Tải bản đầy đủ (.pdf) (269 trang)

Ngôn ngữ nghệ thuật truyện kiều từ góc nhìn văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 269 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
--------------------------

VÕ MINH HẢI

NGƠN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU
TỪ GĨC NHÌN VĂN HỐ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
--------------------------

VÕ MINH HẢI

NGƠN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU
TỪ GĨC NHÌN VĂN HỐ
Chun ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số:
62 22 01 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. Lê Thu Yến



Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai cơng bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 05 năm 2015
Tác giả luận án

Võ Minh Hải


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................ 01
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................... 02
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 14
4. Mục tiêu nghiên cứu.............................................................................................. 16
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................ 17
6. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................... 17
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án ........................................................... 19
8. Cấu trúc của luận án .............................................................................................. 20

Chương 1. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGƠN NGỮ VÀ VĂN HỐ NHÌN TỪ
QUAN NIỆM THẨM MỸ TRUNG ĐẠI .............................................................. 22
1.1. Ngôn ngữ với văn chương và văn hố ............................................................ 22
1.1.1. Ngơn ngữ và văn chương từ góc nhìn văn hố.......................................... 22
1.1.2. Sự tác động của ngơn ngữ đối với văn hố ............................................... 26
1.1.3. Ngơn ngữ với vấn đề bảo tồn, xây dựng và phát triển văn hố ................ 31
1.2. Ngữ liệu văn hố trong ngơn ngữ nghệ thuật truyện Nôm bác học .................... 34
1.2.1. Khái niệm ngữ liệu văn hố trong ngơn ngữ nghệ thuật truyện Nơm bác
học ............................................................................................................................. 34
1.2.2. Hệ thống ngữ liệu văn hố trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm bác
học ............................................................................................................................. 37
1.2.3. Giá trị thẩm mỹ của ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm văn chương cổ điển
Việt Nam nhìn từ góc độ văn hoá .............................................................................. 41


1.3. Ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm - Tấm gương phản chiếu văn hố ........ 46
1.3.1. Ngơn ngữ nghệ thuật truyện Nơm, một hình thức giao tiếp đặc thù của văn
học cổ điển Việt Nam ................................................................................................ 46
1.3.2. Một số đặc trưng cơ bản của ngữ liệu văn hố trong ngơn ngữ nghệ thuật
truyện Nôm ................................................................................................................ 49
1.4. Quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán và Truyện Kiều ..... 52
1.4.1. Cơ sở hình thành quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du ............................. 52
1.4.2. Sự thể hiện quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán và
Truyện Kiều .............................................................................................................. 57
Chương 2. NGỮ LIỆU VĂN HỐ TRONG NGƠN NGỮ NGHỆ THUẬT
TRUYỆN KIỀU ........................................................................................................ 68
2.1. Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hoá Hán, bác học và văn hoá Việt, bình dân
đối với hệ thống ngữ liệu trong ngơn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều.......................... 68
2.1.1. Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hoá Hán, bác học đối với hệ thống ngữ
liệu trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều ........................................................... 68

2.1.2. Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hoá Việt, bình dân đối với hệ thống ngữ
liệu trong ngơn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều ........................................................... 71
2.1.3. Đặc trưng thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu văn hố trong ngơn ngữ nghệ
thuật Truyện Kiều ..................................................................................................... 76
2.2. Hệ thống ngữ liệu văn hố bác học và bình dân trong ngơn ngữ nghệ thuật
Truyện Kiều .............................................................................................................. 91
2.2.1. Khảo sát và nhận xét về ngữ liệu văn hoá bác học ................................... 91
2.2.2. Khảo sát và nhận xét về ngữ liệu văn hố bình dân .................................. 96
2.3. Nghệ thuật sử dụng ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ Truyện Kiều .......................... 102
2.3.1. Hệ thống ngữ liệu văn hoá được chuyển dẫn tự nhiên, biến hoá và thích
hợp với nội dung ngữ cảnh...................................................................................... 102
2.3.2. Hệ thống ngữ liệu văn hoá được vận dụng và chuyển dẫn một cách sáng
tạo ............................................................................................................................ 112
2.3.3. Sự kết hợp hài hoà, chuyển dịch hợp lý của hai hệ thống ngữ liệu bác học
và bình dân trong ngơn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều............................................. 122


Chương 3. HIỆU QUẢ THẨM MỸ CỦA HỆ THỐNG NGỮ LIỆU VĂN HỐ
TRONG NGƠN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU ................................... 133
3.1. Ngữ liệu văn hố với sự thể hiện tính triết luận và bức tranh thời đại qua
ngôn ngữ tác giả .................................................................................................... 133
3.1.1. Tính triết luận và trầm tích văn hố qua ngơn ngữ trữ tình.................... 133
3.1.2. Bức tranh văn hố thời đại qua ngơn ngữ tự sự...................................... 142
3.2. Ngữ liệu văn hoá với sự thể hiện chiều sâu triết mỹ qua ngôn ngữ nhân vật trong
Truyện Kiều .............................................................................................................. 151
3.2.1. Tính đa thanh, đa giọng điệu qua phong cách Khổng tước văn và Hải hạc
văn ........................................................................................................................... 151
3.2.2. Phong cách Khổng tước văn trong ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều ..... 154
3.2.3. Phong cách Hải hạc văn trong ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều ........... 161
3.3. Âm hưởng của ngữ liệu văn hoá trong Truyện Kiều đến đời sống xã hội,

văn chương Việt Nam ........................................................................................... 167
3.3.1. Ảnh hưởng của ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều đến đời sống văn hoá,
xã hội Việt Nam ..................................................................................................... ..167
3.3.2. Sự lan toả và vang vọng của ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều đến đời
sống văn chương Việt Nam ..................................................................................... 177
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 185
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ.................................................... 189
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH...................................................................... 190
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHQG:
ĐHSP :
HN:
KHXH & NV:
SG:
TCVH:
TCNCVH:
TP. HCM :
Tr.:

Đại học Quốc gia
Đại học Sư phạm
Hà Nội
Khoa học Xã hội và Nhân văn
Sài Gịn
Tạp chí Văn học
Tạp chí Nghiên cứu văn học
Thành phố Hồ Chí Minh

Trang


DANH MỤC CÁC BẢNG
Stt
1
2
3
4

Tên bảng
Bảng 2.1. Ngữ liệu văn hoá bác học trong một số
truyện Nôm
Bảng 2.2. Ngữ liệu văn hoá trong Hoa Tiên, Truyện
Kiều và Lục Vân Tiên
Bảng 2.3. Ngữ liệu văn hố bác học trong ngơn ngữ
nghệ thuật Truyện Kiều
Bảng 2.4. Ngữ liệu văn hố bình dân trong Hoa Tiên,
Truyện Kiều và Lục Vân Tiên

