vấn đề này cũng liên quan khơng
ít đến vấn đề chuyển nghĩa nói chung, vấn đề liên tưởng ẩn dụ nói riêng.
Nhìn chung, vấn đề ẩn dụ được nghiên cứu khơng ít, nhưng chưa có cơng trình nào
khảo sát nó trong các tác phẩm văn học, xét trên trục thời gian, để phát hiện những đặc điểm
kế thừa, những đặc điểm sáng tạo của từng tác giả.
3. Phạm vi vấn đề nghiên cứu và mục đích của luận văn

3.1. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ nói chung cũng như phương thức ẩn dụ nói riêng
biểu hiện vơ cùng sinh động, khơng dễ gì nắm bắt hết được. Thêm vào đó, luận văn lại được
định hướng là xem xét phương thức liên tưởng này trong sự phát triển của việc sử dụng
ngôn từ, cho nên vấn đề lại càng rộng. Để có thể thực hiện được mục đích của mình trong
khn khổ luận văn thạc sĩ (cả về số lượng trang, cả về thời lượng), trong những điều kiện
hạn hẹp của bản thân học viên (kiến thức về ngôn ngữ học, nhất là ngôn ngữ học hiện đại
chưa rộng, chưa sâu), người viết luận văn xin được hạn chế vấn đề trong khuôn khổ sau đây:
- Xem xét ẩn dụ tu từ (còn gọi là ẩn dụ phong cách; hay ẩn dụ hình tượng, như cách
gọi của Đinh Trọng Lạc [57] );
- Khảo sát vấn đề trong ca dao trữ tình và thơ trữ tình;
- Chỉ khảo sát trong 3 tác phẩm cụ thể (sẽ được nêu ở phần nguồn tư liệu nghiên cứu ở
mục 0.4.2.).
3.2. Mục đích chính của luận văn là tìm hiểu hiện tượng chuyển nghĩa, mà cụ thể là
phương thức ẩn dụ. Cho nên người thực hiện luận văn không đi vào những vấn đề có tính
chất tranh luận như khái niệm từ trong tiếng Việt, vấn đề phân loại cấu tạo từ của tiếng Việt.
Để thực hiện được mục đích chính của mình, người viết chỉ xin chọn một giải pháp nào
tương đối dễ nhận diện từ đối với mọi người, nhất là đối với học sinh phổ thông.
4. Nhiệm vụ của luận văn


Người viết luận văn có nhiệm vụ phải trả lời các câu hỏi sau đây:
1./ Những từ ngữ nào trong ba tác phẩm nêu trên đã tham gia vào việc thực hiện phương
thức liên tưởng ẩn dụ?
2./ Những hình ảnh nào được các tác giả (dân gian, Xuân Diệu, Xuân Quỳnh) lấy làm cơ
sở để thực hiện phương thức liên tưởng ẩn dụ?
3./ Các tác giả Xuân Diệu và Xuân Quỳnh có kế thừa phương thức ẩn dụ của ca dao hay
không? Họ tiếp thu nguyên mẫu hay vừa tiếp thu vừa sáng tạo?
4./ Xuân Quỳnh có kế thừa liên tưởng ẩn dụ của Xuân Diệu hay không?
5./ Những ẩn dụ nào là hoàn toàn của riêng Xuân Diệu, của riêng Xuân Quỳnh?
5. Nguồn tư liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu

5.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu
Nguồn tư liệu được chọn để khảo sát phương thức ẩn dụ tu từ trong tiếng Việt là 3 tác
phẩm cụ thể sau đây:
- Ca dao trữ tình chọn lọc (1998) - Nxb Giáo dục (Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào sưu
tầm và tuyển chọn).
- Thơ tình Xuân Diệu (1983) - Nxb Đồng Nai (Kiều Văn tuyển chọn và giới thiệu).
- Xuân Quỳnh thơ tình - Nxb Văn học
Chúng tơi chọn mảng đề tài trữ tình, vì nghĩ rằng trong phạm vi này phương thức ẩn dụ
tu từ có khả năng xuất hiện nhiều. Còn ca dao được chọn làm xuất phát điểm vì tính chất cổ
xưa của nó, và cịn vì đó là nơi đúc kết các biến tấu của ngôn từ dân gian. Nếu xuất phát
điểm là ca dao, chúng tôi tin rằng có thể tìm thấy những điểm kế thừa cũng như sáng tạo của
những thế hệ nối tiếp. Xuân Diệu rồi Xuân Quỳnh là hai trong những người nối tiếp trên
trục thời gian. Tuy giữa họ về tính thời đại khơng hồn tồn trùng khít nhau, về giới tính
khác nhau, những rung động trong tâm hồn không như nhau, nhưng, trước hết, họ đều là
những tác giả của nhiều bài thơ tình nổi tiếng, và về mặt sử dụng ngơn từ cũng như sử dụng
hình ảnh có chỗ nào đó gần nhau giữa họ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Người thực hiện luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học nói
chung, mang tính phương pháp luận, như: quan sát, thống kê, phân loại, miêu tả, so sánh.
Trong đó phương pháp thống kê được tiến hành cẩn thận, có cân nhắc qua 3 tác phẩm thuộc
nguồn tư liệu nghiên cứu. Phương pháp so sánh cũng được vận dụng để thực hiện các bước
so sánh sau: 1/- so sánh Ca dao trữ tình và Thơ tình Xuân Diệu; so sánh Ca dao trữ tình và


Xuân Quỳnh thơ tình; so sánh Thơ tình Xuân Diệu và Xuân Quỳnh thơ tình; 2/- so sánh Ca
dao trữ tình - Thơ tình Xuân Diệu - Xuân Quỳnh thơ tình.
5.2.2. Người thực hiện luận văn cịn vận dụng phương pháp phân tích ngữ nghĩa của
từ, xem xét từ ngữ trong văn cảnh, ngữ cảnh; nhưng khơng nhằm trình bày cấu trúc ngữ
nghĩa của từ. Các thao tác phân tích ngữ nghĩa của từ và việc phát hiện cấu trúc ngữ nghĩa
của từ chỉ được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị của người viết. Tuy là vậy nhưng việc

làm này vơ cùng quan trọng đối với người viết, vì kết quả mà nó đưa lại tạo cơ sở cho người
viết phát hiện các đường dây liên tưởng thuộc ẩn dụ. Những phát hiện cuối cùng này mới
phục vụ cho mục đích của luận văn. Do đó, có thể nói, việc vận dụng phương pháp phân
tích ngữ nghĩa của từ nhằm phát hiện các liên tưởng ẩn dụ; luận văn chỉ trình bày các liên
tưởng ẩn dụ.
5.2.3. Phương pháp trắc nghiệm khách quan
Để kiểm tra lại những phát hiện về các liên tưởng ẩn dụ có trong ba tác phẩm nêu trên,
người viết đã thực hiện phương pháp trắc nghiệm. Đối tượng được trắc nghiệm là học sinh
phổ thông trung học tại địa bàn người thực hiện luận văn đang giảng dạy. Đây là đối tượng
thích hợp vì các em có một trình độ kiến thức văn học tương đối; đối với các tác phẩm nêu
trên, các em đã và đang học; ngoài ra, tuổi đời của các em đủ để hiểu những khuất chiết
trong tâm hồn của con người.
6. Ý nghĩa của đề tài và những đóng góp của luận văn
6.1. Về lý thuyết, việc nghiên cứu đề tài này giúp các nhà nghiên cứu ngôn ngữ cũng
như văn học hiểu rõ hơn cơ chế liên tưởng ẩn dụ trong ca dao cũng như trong thơ của Xuân
Diệu và Xuân Quỳnh. Những kết quả của luận văn có thể góp phần nào đó vào việc phát
hiện và xây dựng phong cách ngôn ngữ của hai tác giả thơ nêu trên; tạo tiền đề cho việc xây
dựng từ điển tác giả văn học.
6.2. Về thực tiễn, nếu luận văn được thực hiện tốt, những kết quả của nó có thể vận
dụng vào giảng dạy ngữ văn ở các cấp học. Đối với giáo viên, nó sẽ là tài liệu tham khảo
tốt. Đối với người học, nó sẽ giúp họ hiểu rõ hơn cơ chế liên tưởng ẩn dụ trong ba tác phẩm
đã nêu, giúp họ cảm nhận tốt ý đồ nghệ thuật của các tác giả.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần dẫn nhập, kết luận, giải thích, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương
Chương 1: Những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài


