Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

tóm tắt luận án Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa (tiếng Việt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.55 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH

VÕ MINH HẢI
NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU
TỪ GÓC NHÌN VĂN HOÁ
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số : 60 22 01 21
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015
Công trình được hoàn thành tại: Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Lê Thu Yến
(ghi rõ họ tên, chức danh khoa học, học vị)
Phản biện 1: PGS. TS. Lê Giang
Trường ĐH KHXH & NV, Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh
Phản biện 2: PGS. TS. Nguyễn Thành Thi
Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh
Phản biện 3: TS. Nguyễn Ngọc Quận
Trường ĐH KHXH & NV, Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
Trường họp tại: vào hồi……giờ…ngày….tháng…năm 2015
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Trường ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh
- Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Nghiên cứu hệ thống ngôn ngữ trong tác phẩm văn học cổ điển
Việt Nam nói chung và ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều nói riêng từ
góc độ văn hoá là một hướng tiếp cận có tính chất liên ngành. Thông
qua hệ thống ngữ liệu có hàm lượng văn hóa, một số nhà nghiên cứu
đã đi sâu, khám phá nội dung, tư tưởng thẩm mỹ và phong cách văn
hoá của Nguyễn Du trong hành trình sáng tạo và những đóng góp cụ
thể của ông cho văn học nước nhà. Từ những ý nghĩa và tính chất cấp
thiết ấy, chúng tôi đi vào tìm hiểu đề tài luận án Ngôn ngữ nghệ thuật
Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá như một sự thể nghiệm, biện giải
mối quan hệ ngôn ngữ và văn hoá thông qua các mối quan hệ biện
chứng giữa chúng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
Từ góc nhìn lịch sử phát sinh, tuỳ theo từng mục đích và tính chất
khác nhau của các chuyên luận, tiểu luận nghiên cứu, vấn đề ngôn
ngữ nghệ thuật của Truyện Kiều được xem xét từ nhiều góc độ với nhiều
khái niệm khác nhau. Trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam (tập
3) của nhóm tác giả Đại học Sư phạm, Lê Trí Viễn đã cho rằng “Tác
giả Truyện Kiều cũng tiếp tục truyền thống vay mượn văn học Trung
Quốc đã có từ lâu. Hoặc lấy ngay những thành ngữ chữ hán, hoặc
thu gọn những điển cố trong văn học Trung Quốc thành những thành
ngữ bằng tiếng Việt Nam, hoặc chuyển hình ảnh trong thơ Trung
Quốc sang thơ Việt Nam”. Nguyễn Lộc trên Tạp chí Văn học số 11
năm 1965 với bài viết Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều và tiếp
tục trong công trình Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII hết thế
kỷ XIX) đã khảo sát nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du ở các
phương diện như từ Hán Việt, điển cố, thi liệu
Tiếp tục những kết quả nghiên cứu của Nguyễn Lộc, Đào
Thản khẳng định: Ngôn ngữ Truyện Kiều nói chung không có vay
mượn xa lạ và cầu kì như Cung oán ngâm khúc, không có cái đài các