Trang
92
94
95
96


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển văn hố, văn học của nhân loại, có những tác phẩm
văn học kiệt xuất, phản ánh, kết tinh văn hố tinh thần của một quốc gia, phơ bày
những nét đẹp kiều diễm của ngôn ngữ mẹ đẻ - một biểu tượng văn hoá tài hoa của
một dân tộc. Những tác phẩm ấy không chỉ là những nỗi đam mê, niềm kiêu hãnh tự
hào của dân tộc đó mà cịn là chiếc cầu nối văn hố – tâm linh mang lại bao nhiêu
tình u, sự kính trọng và những trải nghiệm của những dân tộc khác. Vì vậy, có thể
nói, Nguyễn Du 阮攸 đã cống hiến cho dân tộc chúng ta một tuyệt phẩm, đúng như
Đặng Thai Mai đã từng nhận định: “Trong toàn bộ văn học Việt Nam ngày xưa,
Truyện Kiều là một thành công vẻ vang nhất, là áng văn chương tiêu biểu hơn
hết...” [05, tr.165].
Từ khi ra đời đến nay Truyện Kiều 傳翹 (nguyên danh Đoạn trường tân
thanh 斷腸新聲) đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của đời sống tâm hồn,
tâm linh của dân tộc Việt Nam nói chung và đời sống văn học nói riêng. Nhờ có
Truyện Kiều, vẻ đẹp của tiếng Việt càng được tôn xưng, tài năng của các thi nhân
người Việt càng được khẳng định, đề cao. Tuy đã có khơng ít cơng trình nghiên cứu
cơng phu về tác phẩm nhưng cho đến nay vẫn cịn có khá nhiều vấn đề cần được
làm sáng tỏ. Những vấn đề liên quan đến văn bản, nội dung và thế giới nghệ thuật
của nó vẫn để lại những tồn nghi, cần tiếp tục kiểm chứng, bổ sung và khảo cứu
thêm. Tuy vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất khẳng định những
thành tựu về ngôn ngữ của Nguyễn Du trong tuyệt phẩm này cũng như những
đóng góp thiết thực của ông đối với lịch sử phát triển ngôn ngữ văn chương cổ
điển Việt Nam.
Nghiên cứu hệ thống ngôn ngữ trong tác phẩm văn học trung đại Việt Nam
nói chung và ngơn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều nói riêng từ góc độ văn hố là một
hướng tiếp cận có tính chất liên ngành. Thơng qua hệ thống ngữ liệu văn hóa, một
số nhà nghiên cứu đã đi sâu, tìm hiểu nội dung, tư tưởng thẩm mỹ và phong cách
văn hoá của Nguyễn Du trong hành trình sáng tạo, những đóng góp cụ thể của ông



2

cho văn học nước nhà. Từ định hướng này, thông qua ngơn ngữ chúng ta có thể
khảo sát, từng bước chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật, khám phá bức tranh về đời sống
xã hội và những cách tân của tác giả trong quá trình chiếm lĩnh hiện thực, những
trải nghiệm của một nhà nghệ sĩ trước những cuộc dâu bể, biến thiên của cuộc sống.
Kế thừa thành tựu nghiên cứu của các thế hệ học giả đi trước, chúng tôi tiến
hành khảo sát hệ thống ngữ liệu cổ văn trong Truyện Kiều và đối chiếu chúng với các
tài liệu khảo chứng, hệ thống văn bản thư tịch Hán Nơm có liên quan. Từ đó, chúng
tơi tìm hiểu một số vấn đề có tính lý thuyết về hệ thống điển cố, thi liệu, các lớp từ
ngữ, những vấn đề thi pháp ngơn ngữ mang tính cao nhã, từ chương, uyển ngữ trong
ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, đặc biệt là ý nghĩa hàm ẩn, các tầng nghĩa văn hoá
của chúng trong từng ngữ cảnh cụ thể. Đây cũng là một trong những việc làm cần
thiết góp phần nâng cao chất lượng học tập, nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm văn học
cổ điển trong nhà trường và bảo tồn vốn di sản Hán Nôm của ông cha ta. Từ những ý
nghĩa cấp thiết trên, chúng tơi đi vào tìm hiểu đề tài Ngơn ngữ nghệ thuật Truyện
Kiều từ góc nhìn văn hố như một sự thể nghiệm, biện giải ngôn ngữ văn chương
cổ điển và văn hố thơng qua các mối quan hệ biện chứng giữa chúng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sự ra đời của Truyện Kiều là một mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành
của ngôn ngữ văn học, văn hố dân tộc. Tài năng và những đóng góp của Nguyễn
Du không chỉ được thể hiện qua việc tái tạo một tác phẩm tiểu thuyết diễm tình Hán
văn trong văn học cổ điển Trung Quốc mà còn được khẳng nhận từ nhiều góc độ
khác nhau, nhất là từ phương diện ngơn ngữ và văn hố.
Với số lượng 3.254 câu thơ lục bát trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã huy
động một vốn từ phong phú, đa dạng và liên kết chúng thành một hệ thống ngữ liệu
đặc sắc tạo nên những thần cú diễm từ trong văn học cổ điển Việt Nam. Do đó, nó đã
trở thành một đối tượng nghiên cứu, so sánh của nhiều chuyên ngành khác nhau như:
Văn bản học, Thi pháp học cổ điển, Ngôn ngữ học văn hoá... gắn liền với những tên
tuổi các học giả nổi tiếng như Phạm Quỳnh, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Sỹ Tế, Đặng

Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Nguyễn Khắc Viện, Bửu Cầm, Lê Ngọc Trụ, Bùi


3

Khánh Diễn, Tản Đà, Bùi Giáng, Bằng Giang, Thẩm Thệ Hà, Trần Phương Hồ,
Nguyễn Tử Quang, Nguyễn Lộc, Đặng Thanh Lê, Nguyễn Văn Hồn, Lê Trí Viễn,
Đào Thản, Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Thạch Giang... và gần
đây nhất là những cơng trình quy mơ của Trần Đình Sử, Trần Nho Thìn, Nguyễn Hữu
Sơn, Đào Thái Tơn, Phạm Đan Quế, Lê Thu Yến, Lê Xuân Lít, Vũ Thanh Huân...
Tựu trung, qua những tư liệu hiện có, theo chúng tơi, lịch sử nghiên cứu ngơn ngữ
nghệ thuật Truyện Kiều có thể khái quát thành các hướng như sau:
2.1. Nghiên cứu về ngơn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
Từ góc nhìn lịch sử phái sinh, tuỳ theo từng mục đích của các chuyên luận,
tiểu luận nghiên cứu, vấn đề ngôn ngữ nghệ thuật của Truyện Kiều được xem xét từ
nhiều góc độ với nhiều khái niệm khác nhau. Qua nghiên cứu, chúng tôi tạm nêu
một số nét khái quát như sau: Ngôn ngữ nhân dân và ngơn ngữ q tộc (Lê Trí
Viễn, Đào Thản, Lê Đình Kỵ, Đặng Thanh Lê); Ngơn ngữ hiện thực và ngơn ngữ
ước lệ (Nguyễn Lộc, Lê Đình Kỵ); Ngơn ngữ (dịng, sắc thái) bình dân và bác học
(Mai Quốc Liên, Lê Đình Kỵ); Ngơn ngữ văn học dân gian và ngôn ngữ văn học
chữ Hán (ngôn ngữ văn chương bác học) (Đào Duy Anh, Lê Trí Viễn, Nguyễn Lộc,
Đặng Thanh Lê, Đào Thản, Nguyễn Thuý Hồng); Ngôn ngữ Việt và ngôn ngữ Hán
Việt (Đào Thản, Đặng Thanh Lê, Nguyễn Lộc, Hoàng Hữu Yên, Nguyễn Thuý
Hồng, Lê Thu Yến, Vương Trọng...).
Trong Lịch sử văn học Việt Nam (tập 3, in năm 1962, tái bản 1976) của
nhóm tác giả Đại học Sư phạm, khi bàn về một vài phương diện của nghệ thuật
Nguyễn Du, Lê Trí Viễn đã cho rằng:
Nguyễn Du sử dụng rất tài tình vốn ngơn ngữ nhân dân. Ông cũng đã
học tập cách sử dụng của người đi trước hay đồng thời... Nguyễn Du còn
dùng ca dao và tục ngữ, cách dùng cũng có những hình thức biến hố tài