Chương 2: Khảo sát phương thức liên tưởng ẩn dụ trong Ca dao trữ tình, Thơ tình
Xuân Diệu và Xuân Quỳnh thơ tình

Chương 3: So sánh cơ chế liên tưởng ẩn dụ từ Ca dao trữ tình đến Thơ tình Xuân Diệu
và Xuân Quỳnh thơ tình


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm từ trong tiếng Việt
Để có thể thuận tiện hơn cho công việc khảo sát từ ngữ tham gia vào việc thực hiện các
liên tưởng ẩn dụ trong ba tác phẩm đã nêu, chúng tôi chấp nhận quan niệm về từ của
Nguyễn Thiện Giáp [32, tr.69]. Theo quan niệm này, từ tiếng Việt có vỏ ngữ âm là một âm
tiết, trên chữ viết được thể hiện bằng một khối viết liền (Cũng có nghĩa là mỗi từ được cấu
tạo bởi một tiếng). Nếu xét ở góc độ phân biệt những hiện tượng trung tâm (vốn từ vựng cơ
bản) và những hiện tượng ngoại biên (từ vay mượn, nhất là bằng cách phiên âm; trường
hợp: bù nhìn, bồ hóng,…, với số lượng rất ít ỏi; kể cả trường hợp thường gọi là “từ láy”), có
lẽ, quan niệm này phản ánh được diện mạo vốn từ vựng cơ bản của tiếng Việt. So với những
ngơn ngữ như Pháp, Nga… thì số lượng từ có vỏ ngữ âm là một âm tiết trong tiếng Việt rất
lớn. Lại nữa, nếu chấp nhận trong tiếng Việt có từ ghép như các ngơn ngữ đã nêu, thì rất
nhiều trường hợp ranh giới giữa từ ghép và các tổ hợp từ không rõ ràng (như các trường
hợp: hoa hồng, áo dài, nhà trẻ…). Thêm vào đó, trong các ngơn ngữ, hiện tượng chuyển
nghĩa của từ thường xảy ra ở những đơn vị có kích cỡ ngắn nhất. Bởi những lý do ấy mà
chúng tôi tạm chấp nhận giải pháp của Nguyễn Thiện Giáp để tiện cho việc triển khai đề tài.
1.2. Những vấn đề về ngữ dụng học
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi không thể không đụng chạm đến một số vấn đề thuộc
lý thuyết ngữ dụng như: nhân tố giao tiếp, chiếu vật và chỉ xuất, ý nghĩa hàm ẩn và ý nghĩa
tường minh (hiển ngôn). Về những vấn đề này chúng tơi xin lĩnh hội cách trình bày của giáo
sư Đỗ Hữu Châu [14; tr.4-19],

[15; tr.96-156], [11; tr.359- 414].

1.2.1. Nhân tố giao tiếp: Nhân tố giao tiếp bằng ngôn ngữ gồm ngữ cảnh, ngôn ngữ và

diễn ngôn.
Ngữ cảnh bao gồm đối ngơn, hồn cảnh giao tiếp, thoại trường, ngữ huống. Đối ngơn
cịn gọi là người tham gia giao tiếp. Họ phải ở trong trạng thái tinh thần lành mạnh và có sự
phân vai giao tiếp trong một cuộc thoại. Vì rằng giao tiếp là tương tác cho nên vai giao tiếp
còn gọi là vai tương tác (bao gồm vai nói, vai nghe; còn gọi là vai phát, vai nhận). Khi giao
tiếp mặt đối mặt giữa các đối ngơn thì có sự luân phiên vai tương tác, ví dụ cuộc giao tiếp
trong bài ca dao1 sau:
- Bây giờ mận mới hỏi đào,


Vườn hồng có lối, ai vào hay chưa?
- Mận hỏi thì đào xin thưa,
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào. (54)
Song cũng có những cuộc giao tiếp chỉ có một đối ngơn phát, cịn đối ngơn kia nhận là
chủ yếu, chẳng hạn bài ca dao sau đây:
Em còn bé dại thơ ngây,
Mẹ cha ép uổng từ ngày thiếu niên.
Cho nên dun chẳng vừa dun,
Có thương thì vớt em lên hỡi chàng. (187)
Giao tiếp ít nhất phải có hai đối ngôn. Nhưng trên thực tế, trong nhiều trường hợp giao
tiếp, vai nói vẫn là một, cịn vai nghe lớn hơn hai, thậm chí hàng nghìn, hàng vạn. Trong số
đó, theo chúng tôi, các tác phẩm văn học, nhất là các tác phẩm thơ thuộc loại giao tiếp này.
Quan hệ tương tác là quan hệ giữa các đối ngôn nảy sinh trong cuộc giao tiếp. Ngồi
nó, cịn có quan hệ liên cá nhân, là quan hệ từ bên ngoài áp đặt lên quan hệ tương tác. Đó là
những quan hệ xã hội. Khi tham gia vào giao tiếp, những quan hệ xã hội này (như tuổi tác,
quyền lực, thân tình, xa lạ,…) chi phối cả nội dung, cả hình thức của cuộc giao tiếp và
chuyển thành quan hệ liên cá nhân trong giao tiếp. Quan hệ tương tác còn một biểu hiện nữa
là quan hệ vị thế giao tiếp. Nó có tác động khởi phát, duy trì, chuyển hướng đề tài, phân
phát lượt nói… của các đối ngơn trong giao tiếp. Cho nên nói tới đối ngơn cịn là nói tới ý
định, niềm tin, kế hoạch và các hành động thực thi kế hoạch giao tiếp. Hoàn cảnh giao tiếp

“bao gồm tổng thể các nhân tố chính trị, địa lí, kinh tế, văn hóa, lịch sử với các tư tưởng, các
chuẩn mực về đạo đức, ứng xử, với các thiết chế cơng trình, các tổ chức… tương ứng, tạo
nên cái gọi là mơi trường xã hội – văn hóa - địa lí cho các cuộc giao tiếp” [15; tr. 110-111].
Thoại trường hay hiện trường giao tiếp là không gian, thời gian của cuộc giao tiếp. “Khái
niệm không gian ở đây chỉ nơi chốn cụ thể với những điều kiện, những trần thiết, các đồ vật,
các nhân vật tiêu biểu cho một kiểu loại khơng gian địi hỏi phải có một cách ứng xử bằng
lời tương thích” [15; tr. 111]. Khái niệm thời gian ở đây cũng cụ thể. “Thời gian thoại
trường của một khơng gian thoại trường địi hỏi phải có những cách thức nói năng tương
thích” [15; tr. 111]. Nói tới hồn cảnh giao tiếp cịn là nói tới hiện thực đề tài, nói tới “thế
giới khả hữu” được chọn làm hệ quy chiếu cho hiện thực - đề tài của diễn ngơn. “Sự thể
hiện tổng hịa các nhân tố của ngữ cảnh hình thành nên các ngữ huống liên tiếp kế tiếp nhau
trong một cuộc giao tiếp” [15; tr. 154]. Ngữ huống là “những thể hiện cụ thể của hoàn cảnh