quá ư lộng lẫy nhưng bề bộn rườm rà của Hoa tiên hay đẽo gọt vụng về
của Sơ kính tân trang. Quả thật ngôn ngữ Truyện Kiều gần với thôn
ca hơn cả.
Về vấn đề ngôn ngữ Truyện Kiều, chúng tôi nhận thấy, những
khái quát về giá trị ngôn ngữ của tác phẩm này đã có những đánh giá
cụ thể bằng nhãn quan thẩm mỹ mang tính định lượng, bằng những số
liệu thống kê khá cụ thể và chi tiết, cụ thể có: Từ điển Truyện Kiều của
Đào Duy Anh, Thi pháp Truyện Kiều của Trần Đình Sử, Tìm hiểu từ
ngữ Truyện Kiều của Lê Xuân Lít, Từ ngữ Việt và từ ngữ Hán Việt
trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều của Nguyễn Thuý Hồng, Tiếp
cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa của Lê Nguyên Cẩn
2.2. Nghiên cứu ngôn ngữ văn nghệ thuật Truyện Kiều từ góc
nhìn văn hoá
Mai Quốc Liên trong bài viết Dòng bác học và dòng bình dân
trong ngôn ngữ Truyện Kiều (1966) đã cho rằng: “Nguyễn Du là một
nhà thơ vô song đã đóng góp rất nhiều vào ngôn ngữ văn học dân
tộc. công lao của ông trong việc kế thừa một cách sáng tạo ngôn ngữ
dân gian và trong việc sử dụng tài tình ngôn ngữ văn học Trung
Quốc. Thành tựu tuyệt vời của ông trong việc làm phong phú, làm
trong sáng ngôn ngữ văn học thế kỷ XIX đã có ảnh hưởng sâu xa và
lâu dài đến sự phát triển ngôn ngữ văn học dân tộc ta”. Sau Mai
Quốc Liên, Lê Đình Kỵ cũng khảo sát Sắc thái bác học, sắc thái bình
dân và tính thống nhất của ngôn ngữ Truyện Kiều, ông cũng thống
nhất quan điểm “làm thế nào kết hợp giữa hai thành phần đó trong cùng
một tác phẩm mà không có sự phân ly, chắp nối. Hoàn cảnh mỹ học cụ
thể lúc bấy giờ cho phép sự thống nhất hai thành phần ấy trong một sự
kết hợp biện chứng, hữu cơ”.
Về ngôn ngữ bình dân, nhất là lớp từ ngữ dân tộc qua ca dao, tục
ngữ, lối nói khẩu ngữ, từ địa phương đã được các tác giả Hoàng Hữu
Yên trong Cái hay, cái đẹp của tiếng Việt trong Truyện Kiều, Phạm

Đan Quế trong Về những thủ pháp nghệ thuật trong văn chương
Truyện Kiều, Thế giới nghệ thuật Truyện Kiều đã có những kết
luận cơ bản.
Qua một số hướng tiếp cận văn hoá đã đề cập trên, chúng tôi cho
rằng việc khảo sát hệ thống ngữ liệu mang hàm nghĩa văn hoá trong
ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm nói chung và Truyện Kiều nói riêng
là một vấn đề hấp dẫn và cần có sự đầu tư thỏa đáng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn chúng tôi là hệ thống
ngữ liệu bác học và bình dân mang hàm nghĩa văn hoá trong ngôn
ngữ nghệ thuật Truyện Kiều.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là mối quan hệ giữa ngôn ngữ và
văn hoá, những ảnh hưởng của văn hoá bác học, văn hoá Hán và văn
hoá bình dân, văn hoá Việt trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều.
3.3. Văn bản khảo sát, đối chiếu và thống kê
Văn bản Truyện Kiều được khảo sát trong luận văn của chúng tôi
là bản Truyện Thuý Kiều (1925, tái bản 1953) do Bùi Kỷ và Trần
Trọng Kim hiệu khảo.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi sẽ tiến hành thống kê
cụ thể các thành phần từ ngữ về quy mô, số lượng, tỷ lệ của các thành
phần ngữ liệu bác học, bình dân trong Truyện Kiều, so sánh giữa
Truyện Kiều với một số truyện thơ Nôm khác.
5. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp tiếp cận văn hóa đối
với tác phẩm văn học, Phương pháp thống kê, phân loại và so sánh;
Phương pháp phân tích miêu tả; Phương pháp phân tích logic;
Phương pháp tổng hợp, khái quát hoá
6. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nhiệm vụ cơ bản của luận văn là tiến hành phác hoạ một cách
chân thực bức tranh văn hoá, quan niệm văn hoá, một thế giới trữ
tình của Nguyễn Du và Truyện Kiều của ông.
7. Những đóng góp của luận án
Việc tìm hiểu các tầng nghĩa bề nổi, lớp trầm tích văn hoá ẩn dấu
bên trong hệ thống ngôn ngữ thể loại truyện Nôm là một hướng giải
mã văn hoá khá mới mẻ, góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu
và giảng dạy truyện thơ Nôm trong nhà trường cũng như trong giới
học thuật.
8. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Dẫn nhập, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục,
luận án được chia thành 03 chương.
Chương 1. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA
NHÌN TỪ QUAN NIỆM THẨM MỸ TRUNG ĐẠI
1. 1. Ngôn ngữ với văn chương và văn hóa
1.1.1. Ngôn ngữ và văn chương từ góc nhìn văn hóa
Trong dòng chảy văn hoá của một dân tộc, với những chức năng cơ
bản của mình, ngôn ngữ không chỉ là phương tiện, là công cụ tư duy,
giao tiếp, lưu trữ… mà nó còn là chất liệu cơ bản để xây dựng nên thế
giới nghệ thuật thấm đẫm những sắc màu văn hoá của cả một dân tộc,
một thời đại hay một cá nhân văn hoá cụ thể - nhà văn. Bên cạnh đó,
với tư cách là mạch ngầm văn hoá, ngôn ngữ còn là một trong những
yếu tố cấu thành văn hoá, có sức lan toả và làm sáng tỏ những tính chất
trội bật của một nền văn hoá trong đời sống xã hội của một dân tộc.
1.1.2. Sự tác động của ngôn ngữ đối với văn hoá
Ngôn ngữ đã góp phần không nhỏ trong việc phản ánh, thể
hiện và phát triển những giá trị, những yếu tính cốt lõi của văn hoá.
Nó là thước đo nhân bản của xã hội và con người. Ngôn ngữ - một
hiện hữu vật chất căn bản – sẽ giúp cho văn hoá và các giá trị căn bản
của nó sẽ khúc xạ, ngấm sâu và dần hình thành chiều sâu văn hoá,