tình, thích hợp. Hồ Xn Hương đã có lối trích dùng ca dao và tục ngữ
thành điển cố ngang hàng với những điển cố trong văn học Trung Quốc.
Điều đó khơng những nâng cao giá trị của vốn dân tộc mà tác dụng thực tế
là đem lại cho thơ văn một ý vị đậm đà, một dáng dấp thanh thoát mà khi


4

dùng điển cố ngoại lai khơng thể có được. Nguyễn Du đã thực sự đi theo con
đường đó và đã rất thành cơng. [168, tr.179 - 180].
Bên cạnh đó, Lê Trí Viễn cịn nhấn mạnh đến vấn đề ảnh hưởng của văn hố
Trung Hoa trong ngơn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, ông khẳng định: “Tác giả
Truyện Kiều cũng tiếp tục truyền thống vay mượn văn học Trung Quốc đã có từ
lâu. Hoặc lấy ngay những thành ngữ chữ Hán, hoặc thu gọn những điển cố trong
văn học Trung Quốc thành những thành ngữ bằng tiếng Việt Nam, hoặc chuyển
hình ảnh trong thơ Trung Quốc sang thơ Việt Nam.” [168, tr.180].
Những nhận định trên đã được Lê Trí Viễn tiếp tục tái khẳng định trong giáo
trình Văn học Trung đại Việt Nam (Trường ĐHSP TP. HCM, 1996) [169]. Quả vậy,
qua những nhận xét của nhà nghiên cứu, chúng ta có thể nhận thấy khả năng phổ
cập hoá, dung dị hoá của lời thơ Truyện Kiều của Nguyễn Du đến với mọi tầng lớp
nhân dân. Đó có lẽ cũng là niềm tự hào lớn của dân tộc mà không phải tác giả văn
học nào cũng có thể đạt được.
Theo sự sưu tập của chúng tôi, xuất phát từ quan điểm xem ngôn ngữ là một
bộ phận quan trọng cấu thành vẻ đẹp đặc biệt của tác phẩm, Nguyễn Lộc trên Tạp
chí Văn học số 11 năm 1965 với bài viết Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều [89]
và tiếp tục trong công trình Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ
XIX) (1978, tái bản 2006) [90] đã khảo sát nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn
Du ở các phương diện như từ ngữ Hán Việt, điển cố, thi liệu, ngữ liệu tập văn, tập
thi... Tác giả đi sâu phân tích nét đặc sắc và chỉ ra những sáng tạo của Nguyễn Du trong
nghệ thuật sử dụng từ trong thi phẩm của mình. Ơng cho rằng:

Cũng như Hồ Xuân Hương, với Nguyễn Du thơ ca không tự bó mình
trong khn khổ nào của ngơn từ. Khơng có sự phân biệt của ngôn ngữ thơ và
ngôn ngữ đời sống. Đối với ông, bất cứ một từ ngữ nào cũng trở thành từ ngữ
của thơ, miễn là phải dùng nó một cách có nghệ thuật... [90, tr. 778].
Tiếp tục những kết quả nghiên cứu của Nguyễn Lộc, nhà Ngữ học Đào Thản
với tiểu luận Đi tìm một vài đặc điểm ngôn ngữ Truyện Kiều (1966) [135] đã khái
quát những vấn đề cơ bản về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du, nhất là


5

phần điển cố và các ngữ liệu cổ văn khác. Trong những cơng trình này này, các tác
giả đã nhận định cụ thể như sau: “Cái đặc sắc ở Nguyễn Du là ở chỗ mài dũa đến
điêu luyện mà không làm mất vẻ tự nhiên, chọn lọc tinh vi mà không cầu kỳ vẫn giữ
được phần trong trẻo của ngôn ngữ dân tộc” [135, tr.68]. Trong Đặc điểm ngôn ngữ
Truyện Kiều (1988), Đào Thản tiếp tục khẳng định:
Ngôn ngữ Truyện Kiều nói chung khơng có vay mượn xa lạ và cầu kì
như Cung ốn ngâm khúc, khơng có cái đài các quá ư lộng lẫy nhưng bề bộn
rườm rà của Hoa tiên hay đẽo gọt vụng về của Sơ kính tân trang. Quả thật ngôn
ngữ Truyện Kiều gần với thôn ca hơn cả. [136, tr.169].
Truyện Kiều là tác phẩm nổi tiếng trong và ngồi nước, đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu tiếp cận nó từ nhiều góc độ khác nhau nhằm tìm hiểu phong cách
đặc thù của Nguyễn Du và giai phẩm nổi tiếng của ơng. Từ góc độ phong cách, tu từ
học, một số nhà nghiên cứu như Nguyễn Sỹ Tế trong Luận đề về Nguyễn Du và
Đoạn Trường Tân Thanh (1959) [154], Phạm Văn Diêu với Việt Nam văn học
giảng bình (1970) [23], Nguyễn Quảng Tuân trong Tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện
Kiều (1992, tái bản có bổ sung 2000) [159], Chữ nghĩa Truyện Kiều (1990, 2004)
[158], Đặng Thanh Lê trong Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm (1979) [80] và
trong mục Truyện Kiều (Giáo trình Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế
kỉ XIX, 1999) [81], Giảng văn Truyện Kiều (1999, 2006) [82] và Thích Nhất Hạnh

với Thả một bè lau - Truyện Kiều dưới cái nhìn thiền qn (2000) [140]... cũng đã
có những dịng đánh giá, giảng giải và bình phẩm về hệ thống từ ngữ trong các đoạn
trích tiêu biểu của Truyện Kiều khá hấp dẫn. Khi khẳng định Truyện Kiều là một
thành tựu rực rỡ và kết tinh những giá trị văn hố đặc biệt của ngơn ngữ dân tộc
Việt Nam, Đặng Thanh Lê đã cho rằng:
Vận dụng triệt để ngôn ngữ dân tộc - đưa hệ thống từ vựng xã hội,
đưa khẩu ngữ vào mảnh đất thơ ca, kế thừa ngôn ngữ văn học dân gian và
tiếp thu tinh hoa ngơn ngữ văn học nước ngồi... đồng thời Nguyễn Du tái
tạo tất cả những chất liệu đó theo yêu cầu xây dựng hình tượng và chủ đề tác
phẩm. Sử dụng vốn liếng ngôn ngữ của đời sống quá khứ, của ngoại lại đồng