giao tiếp, của thoại trường, của các đối ngôn cũng như những thể hiện cụ thể của chính các
nhân tố tạo nên cuộc giao tiếp ở một thời điểm cụ thể của cuộc giao tiếp đó” [15; tr. 121].
Ngơn ngữ là cơng cụ giao tiếp ưu việt nhất, có đường kênh cơ bản là thính giác. Nó
bao gồm hai đường kênh nói và viết, bao gồm các biến thể ngơn ngữ mà các đối ngôn lựa
chọn để giao tiếp. Trong các biến thể của ngôn ngữ, phải hết sức lưu ý đến ngữ vực2 và đến
loại thể mà theo đó hình thành các diễn ngơn phù hợp. Ngơn ngữ là phương tiện của diễn
ngơn nhưng nằm ngồi diễn ngơn. Nằm ngồi diễn ngơn khơng chỉ có ngữ cảnh (đối ngơn,
hiện thực ngồi diễn ngơn…), ngơn ngữ và các biến thể được sử dụng, mà cịn có ngơn
cảnh. Ngơn cảnh là những diễn ngôn trước và sau diễn ngôn đang xét [15; tr. 129]. Ngôn
cảnh được chia thành tiền ngôn cảnh và hậu ngôn cảnh. Trong thực tế giao tiếp, cùng một
nội dung có thể được thể hiện bằng dạng nói và dạng viết. Cho nên cần phân biệt diễn ngơn
nói và diễn ngôn viết. Diễn ngôn ở dạng thức viết được gọi là văn bản (text)3. Ngôn cảnh
của diễn ngôn nói và văn bản có những điểm khác nhau. Diễn ngơn nói chủ yếu xuất hiện
trong hội thoại, gồm rất nhiều nhân tố, ngồi những yếu tố thuần túy ngơn ngữ học cịn có
những yếu tố như: hành vi ngơn ngữ, các đơn vị hội thoại, các yếu tố kèm lời và phi lời
(điệu bộ, cử chỉ, nét mặt, trọng âm, ngữ điệu,…); đồng thời nó chỉ có tiền ngơn cảnh. Ngôn

cảnh của văn bản được gọi là văn cảnh. Trong văn bản, câu bao giờ cũng xuất hiện với tiền
văn và hậu văn. Trở lại câu ca dao - Bây giờ mận mới hỏi đào,... - Mận hỏi thì đào xin
thưa,…Yếu tố cần xem xét ở đây là mận, đào. Tiền văn của mận là bây giờ, hậu văn là hỏi
đào. Còn tiền văn của đào là mận hỏi, hậu văn là xin thưa. Nhờ việc xác định này mà ta hiểu
được rằng hiện thực - đề tài của văn bản này khơng phải là nói về hai sự vật mận và đào, mà
nói về chuyện tìm hiểu của đơi trai gái thuộc đề tài tình u. Văn cảnh, nói chung, có tính
chất tĩnh, chứ khơng có tính chất động như ngơn cảnh của diễn ngơn nói. Thuộc văn cảnh
cịn có các văn bản viết về cùng một hiện thực - đề tài, nói rộng ra là tất cả các văn bản
thuộc cùng một thể loại ở một thời điểm nhất định của lịch sử. Do đó “liên văn bản là một
đặc tính của văn cảnh của văn bản” [15; tr.131].
Diễn ngơn là gì? Trước khi đi vào khái niệm diễn ngơn, chúng ta sơ lược nói về câu và
phát ngơn. Câu là một tổ chức tuyến tính các đơn vị từ vựng theo những quy tắc kết học. Có
câu trừu tượng, thuộc hệ thống. Câu hệ thống được hiện thực hóa bằng những câu cụ thể, có
nghĩa là câu được làm đầy bởi các đơn vị từ vựng. Phát ngôn là những câu cụ thể được dùng
trong những ngữ cảnh cụ thể, trong những cuộc giao tiếp cụ thể. Nó là biến thể của câu. Một
câu tồn tại trong vô số phát ngôn xuất hiện trong những ngữ cảnh khác nhau. Trên thực tế sử


dụng ngôn ngữ, chúng ta chỉ gặp các phát ngôn [15; tr.136-137]. Diễn ngôn là bộ phận hợp
thành sự kiện lời nói và tổ hợp các sự kiện lời nói4 hình thành một cuộc giao tiếp. Các chức
năng giao tiếp được thực hiện bằng các diễn ngôn và cụ thể hóa thành các thành phần diễn
ngơn. Diễn ngơn có hình thức và nội dung riêng, xuất hiện giữa tiền ngôn cảnh và hậu ngơn
cảnh (đối với diễn ngơn viết). Hình thức của nó được tạo bằng các yếu tố ngơn ngữ (các đơn
vị từ vựng, các quy tắc cú pháp…), các hành vi ngôn ngữ để chuyển các câu thành các phát
ngôn và những yếu tố kèm lời và phi lời (động tác, cử chỉ…) được dùng khi nói ra phát
ngơn, nói ra diễn ngơn. Nội dung của diễn ngơn có hai thành phần: thơng tin và liên cá
nhân5. Hai thành phần này thống nhất với nhau, thể hiện các đích khác nhau. Các đích này
là sự cụ thể hóa các chức năng giao tiếp thuộc diễn ngơn, cũng chính là sự cụ thể hóa ý định
của người tham gia đặt ra trong giao tiếp. Hiểu đúng, giải thuyết đúng một diễn ngơn khơng
có nghĩa là chỉ hiểu và giải thuyết đúng nội dung thông tin, nội dung miêu tả, mà nhất thiết

còn phải hiểu, và giải thuyết đúng nội dung liên cá nhân của diễn ngơn [15; tr.136-155].
Tồn bộ các nhân tố giao tiếp nêu trên, đặc biệt là ngữ cảnh, phải trở thành hiểu biết
chung của những người tham gia giao tiếp. Trong bất kỳ cuộc giao tiếp nào, các nhân vật
tham gia giao tiếp cũng “chỉ huy động bộ phận hiểu biết” cần yếu hữu quan “với hiện thựcđề tài của diễn ngôn”, bộ phận hiểu biết quan yếu này sẽ trở thành kiến thức nền đối với một
diễn ngơn hay một sự kiện lời nói nào đó có tính bộ phận của cuộc giao tiếp. Chẳng hạn để
hiểu thuyền và bến trong câu ca dao sau đây được quy chiếu về sự vật nào trong hiện thực đề tài của diễn ngôn:
Thuyền đi để bến đợi chờ
Tình đi nghĩa ở bao giờ quên nhau. (428)
người tiếp nhận phải có kiến thức nền là: 1/ câu ca dao này thuộc loại cổ, ra đời từ xa xưa;
2/ thời ấy, nói chung, có thể thuộc xã hội phong kiến; 3/ quan niệm sống của thời ấy là nam
nhi chí tại bốn phương, cịn nữ nhi thì tề gia nội trợ. Nhờ vào hậu văn của thuyền là đi, và
nhất là hậu văn của bến là đợi chờ, ta biết thuyền và bến ở đây được dùng để chỉ người.
Thêm vào đó ta cịn hiểu biết đặc điểm của thuyền là có khả năng di động, và thường được
di chuyển từ nơi này đến nơi khác, lênh đênh trên sóng nước, khắp bốn phương trời. Cịn
bến là vật ở n một chỗ, dù có bị dời địa điểm thì sự vật bến cũng có tính chất bất di bất
dịch. Đây cũng là những kiến thức nền. Dựa vào nó, ta thiết lập được mối liên tưởng giữa
hình ảnh thuyền với người con trai, cịn hình ảnh bến được liên tưởng với người con gái.
Trên cơ sở tạo lập được những hiểu biết chung với tác giả dân gian, chúng ta nắm bắt được


thông điệp mà họ đã gửi gắm vào câu ca dao này. Nên nhớ rằng có những kiến thức nền
mang tính trường tồn, có những kiến thức mang tính thời đoạn; có những hiểu biết mang
tính dân tộc, có những hiểu biết thuộc về một cộng đồng người ở khu vực hẹp nào đó.
Người tiếp nhận diễn ngơn hay văn bản, phải biết rõ điều đó. Vì vậy, để có thể hiểu tốt một
diễn ngôn hay văn bản, nhất là văn bản văn học, người tiếp nhận phải có vốn sống, vốn hiểu
biết sâu rộng, nhờ vào việc học tập trong sách vở và trong đời sống nói chung.
1.2.2. Chiếu vật và chỉ xuất
Việc nghiên cứu phương thức ẩn dụ cũng có liên quan đến các khái niệm chiếu vật và
chỉ xuất.
1.2.2.1. Khái niệm chiếu vật.