phong cách văn hoá của từng cá nhân trong quá trình tồn tại của
mình.
1.1.3. Ngôn ngữ với vấn đề bảo tồn, xây dựng và phát triển văn hóa
Với tư cách là chất liệu lịch sử, ngôn ngữ đóng vai trò cốt tuỷ
trong sáng tạo văn chương, nghệ thuật. Với tư cách là một công cụ
giao tiếp và tư duy, ngôn ngữ đã thể hiện chức năng cơ bản trong sự
phát triển văn hoá tinh thần của con người.
Sự biến đổi, phát triển ngôn ngữ luôn luôn song hành với biến đổi
và phát triển văn hoá. Muốn nghiên cứu sâu về văn hoá, khảo sát hàm
nghĩa của văn hoá trong tập quán giao tiếp và văn chương nghệ thuật
của một dân tộc phải nghiên cứu ngôn ngữ và tất nhiên muốn đi sâu
vào ngôn ngữ phải chú tâm đến văn hoá.
1.2. Hàm nghĩa văn hóa của ngữ liệu trong truyện Nôm bác
học
1.2.1. Khái niệm Ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm
bác học
Trong phạm vi hạn hẹp của tư liệu hiện có, theo cách hiểu của
chúng tôi, ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ tác phẩm văn học cổ
điển Việt Nam là hệ thống từ ngữ có nguồn gốc từ văn hoá bác học,
bình dân, có sự biểu hiện sinh động về ngữ nghĩa, góp phần hình thành,
phản ánh thế giới nghệ thuật của tác phẩm và đặc trưng tư tưởng, tư
duy văn hoá - nghệ thuật của nhà nghệ sỹ. Trong nghiên cứu tác phẩm
văn học thời trung đại, việc sử dụng hàm nghĩa văn hoá của từ ngữ
như một khái niệm công cụ đã mang lại cho người đọc những phương
thức tiếp cận mới và góp phần gợi mở những ý nghĩa, biểu tượng văn
hoá đặc của văn học cổ điển.
1.2.2. Hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật
truyện Nôm bác học
Trong lịch sử văn học Việt Nam, ngữ liệu văn hoá là lớp từ ngữ
có tính văn hoá cao trong các tác phẩm văn học cổ điển, là những hệ