6

thời in vào đó dấu vết của phong cách cá nhân, của cá tính sáng tạo, những
câu thơ Kiều phản phất phong vị ca dao, phong vị thơ Đường luật, phong cách
thành ngữ, tục ngữ và cả màu sắc khúc ngâm trữ tình... nhưng đồng thời đó vẫn là
những câu thơ riêng biệt của Truyện Kiều. [81, tr.206].
Đặc biệt, trong cơng trình Tìm hiểu phong cách của Nguyễn Du qua Truyện
Kiều (1985, tái bản có bổ sung 2003) [100], Phan Ngọc đã đưa ra những nhận định
về phong cách, cũng như nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du và tác phẩm
của ông rất khoa học và thú vị. Nhà nghiên cứu đã cho rằng:
Nghiên cứu Truyện Kiều trong phong cách thể hiện truyện Nôm ta thấy
tác giả thừa hưởng những cái hay của thể loại nhưng còn phải chịu một vài
nhược điểm của nó. Cái hay là ở tâm trạng, ở ngôn ngữ, ở sự xây dựng một
phong cách diễn đạt gần như toàn dân. Nhưng nhược điểm vẫn cịn: phần thể
hiện hồn cảnh khách quan khơng mãnh liệt mà chiều theo khuôn sáo, đưa
yếu tố thần linh vào không tự nhiên, những khuyết điểm chung của hầu hết các
truyện Nơm. [100, tr.323].
Tiếp sau Phan Ngọc, Trần Đình Sử trong Thi pháp Truyện Kiều (2002) [132]

đã khảo sát và tìm hiểu thế giới nghệ thuật, tư duy nghệ thuật của Nguyễn Du và tác
phẩm của ông một cách khá công phu. Tác giả đã đi vào nghiên cứu tác phẩm theo
một hệ thống và biện giải nó ở nhiều phương diện. Ơng đã tơn vinh Nguyễn Du là
“nhà nghệ sĩ ngôn từ”, là “nhà nghệ sĩ bậc nhất về ngôn từ trong văn học trung đại
Việt Nam” [132, tr.305]. Đặc biệt, Trần Đình Sử đã nhấn mạnh:
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du với tư cách nghệ sĩ, ông cũng “đập
vỡ” cấu trúc ngôn ngữ hàng ngày để tạo thành ngơn từ nghệ thuật. Ơng đã
tránh ngơn từ tác giả thực dụng để sử dụng ngôn từ đã chủ thể. Ông đã trao
quyền tự sự cho người kể chuyện và cho nhân vật, làm cho ngơn từ ấy có thể
“nói” nhiều hơn là lời của ông Tham tri bộ Lễ, ông Cai bạ Quảng Bình và
ông sứ thần triều Nguyễn. [132, tr.308].
Qua những cơng trình của Lê Trí Viễn, Nguyễn Sỹ Tế, Nguyễn Lộc, Đặng
Thanh Lê, Phan Ngọc, Nguyễn Quảng Tuân, Trần Đình Sử... người đọc cảm thấy


7

thích thú với những nhận xét sắc sảo, tinh tế, thực sự thoả đáng và qua đó có thể có
được một cái nhìn khái qt hơn về phong cách ngơn ngữ, thế giới thẩm mỹ và quan
điểm sáng tác của Nguyễn Du - nhà thơ vĩ đại của dân tộc.
Như đã trình bày, kể từ ngày ra đời cho tới nay, Truyện Kiều của Nguyễn Du
đã được giới nghiên cứu Ngữ văn học tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Trong
hàng trăm nghiên cứu, một số được tập trung vào tư tưởng và triết lý từ câu chuyện
hay từ tác giả qua câu chuyện; một số xoay quanh các giá trị đạo lý có thể suy ra từ
tác phẩm; và một số đặt trọng tâm về ngôn ngữ dùng trong truyện. Đối với vấn đề
ngôn ngữ Truyện Kiều, chúng tôi nhận thấy, khái quát về giá trị ngôn ngữ của tác phẩm
này đã có những đánh giá cụ thể bằng nhãn quan thẩm mỹ mang tính định lượng, bằng
những số liệu thống kê khá cụ thể và chi tiết. Theo phương pháp này, Từ điển Truyện
Kiều (1974) [03] của Đào Duy Anh, Tìm hiểu từ ngữ Truyện Kiều (2001) [91] của Lê
Xn Lít, Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều (1995) [161] của Đỗ

Minh Tuấn, luận án Từ ngữ Việt và từ ngữ Hán Việt trong ngôn ngữ nghệ thuật
Truyện Kiều (1995) [65] của Nguyễn Thuý Hồng đã có những con số chính xác về tần
số, tần suất xuất hiện của các ngữ liệu Hán Việt và thuần Việt trong tác phẩm. Cách
làm này nhằm đưa đến cho người đọc một cái nhìn khoa học, thực chứng về hệ thống
từ vựng trong ngôn ngữ Truyện Kiều. Thơng qua hệ thống này, người tiếp nhận đã có
những cơ sở, số liệu cụ thể để có thể tìm hiểu, biện giải và cắt nghĩa ý đồ nghệ thuật,
thế giới trữ tình và hình tượng nhân vật mà Nguyễn Du muốn gửi gắm trong tác phẩm
của mình một cách khoa học và hợp lý.
2.2. Nghiên cứu về ngôn ngữ Truyện Kiều từ góc nhìn văn hố
So với nhiều truyện Nôm cùng thể tài khác, ngôn ngữ nghệ thuật Truyện
Kiều dường như là một thế giới đầy hương sắc, là phức thể đa dạng và phong phú.
Do đó, càng đào sâu tìm hiểu, chúng ta càng phát hiện thêm nhiều điều mới lạ. Tuy
nhiên, trong nhiều đặc điểm trội bật ấy, sợi chỉ đỏ xun suốt qua tồn bộ ngơn ngữ
Truyện Kiều và làm nên giá trị vĩ đại của tác phẩm ấy, phải chăng là sự kết hợp
tuyệt diệu giữa hai khuynh hướng bình dân và bác học trong ngơn ngữ tác phẩm.
Đây có thể xem là những bước khám phá đầu tiên về ngôn ngữ Truyện Kiều từ góc


8

nhìn văn hố, cụ thể ở đây là văn hố bình dân và bác học. Mai Quốc Liên trong
Dịng bác học và dịng bình dân trong ngơn ngữ Truyện Kiều (1966) đã cho rằng:
Nguyễn Du là một nhà thơ vô song đã đóng góp rất nhiều vào ngơn
ngữ văn học dân tộc. Công lao của ông trong việc kế thừa một cách sáng tạo
ngôn ngữ dân gian và trong việc sử dụng tài tình ngơn ngữ văn học Trung
Quốc. Thành tựu tuyệt vời của ông trong việc làm phong phú, làm trong sáng
ngôn ngữ văn học thế kỷ XIX đã có ảnh hưởng sâu xa và lâu dài đến sự phát
triển ngôn ngữ văn học dân tộc ta. [83, tr.57].
Sau học giả Mai Quốc Liên, nhà lý luận phê bình văn học Lê Đình Kỵ cũng
khảo sát Sắc thái bác học, sắc thái bình dân và tính thống nhất của ngơn ngữ