Như trên đã nói, một câu khi được làm đầy bởi các từ ngữ đã gắn với ngữ cảnh thì
nó sẽ trở thành phát ngơn. Quan hệ giữa phát ngôn (diễn ngôn) với các bộ phận tạo nên ngữ
cảnh của nó được gọi là sự chiếu vật (reference, référence, cũng được gọi là sự sở chỉ) [15;
tr.186]. Nhờ chiếu vật mà ngôn ngữ gắn với ngữ cảnh, từ đó ta có cơ sở đầu tiên để xác định
nghĩa của đơn vị ngôn ngữ đang thực hiện chức năng giao tiếp. Trong một phát ngơn thường
có một hay một số biểu thức chiếu vật. Mỗi biểu thức chiếu vật được dùng để chỉ một yếu tố
nào đó nằm trong bộ ba: đối ngơn, hồn cảnh giao tiếp và thoại trường hợp thành ngữ cảnh
của phát ngôn đó được nói tới trong phát ngơn đó…Các biểu thức chiếu vật là những cái
neo mà phát ngôn thả vào ngữ cảnh để móc nối nó với ngữ cảnh [15;tr.187]. Một biểu thức
chiếu vật có thể có một nghĩa chiếu vật, chẳng hạn những tên riêng… Song tuyệt đại đa số
các biểu thức chiếu vật như: tôi, chúng ta, cái nhà này… tùy theo ngữ cảnh mà sự vật được
quy chiếu sẽ thay đổi. Trường hợp này được gọi là chiếu vật linh hoạt hay không duy nhất.
Song chiếu vật không phải là việc tự thân của ngôn ngữ. Con người làm cái việc ấy.
George Yule khẳng định rằng Quy chiếu (reference) là hành động người nói / viết dùng các
hình thái ngơn ngữ giúp người nghe / đọc xác định (identify) được một sự vật nào đó [126;
tr.9]. Vậy có thể hiểu chiếu vật như là hành vi ngơn ngữ. Người nói là người thực hiện hành
vi chiếu vật. Song người nghe cũng khơng hồn tồn thụ động, vơ can. Rõ ràng rằng người
nói phải thực hiện hành vi chiếu vật là vì lợi ích của người nghe, người đọc, chứ khơng vì
người nói. Vì khi nói ra một lời nào đó, người nói đã biết rõ vật mà mình muốn người nghe
quy chiếu; họ đã biết rõ mình muốn nói gì. Có nghĩa là hành vi chiếu vật, giống như những
hành vi nói năng khác, cũng nằm trong ý định của người nói và người nói cũng có niềm tin
đối với người nghe. Người nghe chính là chỗ dựa để người nói xây dựng nên những niềm


tin về khả năng nhận biết được sự vật được quy chiếu qua biểu thức chiếu vật người nói sử
dụng. Tổng những niềm tin về khả năng nhận biết sự vật được quy chiếu là một bộ phận
trong những bộ phận tạo nên hình ảnh tinh thần - người nghe mà người nói tạo ra trong
giao tiếp [15; tr. 105]. Có một điều cần lưu ý rằng khơng phải bao giờ người nghe, người
đọc cũng nhận biết ngay được vật quy chiếu thông qua biểu thức quy chiếu. Việc nhận biết
ngay chiếu vật chỉ có thể xảy ra khi giao tiếp trực diện nhờ vào biểu thức chiếu vật cùng với

những yếu tố đi kèm ngôn ngữ và yếu tố phi ngơn ngữ. Nếu khơng có những điều kiện này
thì người nghe, người tiếp nhận phải suy ý từ biểu thức chiếu vật để nhận biết sự vật được
quy chiếu chính xác là sự vật nào. Song người nói nêu ra sự vật được quy chiếu không chỉ
để cho đối ngơn của mình nhận biết mình đang nói đến sự vật nào mà là cịn để nói cái gì đó
về nó, cũng là để báo cho đối ngơn của mình biết rằng mình sẽ nói cái gì về nó. Điều đó có
nghĩa là lập cho sự vật được quy chiếu một vị ngữ, đưa ra một “thuyết” nào đó về nó. Hành
vi chiếu vật và hành vi lập vị ngữ bao giờ cũng đi đôi với nhau trong việc tạo nên lõi mệnh
đề của các phát ngôn. Như vậy thao tác suy ý ở người nghe bao gồm suy ý để nhận biết ý
định chiếu vật, mục đích chiếu vật và sự vật được quy chiếu của người nói qua biểu thức
chiếu vật [15; tr.197].
Đóng vai trị nghĩa chiếu vật ngồi sự vật, cịn có cả đặc tính, quan hệ, sự kiện, hoạt
động. Đặc tính, quan hệ, sự kiện được chiếu vật khi người nói có ý định cho người nghe
(người đọc) biết đặc tính, quan hệ, sự kiện nào đang được nói tới. Tất nhiên sự vật thường
được chiếu vật hơn cả. Bởi vì chúng là nơi xuất phát các hoạt động, quá trình, cũng là nơi
quy tụ các đặc điểm, tính chất, trạng thái; và cịn vì khơng chiếu vật chúng thì sẽ khơng có
căn cứ để lập vị ngữ. Đến đây sẽ có một câu hỏi đặt ra là khi nào thì sự vật, đặc tính, quan
hệ, sự kiện đóng vai trị cái được chiếu vật, khi nào thì được dùng khơng ở chức năng chiếu
vật (cũng còn được gọi là những trường hợp được dùng trong chức năng thuộc ngữ
(attributive) [15; tr201]. Điều này có thể được phân biệt như sau: Sự vật (đặc điểm, quá
trình, sự kiện) khi được dùng trong chức năng chiếu vật, chúng được quan niệm như những
thực thể tự mình, có ranh giới và có những thuộc tính đặc thù. Sự vật khi được dùng trong
chức năng thuộc ngữ thì cũng là được dùng theo lối hoán dụ. Lúc này sự tồn tại của chúng
như những thực thể khơng cịn quan yếu nữa, chúng được nêu ra chỉ đại diện cho những
thuộc tính cần được nêu ra trong giao tiếp mà thơi. Trong chức năng chiếu vật, sự vật chính
là sự vật. Trong chức năng thuộc ngữ, sự vật trở thành tín hiệu cho những thuộc tính quan
yếu đối với một phát ngơn nào đó [15; tr.206].


Vậy hành vi chiếu vật được thực hiện trong điều kiện nào? Điều kiện tiên quyết để
thực hiện hành vi chiếu vật là xác lập thế giới khả hữu - hệ quy chiếu. Sự vật phải tồn tại

trong thế giới khả hữu mà người nói đã chọn làm hệ quy chiếu cho diễn ngơn của mình [15;
tr. 206-212]. Muốn trở thành hệ quy chiếu thì thế giới khả hữu trong đó định vị sự vật được
nói tới phải là thế giới đã biết đối với các đối ngôn, nhất là đối với đối ngơn nghe. Điều này
có nghĩa là thế giới ấy đã được nhận thức, được chấp nhận làm cơ sở cho những điều đã nói
tới trong diễn ngơn.
Như vậy, để thực hiện sự chiếu vật và để nhận biết hiệu quả của sự chiếu vật, người
nói và người nghe phải dựa vào những điều kiện nhất định, phải hành động chiếu vật và
hành động của họ bị chi phối bởi những quy tắc nhất định nào đó. Những điều kiện và
những quy tắc đó thuộc ngữ cảnh và thuộc ngữ năng giao tiếp (tức năng lực sử dụng ngôn
ngữ để thực hiện hoạt động giao tiếp) của người nói và người nghe.
1.2.2.2. Các phương thức chiếu vật
Phương thức chiếu vật là tổ chức các kiểu biểu thức chiếu vật nhờ chúng
mà người nói thực hiện sự chiếu vật và người nghe suy ra nghĩa chiếu vật