thống mã khoá nghệ thuật cần có sự phân tích, biện giải. Nó bao gồm
một hệ thống những từ, ngữ, kiểu diễn ngôn, tứ thơ, đặc điểm ước lệ,
lối nói uyển ngữ từ cú mỹ lệ của thơ ca cổ điển Trung Quốc. Bên
cạnh đó, nó còn là hệ thống những từ ngữ được thoát thai từ văn hoá,
văn học dân gian Việt Nam, từ vốn kinh nghiệm dân gian qua thành
ngữ, tục ngữ hay hệ thống hư từ, từ láy trong tiếng Việt. Lớp từ ngữ
này đã thể hiện một trình độ tiếp thu văn hoá, chiều sâu của kinh
nghiệm sống mà nhà thơ muốn gửi gắm vào trong thi phẩm của mình.
1.2.3. Giá trị thẩm mỹ của ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm văn
chương cổ điển Việt Nam nhìn từ góc độ văn hoá
Khảo sát hệ thống ngôn ngữ tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam
nhất là truyện thơ Nôm bác học, hệ thống thi văn liệu, điển cố, thành
ngữ Hán Việt, từ ngữ xã hội, thuật ngữ luôn là những nội dung quan
trong. Nó không chỉ là những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn mà còn là
những rào cản nghệ thuật đối với người đọc. Khi tiếp cận văn hoá với
những ngữ liệu này, người đọc sẽ giải thích được tính hợp lý vốn có
để những ngữ liệu này có thể tồn tại được, tức là người đọc có thể
phân tích và nêu bật nét nghĩa hư chỉ của ngữ liệu.
Có thể nói, tham chiếu từ góc độ văn hoá, chúng ta dễ dàng nhận thấy
ngôn ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm văn chương cổ điển Việt
Nam không chỉ là một công cụ giao tiếp đặc thù của nhà văn đối với
bạn đọc mà nó đã trở thành một hình thức giao tiếp văn hoá đặc thù.
1.3. Ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm – Tấm gương phản chiếu
văn hóa
1.3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm, một hình thức giao
tiếp đặc thù của văn học cổ điển Việt Nam
Trong quá trình hành chức của nó, hệ thống ngữ liệu đã đóng vai
trò to lớn và góp phần hình thành tính văn hoá, khả năng đa nghĩa của
ngôn ngữ truyện Nôm. Đồng thời, cách thức liên tưởng và sử dụng
ngữ liệu cũng tạo nên tính chất phức điệu, những tình điệu thẩm mỹ cổ

điển mang tính ngữ cảnh của thể loại truyện Nôm, xu hướng cao nhã,
cảm thức văn hoá của tác giả, xã hội và thời đại.
Bản thân nó có thể tạo nên một tiềm năng văn hoá mà mỗi độc giả
khi tiếp nhận sẽ tự tái tạo những mô thức riêng, tuỳ thuộc vào “tầm
đón nhận” và chiều sâu văn hoá của mỗi cá nhân.
1.3.2. Một số đặc trưng cơ bản của từ ngữ mang hàm nghĩa
văn hóa trong truyện Nôm
Về phương diện nội dung, ý nghĩa khái quát cao và đậm nét
tượng trưng của lớp từ ngữ Hán Việt đã tạo nên tính hàm súc, cô
đọng, tiết giản. Đặc tính này đã hỗ trợ đắc lực cho các tác giả tổ
chức ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm theo thi pháp văn học cổ
trung đại.
Xét ở phương diện nghệ thuật, các ngữ liệu văn hoá trong ngôn từ
nghệ thuật đã phát huy được tính năng động vốn có của nó: tính thẩm
mỹ và đăng đối. Tính khách quan của các thi liệu văn hoá thích hợp
với việc nhấn mạnh các sắc thái mơ hồ, trang trọng và nó “không
thích hợp với việc cụ thể hoá đối tượng phản ánh nhưng nó lại vô
cùng thích hợp khi ta muốn vĩnh viễn hoá sự việc, đẩy lùi nó về thế
giới ý niệm. Nó cấp cho ngôn ngữ cái vẻ dứt khoát, đanh thép của
những chân lý vĩnh viễn ”.
1.4. Quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán và Truyện
Kiều
1.4.1. Cơ sở hình thành quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du
Về cơ sở hình thành quan niệm thẩm mỹ Nguyễn Du, chúng ta có
thể hình dung qua mấy căn cứ sau: Thứ nhất, Nguyễn Du đã sinh
trưởng trong một giai đoạn lịch sử khủng hoảng của chế độ phong
kiến Việt Nam và bi kịch lịch sử dân tộc. Thứ hai, Nguyễn Du sinh ra
ở phường Bích Câu trong thành Thăng Long, một địa đàng nghệ
thuật thời bấy giờ. Bên cạnh những ảnh hưởng của quê hương xứ
Nghệ giàu truyền thống thi ca, sự tác động của một văn phái lừng lẫy