Truyện Kiều (1986), ơng cũng thống nhất quan điểm:
Tính dân tộc của ngơn ngữ có gốc rễ chủ yếu ở thành phần bình
dân... những yếu tố bác học như điển cố, tượng trưng, ước lệ đã được
Nguyễn Du nhào nặn tái tạo và đưa vào một âm hưởng mới, chứa chan tình
điệu dân tộc...” và “làm thế nào kết hợp giữa hai thành phần đó trong cùng
một tác phẩm mà khơng có sự phân ly, chắp nối. Hồn cảnh mỹ học cụ thể
lúc bấy giờ cho phép sự thống nhất hai thành phần ấy trong một sự kết hợp
biện chứng, hữu cơ. [76, tr 425].
Hướng tiếp cận trên tuy đã chỉ ra được hai nguồn gốc cơ bản cấu thành hệ
thống ngôn ngữ nghệ thuật của Truyện Kiều nhưng vẫn chưa đi sâu phân tích, đưa
ra những dẫn liệu cụ thể và nêu bật rõ ràng những nét nghĩa văn hố ẩn hàm trong
ngơn ngữ Truyện Kiều, nhất là nguồn gốc, xuất xứ cụ thể của hệ thống ngữ liệu văn
hoá trong tác phẩm tiêu biểu này.
Năm 1995, Nguyễn Thị Ly Kha đã công bố bài viết Bước đầu tìm hiểu về
hiện tượng giao thoa từ ngữ tiếng Hán sang từ ngữ tiếng Việt (qua cứ liệu Đoạn
trường tân thanh) và phần phụ lục Đôi điều về Truyện Kiều và cổ thi trong Kỷ yếu
Hội nghị Khoa học, Trường Đại học Tổng hợp TP. HCM. Từ góc độ lý thuyết tiếp
xúc ngơn ngữ, tác giả đã trình bày khá nhiều vấn đề về sự giao thoa của hai hệ
thống ngôn ngữ, tuy nhiên, bài viết cũng chỉ dừng lại ở mức độ nêu vấn đề, chưa


9

thật sự giải quyết một cách thấu đáo những giá trị văn hoá của hai hệ thống từ ngữ
Hán Việt và thuần Việt trong điều kiện hành chức của nó. Trong bài viết này, tác
giả cũng nhận định:
Giao thoa ngôn ngữ gắn liền với giao thoa văn hoá. Sự giao thoa ấy
đã góp phân tăng thêm cho Truyện Kiều một số lượng từ phong phú, có khả
năng chuyển tải mọi tâm tư phức tạp tế nhị của con người. Sự giao thoa từ
ngữ trong Truyện Kiều góp thêm một minh chứng về khả năng mở khi tận

dụng ngôn ngữ để diễn đạt nhưng vẫn đảm bảo quy luật tiết kiệm ngơn ngữ
bằng phương thức chuyển nghĩa từ... có tác dụng tích cực khi người song
ngữ ấy đồng thời là người song văn hố. [68, tr. 160].
Về ngơn ngữ bình dân, nhất là lớp từ ngữ dân tộc qua ca dao, tục ngữ, lối nói
khẩu ngữ, từ địa phương đã được các tác giả Hoàng Hữu Yên trong Cái hay, cái đẹp
của tiếng Việt trong Truyện Kiều (2003) [173], Phạm Đan Quế trong Về những thủ
pháp nghệ thuật trong văn chương Truyện Kiều (2008) [115], Thế giới nghệ thuật
Truyện Kiều (2013) [122], Lê Nhật Ký trong Giá trị thẩm mỹ của từ láy trong
Truyện Kiều của Nguyễn Du (2013) [97]... đã có những kết luận cơ bản. Bàn về vấn
đề này, nhà nghiên cứu Hoàng Hữu Yên đã nhận thấy:
Đọc các tác phẩm Nôm của Nguyễn Du, chúng ta bắt gặp trong
Truyện Kiều cũng như trong một số tác phẩm khác của nhà thơ vốn từ thuần
Việt lấp lánh trong tác phẩm, chứng tỏ đại thi hào của chúng ta hết sức trân
trọng và chân thành học tập sáng tạo từ cái vốn quý đó. [179, tr.31].
Cũng như hướng tiếp cận văn bản học của Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn,
Nguyễn Tài Cẩn, Đào Thái Tôn, Nguyễn Khắc Bảo, Nguyễn Quảng Tuân..., hầu hết
các nhà nghiên cứu ngôn ngữ khi phân tích, khảo chứng về hai nguồn gốc bác học
và bình dân của ngơn ngữ Truyện Kiều đều có những nhận xét khái qt về phong
cách ngơn ngữ văn hố của Nguyễn Du. Có thể nói, lời thơ của Tố Như rất gần gũi
với lời ăn tiếng nói và nếp suy nghĩ của mọi tầng lớp nhân dân. Nhà thơ đã có ý
thức rất cao khi học tập, kế thừa và phát huy những giá trị văn hố của ngơn từ trong
văn chương bác học, bình dân Việt Nam. Đó cũng chính là cống hiến vĩ đại của Nguyễn
Du và Truyện Kiều đối với lịch sử phát triển của ngôn ngữ văn học dân tộc.


10

Cũng từ góc độ văn hố, một số nhà nghiên cứu khác đã đi theo khuynh
hướng truy tìm những nguồn gốc, xuất xứ của các ngữ liệu văn hoá trong ngơn ngữ
Truyện Kiều. Đây có thể xem như là một trong những hướng tiếp cận liên ngành

ngôn ngữ - văn hoá kết hợp với những thành tựu nghiên cứu về Huấn hỗ học Hán
ngữ. Đặc biệt ở đây, hướng tiếp cận này có thể phục dựng lại một bức tranh phong
phú về những ảnh hưởng của văn hoá, văn chương cổ điển Trung Hoa, Việt Nam
đến tư duy thẩm mỹ, khả năng lựa chọn ngữ liệu trong quá trình hình thành tác phẩm
và tìm hiểu được sự vận động lý thú, những ảnh hưởng của ngôn ngữ nghệ thuật Truyện
Kiều đến đời sống văn chương hậu thế.
Những tác giả đặt nền móng cho hướng nghiên cứu này, theo chúng tơi, có
thể kể đến vai trị mở đường của Phạm Quỳnh, Đào Duy Anh, Đặng Thanh Lê,
Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Quảng Tn, Phan Ngọc, Trần Đình Sử, Hồng Hữu
n, Nguyễn Thạch Giang, Lê Thu Yến, Nguyễn Hữu Sơn... Nhà nghiên cứu
Đặng Thanh Lê trong Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm (1979) [80], Nguyễn
Thạch Giang trong Đoạn Trường tân thanh qua cái nhìn của Thiền gia, Nho gia
(1995) [47], Lời quê chắp nhặt (2001) [46] và Nguyễn Th Hồng trong cơng
trình Từ ngữ Việt và từ ngữ Hán Việt trong Truyện Kiều (1995) [65] và Phạm Đan
Quế trong cơng trình Về những thủ pháp nghệ thuật văn chương Truyện Kiều
(2006) [115], Thế giới nghệ thuật Truyện Kiều (2013) [122] đã đặt vấn đề khảo sát
hệ thống ngơn ngữ văn hố trong ngơn ngữ truyện Nơm nói chung và Truyện Kiều
nói riêng như một thủ pháp đặc trưng tiếp cận thế giới nghệ thuật tác phẩm từ sự
phân loại nguồn gốc của từ ngữ: Việt và Hán - Việt. Kết quả nghiên của các
chuyên gia trên đều thống nhất, phù hợp với quan điểm của Nguyễn Thuý Hồng,
khi tác giả cho rằng:
Từ ngữ Hán Việt được vận dụng trong ngôn ngữ Truyện Kiều và các
truyện thơ Nôm chủ yếu là những từ ngữ thuộc lĩnh vực ngơn ngữ văn hố
(ngơn ngữ của các văn bản viết) của Trung Quốc như: Các từ địa danh,
nhân danh và điển cố thi liệu quen thuộc của văn chương Trung Quốc, các
thuật ngữ khái niệm trong các tác phẩm triết học Phật giáo và kinh điển Nho
giáo. [65, tr.45 - 46].