[15;

tr.213]. Các sách ngữ dụng học thường giới thiệu ba phương thức chiếu vật sau đây: tên
riêng; biểu thức miêu tả; chỉ xuất.
Tên riêng là tên đặt cho từng cá thể sự vật. Tên chung là tên của cả một loại sự vật và
cho tất cả các cá thể sự vật kể cả tính chất, trạng thái, vận động trong cùng một loại. Bất cứ
cá thể nào trong loại cũng được gọi bằng một tên chung (danh từ chung). Các loại danh từ
chung đảm nhiệm vai trò tạo ra các biểu thức miêu tả khác nhau, ít nhiều có liên quan đến
sự chiếu vật cá thể, sự chiếu vật một số và chiếu vật loại. Biểu thức cơ bản trong các biểu
thức miêu tả là biểu thức xác định. Biểu thức này chủ yếu là các cụm danh từ. Ở tiếng Việt,
sau danh từ chung chỉ dẫn chiếu vật của một biểu thức chiếu vật xác định thường có những
yếu tố miêu tả khác nhằm “tách sự vật ra khỏi các sự vật đồng loại khác” trong thế giới khả
hữu được chỉ dẫn bởi danh từ chung. Việc đưa yếu tố miêu tả nào vào biểu thức miêu tả
không chỉ tùy thuộc vào ý định miêu tả của người nói, mà cịn tùy thuộc vào khả năng dự
đốn của người nói, vào hiểu biết của đối ngơn đã có về sự vật, vào mức độ, phương diện
của sự vật, dự đoán là đối ngơn quan tâm, và cịn tùy thuộc vào mục đích, chiến lược giao

tiếp mà người nói theo đuổi. Một sự vật - nghĩa chiếu vật được xem là xác định (và biểu
thức tương ứng với nó là biểu thức xác định) khi nó đã được định vị trong thế giới khả hữu hệ quy chiếu và nó có tính duy nhất trong thế giới hệ quy chiếu đó. Tính duy nhất của sự vật


xác định khơng đồng nhất với tính cá thể. Có khi một cá thể là duy nhất, cũng có khi một
tập hợp cá thể là duy nhất. Tính đã biết và tính duy nhất của ý nghĩa xác định có quan hệ
chặt chẽ với nhau. Cho nên tính duy nhất của sự vật phải được hiểu là duy nhất được nhận
thức bởi các đối ngôn trong một cuộc giao tiếp nhất định. Cũng có trường hợp “duy nhất”
được hiểu theo quan hệ tồn bộ và bộ phận. Có những bộ phận hợp thành một cách tất yếu
một sự vật toàn bộ nào đó, chẳng hạn người thì nhất định phải có đầu, mình, chân, tay. Khi
nhắc tới bộ phận bất khả li duy nhất của một sự vật - hệ chiếu vật nào đó, bộ phận đó
thường cũng được chiếu vật bởi biểu thức miêu tả xác định. Còn khi biểu thức khơng xác
định được dùng tức là người nói muốn nhấn mạnh đến tính chất khơng phải duy nhất của bộ
phận đó đối với sự vật tồn bộ [15; tr.221-239].
Chỉ xuất (deictics hay indexicals) là thuật ngữ trong tiếng Việt dùng để dịch thuật, ngữ
ngôn ngữ học quốc tế deictics bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là chỉ trỏ. Trong giao
tiếp, ta có thể dùng tay để chỉ vào sự vật mà mình muốn nói đến để đối ngơn có thể nhận
biết chính xác. Việc dùng tay để chỉ vào sự vật được gọi là sự trực chỉ. Trực chỉ có rất nhiều
hạn chế, khơng phải lúc nào cũng có thể chỉ trỏ được. Hơn nữa, tay không phải là yếu tố
ngôn ngữ, cho nên trực chỉ không đảm nhiệm được chức năng chiếu vật của ngôn ngữ. Từ
đó ta thấy rằng trong ngơn ngữ chỉ có phương thức chỉ xuất, chứ khơng có phương thức trực
chỉ. Chỉ xuất có nghĩa là dùng những phương tiện ngơn ngữ sẵn có để tách vật được quy
chiếu khỏi các cá thể trong cùng loại. Đối với phương thức chỉ xuất, trực chỉ chỉ là phương
tiện kèm ngôn ngữ trong giao tiếp mặt đối mặt. Chỉ xuất được thực hiện bằng con đường
định vị: định vị xưng hô, định vị không gian và định vị thời gian. Định vị là chỉ rõ vị trí
khơng gian, thời gian của sự vật, sự kiện, hiện tượng được nói tới. Định vị khơng gian và
thời gian bao giờ cũng phải có tọa độ mốc, làm chuẩn. Đó chính là khơng gian, thời gian mà
trong đó cuộc thoại đang diễn ra. Sự định vị lấy không gian, thời gian hội thoại làm mốc là
định vị chủ quan. Ngồi ra có định vị theo nhận thức, định vị khách quan [14; tr.17-18].
Thực ra hai loại định vị này vẫn lấy định vị chủ quan làm cơ sở. Thêm vào đó cịn có định vị

trong ngơn bản. Bằng các phép thế đại từ, chúng ta có thể định vị sự vật, sự kiện theo ngôn
bản. Loại định vị này có hai dạng: hồi chỉ và khứ chỉ. Dạng hồi chỉ là định vị theo sự vật, sự
việc đã nói trong tiền ngơn bản. Dạng khứ chỉ là định vị theo những ngôn bản tiếp theo
ngôn bản đang xem xét [14; tr.19].
1.2.3. Ý nghĩa tường minh và ý nghĩa hàm ẩn [11; tr.359-414]


Như trên đã nói khơng phải lúc nào người nghe, người đọc cũng nhận ra ngay chiếu
vật. Có lúc họ buộc phải dùng thao tác suy ý từ những biểu thức chiếu vật mới nhận biết
được. Bởi vì một phát ngơn, ngồi cái ý nghĩa được nói ra trực tiếp nhờ vào các yếu tố ngơn
ngữ, cịn có rất nhiều ý nghĩa khác mà chúng ta phải thực hiện các thao tác suy ý khi dựa
vào ngữ cảnh, ngôn cảnh, vào các quy tắc điều khiển hành vi ngôn ngữ, điều khiển lập
luận… mới nắm bắt được chúng. Chúng ta gọi ý nghĩa trực tiếp do các yếu tố ngôn ngữ đem
lại là ý nghĩa tường minh (hiển ngơn). Cịn các ý nghĩa nhờ vào suy ý mới nắm bắt được sẽ
được gọi là ý nghĩa hàm ẩn [11; tr.359].
Có ý nghĩa hàm ẩn nghĩa học và ý nghĩa hàm ẩn dụng học, nếu xét ở góc độ bản chất
của chúng. Bởi vì ý nghĩa của một phát ngơn gồm nội dung mệnh đề (nội dung miêu tả, nội
dung sự vật) và các nội dung thuộc ngữ dụng học. Ý nghĩa hàm ẩn nghĩa học là ý nghĩa hàm
ẩn có quan hệ với nội dung mệnh đề đó. Nó chỉ có quan hệ với các nhân tố ngơn ngữ biểu
thị nội dung mệnh đề. Ý nghĩa hàm ẩn ngữ dụng học là những ý nghĩa hàm ẩn có quan hệ
với các quy tắc ngữ dụng học như quy tắc chiếu vật, quy tắc lập luận, các hành vi ngôn ngữ,
các quy tắc hội thoại…[11; tr. 362].
Ý nghĩa hàm ẩn nghĩa học và ý nghĩa hàm ẩn dụng học còn được phân thành hai loại:
tiền giả định (presuppostion - kí hiệu pp) và các hàm ngơn (implicitation – kí hiệu imp). Và
như vậy, chúng ta cũng sẽ có các loại: tiền giả định nghĩa học và tiền giả định dụng học;
hàm ngôn nghĩa học và hàm ngôn dụng học.
Theo Đỗ Hữu Châu, hàm ngơn ngữ nghĩa có cơ sở là các lẽ thường. Cho nên có thể gọi
hàm ngơn ngữ nghĩa là hàm ngơn lập luận (hay cịn gọi là hàm ngôn mệnh đề). Hàm ngôn
ngữ dụng là những hàm ngôn có được do sự vi phạm các quy tắc ngữ dụng (bao gồm quy
tắc chỉ xuất, chiếu vật, quy tắc lập luận, quy tắc hội thoại, mà quan trọng nhất là phương

châm và các nguyên tắc cộng tác hội thoại của Grice6).
Tiền giả định là những hiểu biết cần thiết được xem là bất tất phải bàn cãi, bất tất phải
đặt lại thành vấn đề, đã được các nhân vật giao tiếp mặc nhiên thừa nhận, là những hiểu biết
chung giữa người nói và người nghe, dựa vào chúng người nói tạo nên ý nghĩa tường minh
trong phát ngơn của mình. Hàm ngơn là tất cả những nội dung có thể suy ra từ một phát
ngơn cụ thể nào đó; suy ra từ ý nghĩa tường minh cùng với tiền giả định của nó. Nếu khơng
có ý nghĩa tường minh và tiền giả định của nó, thì khơng thể suy ra được hàm ngơn thích
hợp. Cơ sở để suy ra hàm ngôn từ ý nghĩa tường minh là các lẽ thường; cũng có thể là các
quan hệ lơgic.