ở mảnh đất Hồng Lĩnh cũng là điều đáng nói. Thứ ba, từ mạch nguồn
văn hoá gia đình, phẩm chất tài hoa của người cha và tư chất nghệ sĩ
của người mẹ đã ảnh hưởng không ít đến tư tưởng thẩm mỹ của ông.
Thứ tư, Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân khi đề tự Truyện
Kiều đã viết: “Đôi mắt nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ đến ngàn
đời”. Người xưa đã chết vì kẻ tri âm nên đã thốt lên những lời tri kỷ
ấy vậy. Mộng Liên Đường quả là người thấu hiểu tâm sự của Nguyễn
Du và phong cách triết nhân của thi nhân.
1.4.2. Sự thể hiện quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du trong
thơ chữ Hán và Truyện Kiều
Một là, quan niệm thẩm mỹ của ông được bộc lộ rõ nét qua cái
nhìn về cuộc đời và con người. Nguyễn Du đã tạo nên những cơ sở
triết học, mỹ học để triển khai tư tưởng nhân sinh của mình theo
hướng kết hợp Nho, Phật và Lão trên nền tảng tâm thế Việt: lấy sự
cảm thương, đồng điệu làm điểm tựa cho những nhận định về nhân
thế. Hai là, Nguyễn Du đã xem thiên nhiên như một cõi thiêng, một
chốn đi về của tâm hồn. Ba là, quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du
được thể hiện qua sự minh triết của con người thanh cao, u uẩn.
Nguyễn Du đã tuân thủ nguyên lý minh triết của Phật giáo và sắc thái
duy tình của người Việt. Bốn là, nhà thơ còn quan tâm đến bản chất,
chức năng của văn chương.
Chương 2. HỆ THỐNG NGỮ LIỆU VĂN HÓA TRONG NGÔN
NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU
2.1. Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hóa Hán, bác học và văn
hoá Việt, bình dân đối với hệ thống ngữ liệu trong ngôn ngữ nghệ
thuật Truyện Kiều
2.1.1.Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hoá Hán, văn hoá
bác học đối với hệ thống ngữ liệu trong ngôn ngữ nghệ thuật
Truyện Kiều
Dấu ấn thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu (là những dẫn chứng, dẫn

liệu ngôn ngữ, nó có thể được trích dẫn, khai thác phục vụ cho quá
trình nghiên cứu về nội dung, nghệ thuật của một tác phẩm) có nguồn
gốc từ văn hoá bác học, văn hoá Trung Hoa đã ảnh hưởng trực tiếp đến
ngôn ngữ nghệ thuật truyện thơ Nôm bác học. Nguyễn Đức Tồn trong
Đặc trưng văn hoá – dân tộc của ngôn ngữ và tư duy gọi đó các ngữ
liệu ấy là “những hiện tượng văn hoá đặc tồn” hay “các đơn vị đặc
văn hoá”.
Khảo sát hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật
Truyện Kiều, chúng tôi nhận thấy, các dạng thức ngữ liệu văn hoá
được các tác giả sử dụng khá đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, xét
từ phương diện nguồn gốc, các ngữ liệu văn hoá được sử dụng trong
ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm bao gồm ngữ liệu nguyên dạng
(ngữ liệu Hán Việt) và ngữ liệu được chuyển dịch (ngữ liệu bán Hán
Việt, thuần Việt).
2.1.2. Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hoá Việt, văn hoá
bình dân đối với hệ thống ngữ liệu trong ngôn ngữ nghệ thuật
Truyện Kiều
Trong ngôn ngữ Truyện Kiều, ngoài hệ thống từ cổ, từ địa
phương, từ láy thì lớp từ ngữ có phong cách khẩu ngữ quần chúng
cũng được xem là những ngữ liệu thuần Việt đặc chất văn hoá bình
dân. So với lớp từ ngữ Hán Việt, lớp từ ngữ này vô cùng sinh động,
nhiều dáng vẻ và luôn được bổ sung không ngữ qua các thế hệ, thời
đại văn hoá.
Theo chúng tôi, sắc thái bình dân trong ngôn ngữ Truyện Kiều là
những nét, yếu tố thẩm mỹ được gợi lên thông qua hệ thống những
thành ngữ, tục ngữ, ca dao, hệ thống từ ngữ thuần Việt, hoặc có yếu
tố Hán Việt với một lối diễn đạt bình dị, đơn giản đậm chất khẩu ngữ
trong sinh hoạt của người Việt. Nó được Nguyễn Du sử dụng,
chuyển dẫn và khái quát một cách thần tình, đích đáng và nhuần
nhuyễn trong hệ thống ngôn ngữ Truyện Kiều.