11


Kết quả của hướng nghiên cứu trên tuy có nhiều điểm mới so với những
người đi trước song những tác giả này là đi sâu phân tích, quy loại, phân loại các
ngữ liệu một cách chặt chẽ, theo hệ thống, đặc biệt là chưa nêu bật vẻ đẹp cũng như
sự đóng góp của hệ thống từ ngữ này đối với tồn bộ hệ thống cấu trúc ngơn ngữ
nghệ thuật Truyện Kiều. Nói cách khác, đây cũng là hướng tiếp cận và lý giải
Truyện Kiều bằng phương pháp thống kê học, một trong những phương pháp đặc
trưng của ngôn ngữ học so sánh - đối chiếu. Tuy vậy, kết quả nghiên cứu trên cũng
là những định hướng quan trọng giúp cho người thực hiện đề tài này đi sâu phân
tích những đặc trưng và giá trị nghệ thuật của lớp từ ngữ văn hố trong ngơn ngữ
nghệ thuật Truyện Kiều.
Có thể nói, các cơng trình nghiên cứu về thế giới ngơn ngữ trong sáng tác
của Nguyễn Du ngày càng nhiều nhưng việc nghiên cứu, đánh giá nó dưới góc độ
liên ngành ngơn ngữ - văn hố vẫn chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Cá biệt,
một số nhà thơ đã chịu ảnh hưởng về tư tưởng, văn phong của Truyện Kiều một
cách rất nghệ thuật và văn hoá. Chẳng hạn ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975,
Tuệ Không Phạm Thiên Thư đã cảm khái viết nên Đoạn Trường vô thanh (Lá Bối
xuất bản, Sài Gòn, 1974) [149] như một sự tâm cảm, “biệt nhỡn liên tài” đối với Tố
Như Tử. Ngôn từ văn hoa, ý tứ điêu luyện, bố cục rõ ràng, Đoạn Trường vô thanh
như một sự tương thức, hồ hợp của những tình điệu thẩm mỹ, như một sự hội ngộ
ngẫu nhiên của những hồn thơ đa cảm trước cảnh tang thương của cuộc đời và
mang theo cả lịch sử văn hiến ngàn năm của một dân tộc anh hùng. Tuy vậy, theo
chúng tôi, mở đầu cho hướng nghiên cứu liên ngành ngơn ngữ - văn hố đối với
Ngơn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều có lẽ là nhà Kiều học Phạm Đan Quế, trong hàng
loạt các công trình của mình do nhà xuất bản Thanh niên ấn hành như: Tập Kiều một thú chơi tao nhã (1999) [112], Đố Kiều - nét đẹp văn hoá (2002) [118], Về
những thủ pháp nghệ thuật trong văn chương Truyện Kiều (2002) [115], Bình Kiều,
Vịnh Kiều, Bói Kiều (2003) [110], Lục bát hậu Truyện Kiều (2003) [117], Truyện
Kiều trên báo chương thế kỷ XX (2004) [120], Thế giới nhân vật Truyện Kiều
(2005) [121], Thế giới nghệ thuật Truyện Kiều (2013) [121]... và bộ sách Truyện



12

Kiều trong văn hoá Việt Nam (Tùng thư Truyện Kiều) (2013) của Hội Kiều học Việt
Nam đã bước đầu đi sâu phân tích những nét đẹp văn hố được thể hiện qua ngôn
ngữ của thi phẩm.
Thông qua những bộ tùng thư văn hố Kiều mà chúng tơi vừa đề cập trên,
Phạm Đan Quế đã nêu bật những hiện tượng, khía cạnh văn hoá của Truyện Kiều đã
ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống xã hội, văn học nước nhà. Tuy nhiên, qua các
cơng trình này, các tác giả chưa thực sự đầu tư phân tích q trình chuyển hố, đặc
trưng văn hoá Trung Hoa và Việt Nam đã ảnh hưởng đến ngơn ngữ Truyện Kiều
như thế nào. Nói cách khác, cả Phạm tiên sinh lẫn Tuệ Không cư sỹ đã góp phần
minh chứng cho sức sống trường cửu của Truyện Kiều và những câu lục bát đậm
tình dân tộc. Tuy nhiên, cả hai đều chưa đi sâu lý giải cội nguồn văn hoá của tác
phẩm. Sự lan toả, vang vọng của những nét nghĩa văn hoá ẩn hàm bên trong lớp
ngôn ngữ đặc biệt của Truyện Kiều đã khiến cho giai phẩm này đi vào thế giới tinh
thần của người đọc dường như lớn hơn nhiều so với những gì mà Nguyễn Du đã ký
thác. Giá trị, ý nghĩa của Truyện Kiều ngày càng được nâng cao bởi những yếu tố
thẩm mỹ, những nội hàm văn hoá đang ẩn sâu dưới lớp băng nghệ thuật của ngơn từ
và nó đem lại cho người tiếp nhận những dự cảm, tình điệu, tâm thức mới trong
hành trình đi tìm các tầng nghĩa nhân sinh, văn hoá của nghệ thuật và đời sống.
Từ năm 1999 đến nay (2014), một số nhà nghiên cứu đã kế thừa quan điểm
học thuật của Dương Lâm (Trung Quốc), Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương...
Đặc biệt, các chuyên luận Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá
(2003, tái bản bổ sung 2007) [144] của Trần Nho Thìn, Từ cái nhìn văn hố (1999)
[147], Văn hố Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hố (2005) [148] của Đỗ Lai Thuý,
Từ vựng Hán ngữ với nền văn hoá Hoa Hạ (2002) [66] của Huỳnh Chương Hưng
đã thật sự mang lại một hướng tiếp cận mới cho lĩnh vực nghiên cứu Ngữ văn cổ
điển ở Việt Nam. Bên cạnh đó, một số cơng trình nghiên cứu mới nhất về ngơn ngữ
văn hố trong Truyện Kiều được các nhà nghiên cứu như Thái Kim Đỉnh, Vương

Trọng, Vũ Thế Khôi, Trương Quế Phương, Lê Thu Yến, Trương Xuân Tiếu, Mai
Thị Ngọc Chúc, Vũ Thanh Huân, Lê Nhật Ký... lần lượt công bố cho thấy trào lưu