Trong mối quan hệ với hình thức thì tiền giả định phải có quan hệ với các yếu tố ngơn
ngữ cấu thành phát ngơn, phải có những dấu hiệu đánh dấu nó. Trái lại, hàm ngơn khơng tất
yếu phải được đánh dấu bằng các dấu hiệu ngôn ngữ. Trong một văn bản, những điều đã nói
ở tiền ngơn được xem là tiền giả định cho những phát ngôn sau. Xét về hiệu quả thơng tin
thì nội dung thơng tin mà tiền giả định cung cấp đã là quan yếu ở tiền ngơn, cho nên nó
khơng là cái mới đối với phát ngơn đang xem xét, do đó có lượng tin thấp. Song cần phải
phân biệt khái niệm hiệu quả thông tin và lượng tin. Nếu xét trong một phát ngôn thì tiền giả
định khơng có hiệu quả thơng tin, nhưng nó vẫn có lượng tin. Tuy lượng tin này khơng quan
yếu đối với hiệu quả thông tin của phát ngôn đang xem xét, nhưng nó vẫn rất cần thiết để lí
giải hiệu quả thơng tin của phát ngơn. Mặt khác, cũng có trường hợp tiền giả định có hiệu
quả thơng tin. Đó là trường hợp ý nghĩa hàm ẩn khơng tự nhiên rơi vào tiền giả định. Lúc
bấy giờ tiền giả định lại có hiệu quả thơng tin cao hơn là ý nghĩa tường minh và hàm ngơn.
Song, nói chung, trong giao tiếp ý nghĩa tường minh và hàm ngôn có tính năng động hội
thoại cao hơn tiền giả định.
Trừ những tiền giả định có vai trị ý nghĩa hàm ẩn khơng tự nhiên, các tiền giả định
thơng thường có những đặc điểm sau: 1/ Nó có tính chất kháng phủ định. Khi phát ngôn
chuyển từ dạng khẳng định sang phủ định thì tiền giả định vẫn được giữ nguyên; 2/ Nó có
tính chất bất biến khi phát ngơn thay đổi về hành vi ngơn ngữ tạo ra nó; 3/ Nó có tính chất
khơng thể khử bỏ. Nó khơng thể nào bị loại bỏ ngay trong cùng một phát ngôn bởi cùng một

người nói ra. Sở dĩ như vậy vì nó là điều “bất tất phải bàn cãi”, “bất tất phải đặt vấn đề xem
xét lại”. Trong lúc đó hàm ngôn không giữ nguyên khi phát ngôn được chuyển từ khẳng
định sang phủ định. Hàm ngôn cũng không giữ nguyên khi hành vi ngôn ngữ thay đổi với ý
nghĩa tường minh. Cuối cùng, hàm ngơn có thể bị khử một cách dễ dàng nhờ kết tử đối
nghịch.
Thực ra sự phân biệt tiền giả định và hàm ngôn như đã nêu, trong thực tế, chỉ áp dụng
được cho các tiền giả định và hàm ngôn nghĩa học, không áp dụng cho các ý nghĩa hàm ẩn
ngữ dụng học [11; tr. 377].
Có các loại tiền giả định như sau: tiền giả định bách khoa và tiền giả định ngôn ngữ; tiền
giả định ngữ dụng và tiền giả định nghĩa học (tiền giả định tồn tại, tiền giả định đề tài, tiền
giả định điểm nhấn); tiền giả định từ vựng (tiền giả định thực từ, tiền giả định hư từ) và tiền
giả định cú pháp7.


Ở trên chúng tơi có nhắc đến khái niệm ý nghĩa hàm ẩn - tiền giả định và hàm ngôn khơng tự nhiên. Nó chính là đối tượng chính của ngữ dụng học. Nó được hiểu là các ý nghĩa
hàm ẩn nằm trong ý định của người nói và cái ý định đó phải được người nghe nhận biết.
Grice là người xây dựng những cơ sở đầu tiên quan trọng cho việc nghiên cứu các ý nghĩa
hàm ẩn hiểu theo cách nói trên.
1.3. Những vấn đề về ngữ nghĩa học
1.3.1. Ý nghĩa của từ
Nghĩa của từ (cũng như của các đơn vị ngôn ngữ khác) là quan hệ của từ với cái gì đó
nằm ngồi bản thân nó. Có nghĩa là hiểu nghĩa của một đơn vị ngôn ngữ nào đó là hiểu đơn
vị ấy có quan hệ với cái gì, nói cách khác là nó biểu thị cái gì. Cần phân biệt nghĩa của từ
với sự hiểu biết, nhận thức về nghĩa đó. Bản thân nghĩa của từ khơng xuất hiện và tồn tại
trong nhận thức của con người. Nghĩa của từ cũng như những đơn vị ngôn ngữ khác tồn tại
thực sự khách quan trong lời nói. Cịn trong nhận thức của con người chỉ có sự phản ánh, sự
hiểu biết những nghĩa đó mà thơi.
Từ có quan hệ rất đa dạng với các hiện tượng khác, do đó nghĩa của từ là một hiện tượng
phức tạp, bao gồm một số thành tố đơn giản hơn như: nghĩa sở chỉ, nghĩa sở biểu, nghĩa sở
dụng, nghĩa kết cấu8 [31; tr.78-81 ].

1.3.2. Sự biến đổi ý nghĩa của từ
Cơ cấu ý nghĩa của từ không phải là bất biến; nó có bị thay đổi. Nguyên nhân dẫn đến sự
thay đổi này rất đa dạng, phức tạp, tùy thuộc từng trường hợp. Ngun nhân ngơn ngữ học
thuần túy cũng có, tuy hiếm. Qua quá trình sử dụng lâu dài trong lịch sử, nhiều yếu tố mới
của ngôn ngữ (âm vị, từ, kiểu câu…) được bổ sung, đồng thời yếu tố cũ cũng bị rơi rụng
dần. Do đó, mối quan hệ giữa các từ trong ngôn ngữ, cùng với kết cấu chung của nó cũng bị
thay đổi. Điều này có thể dẫn đến hiện tượng từ có thêm nghĩa mới. Mặt khác, nên nhớ
rằng, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp ưu việt nhất của con người trong xã hội. Như vậy,
có nghĩa là mơi trường ngơn ngữ diễn biến là mơi trường xã hội. Do đó những ngun nhân
mang tính xã hội chiếm một vai trò rất quan trọng trong việc biến đổi ý nghĩa của từ. Trước
tiên, chúng ta thấy, khi một hiện tượng mới trong tự nhiên xuất hiện, một sản phẩm mới ra
đời, con người có nhu cầu đặt tên gọi cho những cái mới ấy. Một trong ba con đường đáp
ứng được nhu cầu ấy là sự biến đổi ý nghĩa của từ. Đồng thời với sự phát triển của xã hội,
trình độ nhận thức của con người cũng ngày một nâng cao. Người ta có thể nhận thức sâu
sắc hơn về sự vật xung quanh và phát hiện được những thuộc tính nằm sâu trong bản chất