2.1.3. Đặc trưng thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu văn hóa trong ngôn ngữ
nghệ thuật Truyện Kiều
2.1.3.1. Đặc trưng thẩm mỹ của các ngữ liệu văn hoá Hán,
bác học trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
Trong Truyện Kiều, cách sử dụng và bố trí ngữ liệu văn hoá của
Nguyễn Du vừa hấp dẫn, vừa chuẩn mực đồng thời còn thể hiện cá
tính sáng tạo của nhà thơ. Thông qua các ngữ liệu đã được chuyển
dịch, chuyển dẫn một cách khéo léo, người tiếp nhận có thể tìm thấy
được vẻ đẹp về thế giới hình tượng phong phú, sinh động được diễn
đạt bằng nghệ thuật ẩn dụ, biểu trưng, uyển ngữ của văn cách trung
cổ. Bên cạnh tính điển phạm, tập cổ, đăng đối , hệ thống ngữ liệu
văn hoá trong ngôn Truyện Kiều nói riêng đã thể hiện tính trang nhã,
uyên bác phù hợp với tính chất bác học trong quan niệm xưa.
2.1.3.2. Đặc trưng thẩm mỹ của các ngữ liệu văn hoá Việt,
bình dân trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
Với hệ thống từ ngữ bình dân, tác giả dường như lách nhẹ, đi sâu
vào chân tơ kẽ tóc của những phẩm cách, ngoại hình của các nhân vật
phản diện. Trong ngôn ngữ Truyện Kiều, chúng tôi thống kê được
332 thành ngữ được sử dụng nguyên mẫu và 113 thành ngữ tách xen
và được vận dụng một cách sáng tạo. Truyện Kiều đánh dấu một
bước phát triển mới về chất, có ý nghĩa đặc biệt trong việc học tập
thơ ca dân gian và ngôn ngữ quần chúng của nhà thơ. Nguyễn Du vận
dụng khẩu ngữ, thành ngữ, tục ngữ; trong đó thành ngữ được vận
dụng nhiều nhất.
Lớp từ vựng khẩu ngữ của quần chúng đã đi vào thơ Nguyễn Du
một cách chan hoà, dung dị và nhẹ nhàng, giữ một vị trí đặc biệt quan
trọng. Với 1.736 lượt xuất hiện như vây, hệ thống hư từ không chỉ thể
hiện sự linh hoạt trong việc thể hiện cách sử dụng hư từ mà còn góp
phần làm đa dạng hoá các lớp từ trong ngôn ngữ tác phẩm, thể hiện
tính dân dã, khẩu ngữ.