13

tiếp cận ngơn ngữ văn hố đối với Truyện Kiều đã thực sự cần thiết, cần có sự nâng
cấp thành lý luận. Do đó, kế thừa những người đi trước, chúng tơi ln ý thức tìm
về những giá trị văn hoá của Truyện Kiều cũng như là những sáng tạo mà Nguyễn
Du đã để lại cho hậu thế.
Trong quá trình chuẩn bị và thực hiện luận án, bản thân chúng tơi cũng đã cố
gắng tìm hiểu, thể hiện kết quả nghiên cứu bước đầu của mình về giá trị văn hố
trong ngơn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều qua một số bài viết như: Hàm nghĩa văn
hố của chữ Đơng và chữ Tây trong văn học trung đại Việt Nam (2003), Đặc trưng
thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu văn hoá trong Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
(2009), Hàm nghĩa văn hố của hai từ Nam, Bắc trong ngơn ngữ văn học trung đại
Việt Nam (2011), Ảnh hưởng của ngôn ngữ văn hoá Truyện Kiều đến đời sống văn
chương và xã hội Việt Nam (2012), Phong cách văn hoá Nguyễn Du qua ngôn ngữ
nhân vật trong Truyện Kiều (2013).
Qua một số hướng tiếp cận văn hoá đã đề cập trên, chúng tôi cho rằng việc
khảo sát hệ thống ngữ liệu mang hàm nghĩa văn hố trong Ngơn ngữ nghệ thuật
truyện Nơm nói chung, Truyện Kiều nói riêng là một vấn đề hấp dẫn và cần có sự
đầu tư thỏa đáng. Điều đó cho thấy, đề tài Ngơn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ
góc nhìn văn hố mà chúng tơi đang thực hiện tuy khơng phải hướng tiếp cận mới
lạ, song nó vẫn còn là mảnh đất khá màu mỡ cho những ai tâm huyết với các tác
phẩm văn học dân tộc. Hướng tiếp cận này góp phần minh chứng khả năng liên hội
của từ ngữ văn hoá tạo nên đặc trưng tư duy mang tính biểu tượng, ý nghĩa liên hội
của các chúng trong ngôn ngữ Truyện Kiều, làm cho trường liên tưởng của tác phẩm
này càng được mở rộng mà mỗi độc giả tuỳ theo bề dày văn hoá của mình có thể
thẩm thấu được.

Tóm lại, từ những hướng nghiên cứu đã tổng thuật và nhìn lại một chặng
đường lịch sử khảo sát Truyện Kiều, chúng tôi nhận thấy tiếp cận tác phẩm văn học
từ góc nhìn văn hố là vấn đề lớn, cần có sự đầu tư, tìm hiểu của nhiều thế hệ học
giả và bạn đọc. Từ định hướng này, nhiều nhà nghiên cứu đã đi vào tìm hiểu, khám
phá thế giới nghệ thuật, bức tranh ngôn ngữ về đời sống xã hội, khẳng định những


14

cách tân, đóng góp của Thanh Hiên tiên sinh trong quá trình chiếm lĩnh hiện thực
cùng với những trải nghiệm của một nhà nghệ sỹ trước những dâu bể, biến thiên,
tang thương của cuộc đời. Do vậy, khảo sát hệ thống ngơn ngữ tác phẩm văn học
trung đại nói chung và Ngơn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều nói riêng từ góc độ văn
hố là một cơng việc khá phức tạp và có giá trị khoa học, thực tiễn đối với công tác
nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm này trong nhà trường. Thơng qua hệ thống ngữ liệu
văn hóa, một số nhà nghiên cứu bước đầu đã khám phá nội dung, tư tưởng, những
sáng tạo, đặc trưng phong cách văn hoá của đại thi hào Nguyễn Du.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ góc nhìn văn hố,
chúng tơi nhận thấy cần phải có những cách thức tiếp cận liên ngành, khảo cứu,
giảng giải ngữ liệu văn hoá một cách khoa học và chuẩn xác. Vì thế, khi thực hiện
luận án, chúng tơi cũng đã gặp khơng ít những khó khăn nhất định. Tuy nhiên, việc
xác định rõ đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài đã giúp tác giả luận án từng
bước tháo gỡ được những vướng mắc học thuật cần giải quyết.
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án chúng tơi là hệ thống ngữ liệu văn
hố trong Ngơn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, cụ thể ở đây là ngữ liệu văn hoá bác
học và ngữ liệu văn hố bình dân. Xét về hình thức ngơn ngữ, nguồn gốc và xuất
xứ, đây là hệ thống từ ngữ Hán Việt, có yếu tố Hán Việt, thuần Việt, từ ngữ nguyên
dạng hay chuyển dịch được dẫn dụng trong văn chương bác học có nguồn gốc từ

các tác phẩm kinh điển trong triết học và văn chương cổ điển Trung Hoa như Tứ
thư 四書, Ngũ kinh 五經, Lão Tử Đạo Đức kinh 老子道德經, Trang Tử Nam Hoa
kinh 莊子南華經, Sở Từ 楚辭, Nhạc phủ 樂府, Đường thi 唐詩, Tống từ 宋詞,
Minh Thanh cổ điển tiểu thuyết 明清古典小說... hay những bộ kinh tạng của Phật
giáo nói chung. Về ngữ nghĩa và phạm vi sử dụng, đó là các từ ngữ thể hiện những
quan niệm, biểu tượng về màu sắc, phương vị, từ ngữ thuộc các lĩnh vực chính trị,
quân sự, sinh hoạt văn hoá cộng đồng, quan niệm đạo đức, thẩm mỹ của thi ca cổ
điển phương Đông. Cụ thể có thể khái quát thành những thành phần sau: địa danh,


15

nhân danh Hán Việt, các từ ngữ, khái niệm xã hội, thành ngữ, tục ngữ Hán Việt, hệ
thống từ ngữ, thi văn liệu tiếp thu từ văn hoá, văn học cổ điển Trung Hoa.
Bên cạnh những ngữ liệu có nguồn gốc từ văn hố, văn chương bác học, đề
tài cịn hướng đến những từ ngữ có nguồn gốc từ trong văn học dân gian, văn học
bình dân, trong lối nói sinh hoạt khẩu ngữ đời thường của cuộc sống. Cụ thể là các
thành phần ngơn ngữ như: từ ngữ có phong cách khẩu ngữ, bình dân (chủ yếu
nghiên cứu qua lớp hư tư tiếng Việt, từ cổ Việt ngữ, từ địa phương xứ Nghệ), từ láy,
những từ ngữ ảnh hưởng từ ca dao, thành ngữ, tục ngữ và khẩu ngữ trong tiếng Việt.
Đặc biệt, luận án còn hướng đến một lớp từ ngữ chịu ảnh hưởng từ Truyện
Kiều trong văn chương và đời sống tinh thần của các thế hệ văn nghệ sĩ sau Nguyễn
Du mà chúng tôi tạm gọi là Từ ngữ văn hoá hậu Truyện Kiều. Do vậy, thông qua
kết quả thống kê, phân loại ngữ liệu, chúng tơi sẽ bước đầu đi vào tìm hiểu, phân
tích hàm nghĩa văn hố, chức năng, giá trị sử dụng nó trong ngôn ngữ Truyện Kiều.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi là mối quan hệ giữa ngơn ngữ và
văn hố, những ảnh hưởng của văn hố bác học, bình dân đối với ngơn ngữ nghệ
thuật Truyện Kiều. Từ những kết luận có được, thơng qua quá trình khảo sát, thống
kê, phân loại các tiểu hệ thống ngơn ngữ với những nét nghĩa văn hố đặc thù,