của sự vật mà trước đây họ chưa thể nhận ra. Do vậy, ý nghĩa của từ cũng bị thay đổi theo
sự nhận thức của con người. Bởi vì từ cũng có chức năng giao tiếp, tuy rằng chỉ là gián tiếp.
Người ta phải sử dụng từ để tạo nên những thành phần câu. Còn câu là đơn vị trực tiếp thực
hiện chức năng giao tiếp, nó diễn đạt được những nhận thức của con người. Nhờ thế con
người có thể truyền cho nhau những hiểu biết của mình về thế giới xung quanh.
Liên quan đến nguyên nhân xã hội của sự diễn biến ngôn ngữ là hiện tượng thay đổi
môi trường sử dụng của các từ. Hiện tượng này cũng làm cho nghĩa của các từ thay đổi. Các
từ có thể chuyển từ mơi trường rộng sang mơi trường hẹp (đó là hiện tượng chun mơn
hóa); hoặc ngược lại.
Yếu tố tâm lí xã hội cũng ảnh hưởng khơng ít đến việc thay đổi môi trường sử dụng của
các từ. Xã hội phát triển mạnh về phương diện nào thì những sự vật, khái niệm ở phương
diện đó gây ấn tượng mạnh mẽ vào tâm lí con người, dẫn đến tình trạng các từ biểu thị
những sự vật, khái niệm ấy chuyển nghĩa để biểu thị những sự vật, khái niệm ấy trong

phương diện khác [31; tr 83]. Ví dụ từ kế hoạch trong tiếng Việt vốn là một thuật ngữ kinh
tế, nhưng nay nó đã được sử dụng rộng rãi trong ngơn ngữ tồn dân. Cũng do yếu tố tâm lí,
một từ chuyển nghĩa đã tác động đến hàng loạt từ khác gần nghĩa với nó. Chẳng hạn, từ ghê
khi được dùng để chỉ mức độ của tính chất (đẹp ghê), thì lập tức các từ gớm, khiếp, kinh
khủng… cũng có nghĩa tương tự. Những từ như vậy gọi là trung tâm bành trướng ngữ
nghĩa. Nắm được những trung tâm bành trướng như thế ta có thể nắm được tâm tư, tình
cảm và lí trí chung của thời đại [31; tr 84].
Ít nhiều liên quan đến yếu tố tâm lí xã hội là các hiện tượng kiêng húy, tránh gọi tên trực
tiếp của đối tượng, là hiện tượng muốn giữ bí mật trong một nhóm người nào đó. Những
hiện tượng này cũng đã tạo điều kiện cho sự biến đổi ý nghĩa của từ. Ở một góc độ khác,
cũng liên quan đến yếu tố tâm lí xã hội là những hiện tượng thuộc về sự cố gắng của người
dùng muốn làm cho lời nói của mình thích hợp hơn với các chức năng mà nó phải đảm
nhiệm, hoặc muốn diễn đạt trang nhã, lịch sự, tránh dùng các từ gây ấn tượng về sự chết
chóc, đau buồn, bệnh tật hay thơ tục… hoặc muốn tránh bộc lộ ý mình một cách trực diện.
Tất cả những hiện tượng này cũng tác động nhiều đến việc biến đổi ý nghĩa của từ.
Các nguyên nhân nêu trên là động lực làm cho các từ có thể biến đổi ý nghĩa. Cịn bản
thân quá trình phát triển thêm ý nghĩa của từ lại gắn liền với hiện tượng chuyển nghĩa của
từ. Các từ có thể biến đổi ý nghĩa được hay khơng lại là do mối quan hệ giữa âm thanh và ý
nghĩa của từ quy định. Nó là cơ sở thực sự của sự biến đổi ý nghĩa của từ. Mối quan hệ này


là khơng tùy tiện, nó có tính quy ước một cách biện chứng lịch sử, chứ khơng phải hồn
tồn cố định hay thuần túy võ đoán [32; tr.160-161].
Những phương thức chủ yếu trong sự biến đổi ý nghĩa của từ là mở rộng và thu hẹp ý
nghĩa, chuyển đổi tên gọi. Chuyển đổi tên gọi là kết quả của những q trình liên tưởng
khác nhau, đó là ẩn dụ và hoán dụ.
1.3.3. Phương thức ẩn dụ
1.3.3.1. Khái niệm ẩn dụ
Ẩn dụ là một phương thức chuyển tên gọi dựa trên sự liên tưởng so sánh những mặt, những thuộc tính
… giống nhau giữa các đối tượng được gọi tên [18; tr.176].

Xét về mặt chức năng cần phân biệt ẩn dụ từ vựng học và ẩn dụ tu từ học.
1.3.3.2. Ẩn dụ từ vựng học
Ẩn dụ từ vựng học là đối tượng của từ vựng học. Đó là sự chuyển nghĩa của từ được
thực hiện theo những liên tưởng so sánh tương đồng (về hình thức, thuộc tính, chức năng…)
giữa hai sự vật đã thành của chung cả cộng đồng, mang tính bắt buộc, thực sự tạo nên nghĩa
mới của từ. Những nghĩa mới này được ghi lại trong từ điển. Chẳng hạn từ đầu trong những
ngữ cảnh: Đầu, mình, tứ chi là những bộ phận của cơ thể người; Đầu trâu mặt ngựa được
dùng theo nghĩa gốc, nghĩa trực tiếp. Cịn trong các ngữ cảnh sau: đầu núi; đầu sóng ngọn
gió từ đầu được dùng theo nghĩa chuyển bằng phương thức ẩn dụ và là ẩn dụ từ vựng. Sự
chuyển nghĩa của từ thuộc phạm vi từ vựng học có trường hợp đi xa đến mức có thể vượt
ranh giới về nghĩa của một từ. Kết quả của những trường hợp như vậy dẫn đến sự xuất hiện
của những từ đồng âm.
Tùy theo căn tố từ nguyên làm cơ sở cho ẩn dụ được người nói và người nghe lĩnh hội
hay khơng mà ta có thể phân ra ẩn dụ còn sống và ẩn dụ đã bị chết (kể cả hốn dụ cũng
vậy). Ẩn dụ cịn sống là những ẩn dụ mà với nó, người nói và người nghe có thể nhận thức
rõ ràng ý nghĩa gốc và mối quan hệ bên trong giữa nghĩa trực tiếp và nghĩa chuyển tiếp (như
cách dùng của từ đầu trong các ngữ cảnh đầu núi, đầu sóng). Ta gọi là ẩn dụ bị chết đối với
những trường hợp khi mối quan hệ giữa nghĩa trực tiếp và nghĩa chuyển tiếp bị mờ đi hoặc
mất hẳn. Ví dụ từ đểu vốn chỉ người đi gánh thuê. Trên cơ sở nghĩa gốc này, nó đã phát
triển thành nghĩa “hèn mạt, xỏ xiên”. Nghĩa gốc ngày nay khơng cịn được dùng nữa. Do đó
người dùng cũng không thể nhận ra được mối liên hệ giữa hai loại ý nghĩa này [32; tr.168].
Cũng xét về chức năng, ẩn dụ từ vựng học có thể tạm chia ra hai loại: ẩn dụ định danh và
ẩn dụ nhận thức9. Đinh Trọng Lạc phân biệt hai loại ẩn dụ từ vựng này như sau:


- Ẩn dụ định danh là một thủ pháp có tính chất thuần túy kỹ thuật dùng để cung cấp
những tên gọi mới bằng cách dùng vốn từ vựng cũ, ví dụ: đầu làng, chân trời, tay ghế. Đây
là nguồn tạo nên những tên gọi chứ không phải là loại ẩn dụ nhằm phát hiện những sắc thái
ý nghĩa. Nó không tác động vào trực giác để gợi mở mà tác động vào cách nhìn để chỉ xuất,
khơng đem lại cho người đọc những cảm xúc về vẻ đẹp của ngơn từ mang tính biểu cảm,

khơng gợi sự liên tưởng phong phú [57].
Nói cách khác, những ẩn dụ từ vựng học khơng hoặc rất ít có khả năng gợi hình, tạo hình
hoặc gợi cảm. Bởi trải qua quá trình được sử dụng quá lâu dài của các từ ẩn dụ này, mối liên
tưởng giữa hai sự vật được so sánh trở nên quá mờ nhạt, hình ảnh được so sánh trở nên sáo
mòn.
- Ẩn dụ nhận thức là loại ẩn dụ nảy sinh do kết quả của việc làm biến chuyển khả năng
kết hợp của những từ chỉ dấu hiệu khi làm thay đổi ý nghĩa của chúng từ cụ thể đến trừu
tượng. Ví dụ: những từ ngữ chỉ đặc trưng như giá lạnh, mơn mởn, hiền hoà, vằng vặc vốn
có ý nghĩa cụ thể và thường có khả năng kết hợp với những từ ngữ chỉ sự vật, hiện tượng
như: băng tuyết, cây lá, con người, vầng trăng (băng tuyết giá lạnh, cây lá mơn mởn, con
người hiền hoà, vầng trăng vằng vặc), nay được ẩn dụ hoá, được dùng với ý nghĩa trừu
tượng và có khả năng kết hợp cả với những từ ngữ như tâm hồn, tuổi xn, dịng sơng và cả
những động từ cũng có thể ẩn dụ hố theo cách này, ví dụ: tâm hồn bay bổng, cuộc sống
lênh đênh… Loại ẩn dụ từ vựng này là nguồn tạo nên hiện tượng đa nghĩa của từ [57].
Những ẩn dụ từ vựng kiểu này cịn có khả năng gợi hình, gợi cảm, có tính hình tượng.
Nó tạo nên cách dùng mới của từ và những cách dùng như vậy đều được từ điển ghi lại.
1.3.3.3. Ẩn dụ tu từ học
Ẩn dụ tu từ học là đối tượng nghiên cứu của mơn phong cách học. Đó cũng là sự
chuyển nghĩa của từ theo phương thức ẩn dụ, nhưng lại dựa trên những kết quả liên tưởng
so sánh tương đồng có tính chất cá nhân (hoặc tập thể cá nhân như: tác giả dân gian sáng tác
ca dao, các tác giả trong một trào lưu văn học), mang tính lâm thời, tức trong một văn cảnh
nhất định, trong một thời điểm giao tiếp cụ thể (hoặc cũng có thể trong một thời đoạn nhất
định, ví dụ những từ thu, chiều có giá trị ẩn dụ về sự chia ly, có khả năng gợi buồn chỉ trong
giai đoạn văn học từ 1930 đến trước cách mạng tháng Tám 1945 và chỉ thuộc về dòng văn
học lãng mạn). Ẩn dụ tu từ học không tạo ra nghĩa mới của từ. Nó chỉ là những trường hợp
sử dụng có hình ảnh, mang tính hình tượng cao, giúp cho tác giả diễn đạt chính xác các
khuất chiết của tư tưởng và các cung bậc của tình cảm. Có thể nói nó góp phần nâng cao


nhận thức của con người và gợi ra nhiều cảm xúc mới lạ. Nó tác động vào trực giác của

người nhận, tác động mạnh mẽ đến cảm xúc của người đọc (người nghe), gợi sự liên tưởng
phong phú, sâu sắc và đem lại khả năng cảm thụ sáng tạo. Nó giúp người đọc tưởng tượng
ra thế giới xung quanh đầy màu sắc thông qua ngôn ngữ nghệ thuật. Chẳng hạn đọc câu ca
dao sau:
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
Đan sàng thiếp cũng xin vâng,
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?
ta thấy tác giả dân gian khơng nói thẳng ý của mình, mà dùng các hình ảnh: “trăng thanh”,
“tre non”, “đan sàng” buộc người tiếp nhận phải liên tưởng, so sánh để lý giải. Những từ
ngữ biểu thị những hình ảnh cụ thể ấy là cách dùng rất riêng, chỉ của tác giả bài ca dao này,
những liên tưởng giữa hình ảnh với ẩn ý cũng rất riêng của tác giả, và cũng rất cụ thể trong
văn cảnh của bài ca dao đang xét. Người tiếp nhận phải huy động tất cả yếu tố của văn cảnh
để phát hiện ra những hiểu biết chung giữa tác giả với mình, tức thiết lập được những kiến
thức nền, và dựa vào nó mới có thể lí giải được cái thơng điệp mà chàng muốn gửi vào nội
dung lời hỏi, mới hiểu được đề tài của cuộc giao tiếp này là tình u – hơn nhân..
Nhưng những cách sử dụng như vậy không được từ điển ghi lại. Nó chỉ tạo ra phong
cách cá nhân, là sự sáng tạo của người viết và vì thế hiệu quả nghệ thuật mà nó mang lại rất
cao.
Theo Cù Đình Tú ẩn dụ tu từ được xây dựng từ cơ sở những tương đồng về màu sắc, về
tính chất, về trạng thái, về hành động, về cơ cấu [122; 280 - 281].
Ẩn dụ tu từ được tạo nên bởi ba nhân tố sau: văn cảnh; tính hợp lí; thói quen thẩm mỹ.
(1) Như ở phần Nhân tố giao tiếp đã nêu, văn cảnh là toàn bộ những câu ở trước và ở sau
một yếu tố ngôn ngữ cần xem xét. Nó soi sáng nghĩa cho yếu tố đó. Vì ẩn dụ không nằm
trong cơ cấu nghĩa của từ mà là kết quả của hiện tượng chuyển nghĩa mang tính lâm thời,
cho nên ý nghĩa mới được tạo ra từ ẩn dụ chỉ có giá trị trong một văn cảnh nhất định. Nếu
tách khỏi văn cảnh thì nó sẽ khơng cịn tồn tại, câu chứa hình ảnh ẩn dụ trở nên vô nghĩa.
Chẳng hạn những câu thơ sau đây trong bài Thuyền và biển của Xuân Quỳnh:
Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ

Những ngày không gặp nhau


Lòng thuyền đau rạn vỡ
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ cịn sóng gió.
nếu tách rời khỏi văn cảnh thì các câu (2), (3) và (4) là các câu vô nghĩa. Còn nếu đặt khổ
thơ này trong mối quan hệ với những khổ thơ trước và sau nó thì hai câu trên từ chỗ trừu
tượng đã chuyển thành câu có thể tri giác được.
Cùng một từ ngữ nhưng nếu được chuyển nghĩa theo lối ẩn dụ trong những văn cảnh
khác nhau thì chúng lại mang những ý nghĩa khác nhau. Chẳng hạn kết hợp từ chim khôn
trong các câu ca dao sau khi thì chỉ người khơn nói chung, kể cả trai, cả gái:
- Chim khơn đậu nóc nhà quan,
Trai khơn tìm vợ, gái khơn tìm chồng.
- Chim khơn tránh lưới tránh đị,
Người khơn tránh chốn xơ bồ mới khơn.
khi thì chỉ riêng người con gái khôn ngoan:
- Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,
Người khơn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
- Chim khôn lựa nhánh lựa cành,
Gái khôn lựa chốn trai lành gửi thân.
Bản thân hình ảnh làm cơ sở cho sự liên tưởng ẩn dụ nếu tồn tại độc lập (đứng riêng rẽ
một mình) thì người đọc khơng thể hiểu được ẩn ý bên trong. Muốn hiểu người đọc phải xét
mối quan hệ giữa hình ảnh đó với các hình ảnh khác. Chẳng hạn, nếu xét hình ảnh hoa thơm
chỉ trong câu ca dao sau: Hoa thơm bán một đồng mười chắc khơng ít người đọc sẽ nghĩ
rằng đề tài của nó là nói về việc mua bán hoa có hương. Nhưng nếu đọc tiếp câu sau với
hình ảnh đối lập là hoa tàn nhị rửa nhưng lại với giá trị quá đối lập là đôi lạng vàng (Hoa
tàn nhị rửa bán đơi lạng vàng) thì ta sẽ hiểu được cái thâm ý của tác giả gửi gắm vào câu ca
dao (đề cao giá trị của những con người bị coi là thứ bị vứt bỏ như hoa tàn nhị rửa).
(2) Chúng ta chỉ hiểu được nghĩa của ẩn dụ khi tìm ra nét tương đồng giữa hai sự vật

được dùng để so sánh. Nếu nét tương đồng này không hợp lý thì người đọc khơng thể liên
tưởng đến sự vật được giấu đi trong văn cảnh. Sự hợp lí ở đây được tính cả thời gian, địa
điểm, mục đích phát ngôn, thực tế tồn tại của các hiện tượng, sự vật. Chẳng hạn, khi dùng
các hình ảnh hoa, (quả) đào thì người ta thường nghĩ ngay đến người con gái. Bởi đặc điểm
của hoa, của đào có những nét tương đồng với vẻ đẹp của họ. Hình ảnh thuyền thường được


×