chúng tơi bước đầu tìm hiểu phong cách, giá trị cũng như những hiệu quả thẩm mỹ
của các hệ thống ngữ liệu văn hoá, những biểu hiện cụ thể của nó trong Truyện
Kiều. Để tạo tính thống nhất trong quá trình khảo sát ngữ liệu, trong luận án này,
chúng tôi không đi sâu khảo sát những hiện tượng cú pháp câu trong ngơn ngữ nghệ
thuật của Truyện Kiều.
Ngồi ra, trên một hệ quy chiếu mới, chúng tôi bước đầu so sánh những đặc
trưng văn hố trong ngơn ngữ nghệ thuật của thiên truyện này với một số truyện thơ
Nôm bác học khác trước và sau nó.
3.3. Văn bản khảo sát, đối chiếu và thống kê
Văn bản Truyện Kiều được khảo sát trong luận văn của chúng tôi là bản
Truyện Thuý Kiều (1925, tái bản 1960) do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo


16

[30]. Đây là một trong những bản phiên quốc ngữ chất lượng, có giá trị khoa học.
Bên cạnh đó chúng tơi có những đối chiếu và so sánh với các bản quốc ngữ Vương
Thuý Kiều chú giải tân truyện (1952) [35] do Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu chấp bút
hiệu đính, chú giải, bình luận, bản Truyện Kiều chú giải (1952, tái bản 2010) [28]
do Vân Hạc Lê Văn Hoè chú giải và bản Kim Vân Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh)
(1960, bản in lần 3) [29] do học giả Bùi Khánh Diễn chú thích và bình luận.
Trong q trình thống kê, tác giả luận án đã sử dụng một số kết quả, thành
tựu nghiên cứu về văn bản học, ngôn ngữ học của các nhà nghiên cứu trước đây.
Với công việc này, chúng tơi muốn góp thêm tiếng nói trong lịch sử tìm hiểu, tiếp
nhận ngơn ngữ Truyện Kiều. Tiếp đến là trình bày những diễn giải, cắt nghĩa thêm
một số thơng tin liên quan đến các ngữ liệu văn hố đã được thống kê, phân loại
trong luận án. Tuy vậy, trong q trình thực hiện đề tài, chúng tơi đã gặp phải
khơng ít khó khăn, nhất là ở hệ thống tiêu chí phân loại ngữ liệu. Và tất nhiên, việc
thống kê, phân loại, xử lý một số lượng lớn dữ liệu, sự thiếu sót, khiếm khuyết là
điều khơng tránh khỏi, nhất là trong q trình thẩm bình và phân tích những nét đẹp

văn hố trong ngơn ngữ Truyện Kiều - Tập đại thành về văn hoá, văn học Việt Nam.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi tiến hành thống kê cụ thể các thành
phần từ ngữ về quy mô, số lượng, tỷ lệ của các thành phần ngơn ngữ bác học, bình dân
trong Truyện Kiều, so sánh tác phẩm này với một số truyện Nôm khác.
Từ số lượng, tỷ lệ được thống kê, tác giả luận án sẽ phân tích các đặc điểm
ngữ dụng, đặc trưng văn hố, tính chất đặc thù của từng hệ thống để đi đến những
kết luận về vai trò, vị trí và giá trị thẩm mỹ của các thành phần ngữ liệu văn hố cụ
thể trong ngơn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều.
Bên cạnh đó, tác giả luận án sẽ so sánh những tương đồng và dị biệt trong
nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du với một số tác giả văn học khác. Qua đó,
chúng tơi xác định những đặc trưng trong phong cách văn hoá của tác giả Truyện
Kiều, vị trí của tác phẩm trong tiến trình phát triển văn hoá, văn chương cổ điển
Việt Nam và tiếp tục khái quát những quy luật phát triển của ngôn ngữ văn học
trung đại Việt Nam.


17

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Vận dụng mối quan hệ văn hố - ngơn ngữ vào khảo sát một tác phẩm văn
học cụ thể là một trong những hướng tiếp cận mang tính triết học, đa ngành. Hướng
đi này sẽ trực tiếp luận giải mối quan hệ biện chứng giữa văn học, ngơn ngữ với văn
hố. Văn hố là một hiện tượng tồn tại một cách không cụ thể, trực tiếp, người ta
chỉ có thể nhận diện văn hố qua hệ thống các biểu hiện cụ thể - các hiện tượng văn
hoá như một tập hợp đa trị cần được tiếp cận từ nhiều phương diện khác nhau. Mục
đích chính của luận văn là tìm hiểu những giá trị văn hố truyền thống Việt Nam
trong hệ thống Ngôn ngữ nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể - Truyện Kiều. Thông
qua những kết quả thu thập được, chúng tôi sẽ tiếp tục phân tích những yếu tố văn
hố ẩn hàm trong lớp ngôn từ nghệ thuật đặc sắc của thi phẩm này.

Nhiệm vụ cơ bản của luận án là tiến hành phác hoạ một cách chân thực bức
tranh toàn cảnh về thế giới trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều từ góc độ
ngơn ngữ văn hố. Từ đó, chúng tơi xác định những nét riêng biệt về giá trị văn hố
của ngơn ngữ tác phẩm trong hành trình phát triển của văn học cổ điển, những yếu
tố đã làm nên giá trị bất hủ của thi phẩm.
6. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm hỗ trợ cho việc lý giải, tìm hiểu một số vấn đề liên quan đến điển cố, thi
liệu, từ ngữ tập cổ trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều và hàm nghĩa văn hoá của
chúng trong từng ngữ cảnh cụ thể, chúng tôi tiến hành khảo sát, truy nguyên hệ thống
ngữ liệu cổ văn Truyện Kiều trong các văn bản, tài liệu Hán Nôm. Đây là một việc
làm cần thiết đối với những ai yêu mến tác phẩm và bảo tồn di sản văn học cổ điển
của ông cha ta. Vì những lý do cơ bản ấy, chúng tơi thiết nghĩ ngơn ngữ văn hố
trong Truyện Kiều cần phải xem một biểu tượng, một minh chứng cho mối quan hệ
ngơn ngữ - văn hố thơng qua các quan hệ hữu cơ của hai hệ thống này.
Xuất phát từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng
kết hợp các lý thuyết, quan điểm nghiên cứu về văn hố học, ngơn ngữ học lịch sử,
thi pháp học và các kiến thức liên ngành liên quan đến việc khảo chứng hệ thống
ngữ liệu văn hoá bác học, bình dân trong ngơn ngữ Truyện Kiều. Trong luận án này,
chúng tôi đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu chính như sau:


×