2.2. Hệ thống ngữ liệu văn hóa bác học và bình dân trong ngôn
ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
2.2.1. Khảo sát và nhận xét về hệ thống ngữ liệu văn hóa bác học
Khảo sát trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, từ quan điểm và
nội hàm khái niệm ngữ liệu văn hoá đã được thống nhất, trong tổng
số 972 từ ngữ Hán Việt thống kê được, chúng tôi đã thống kê được
626 ngữ liệu văn hoá nguyên dạng chiếm khoảng 67,3% từ ngữ Hán
Việt xuất hiện trong Truyện Kiều và 169 ngữ liệu chuyển dịch, mô
phỏng, chiếm tỷ lệ 39,5 % so với số lượng 440 từ ngữ Việt được
chuyển dẫn từ văn hoá bình dân và bác học mà tác giả Nguyễn Thuý
Hồng đã khảo sát.
Từ kết quả thống kê, chúng ta có thể nhận thấy, dù ở dạng thức
nào, ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều đều
phong phú, đa dạng. Trong hệ thống này, các thuật ngữ văn hoá, tôn
giáo, chính trị, quân sự đặc trưng của xã hội phong kiến chiếm một
tỷ lệ tương đối lớn (384 ngữ liệu nguyên dạng Hán Việt; 60 ngữ liệu
chuyển dịch (bán Hán Việt) và thuần Việt). Trong khi đó, các ngữ
liệu có nguồn gốc từ kinh truyện (145 nguyên dạng, 61 chuyển dịch),
điển cố thi liệu, nhân danh, địa danh cũng chiếm một số lượng tương
đối (69 nguyên dạng, 08 chuyển dịch). Sự có mặt của hệ thống ngữ
liệu này đã góp phần khẳng định những yếu tố văn hóa bác học đã
ảnh hưởng một cách sâu sắc trong ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm.
Tuy sự phân chia nguồn gốc theo các thành phần đã nêu tuy chỉ là
một sự quy ước tương đối, nhưng nó cũng có thể đảm bảo cho việc
nhận thức ngữ liệu được dẫn dụng thêm rõ ràng, phản ánh trình độ
Hán học uyên bác và kế thừa, học tập cổ nhân của Nguyễn Du trong
quá trình sáng tạo trong tác phẩm. Nó góp phần làm đa dạng hoá
thành phần kiến tạo nên vẻ đẹp, chiều sâu văn hoá của ngôn ngữ nghệ
thuật Truyện Kiều.
2.2.2. Khảo sát và nhận xét về hệ thống ngữ liệu văn hóa

bình dân
Riêng Truyện Kiều, trong tổng số 1102 ngữ liệu được khảo
sát, số lượng 445 thành ngữ được sử dụng là một con số khá lớn. Cụ
thể là 170 thành ngữ có xuất xứ từ văn học dân gian Việt Nam, 162
thành ngữ có xuất xứ từ văn học, văn hoá bác học Trung Hoa và 113
thành ngữ tạo mới. Tât nhiên trong số này, 332 thành ngữ được sử
dụng nguyên dạng và 113 thành ngữ được vận dụng sáng tạo, tách
xen như một phương tiện tu từ mà không mất đi vẻ cân đối, bóng bẩy
của câu thơ. Các số liệu về từ ngữ được so sánh và phân tích trên đã
góp phần thể hiện một bức tranh ngôn ngữ đa dạng với nhiều thành
phần khác nhau trong ngôn ngữ Truyện Kiều (qua so sánh đối chiếu
với Hoa Tiên, Lục Vân Tiên). Ngoài, cùng với sự kết hợp hài hoà
giữa hai yếu tố văn hoá bác học và bình dân trong ngôn ngữ Truyện
Kiều, sự trội bật của ngôn ngữ bình dân đã nâng cao giá trị văn hoá,
thẩm mỹ của ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm.
2.3. Nghệ thuật sử dụng ngữ liệu văn hóa trong ngôn ngữ nghệ
thuật Truyện Kiều
2.3.1. Hệ thống ngữ liệu văn hoá được chuyển dẫn tự nhiên,
biến hoá và thích hợp với nội dung ngữ cảnh
Hệ thống mỹ từ văn hoá trong Truyện Kiều phần lớn là các ngữ
liệu có chiều hướng thiên về quá khứ. Nó được thể hiện qua hàng loạt
các từ ngữ thi ca, dẫn ngữ, thi liệu, điển cố mà chúng tôi gọi chung
là ngữ liệu văn hoá.
Với ngôn ngữ bác học trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng
một hệ thống ngữ liệu mang tính nghiêm trang, tôn kính để phác họa
những tính cách hoặc miêu tả tính cách nhân vật. Với ngôn ngữ bình
dân, ông thường sử dụng hệ thống này với các nhân vật phản diện,
mang tính chất phê phán.
2.3.2. Hệ thống ngữ liệu văn hoá được vận dụng và chuyển dẫn một
cách sáng tạo

Bên cạnh từ thuần Việt, hư từ, từ láy… nhưng tiểu hệ thống từ
ngữ mang sắc thái bình dân, vốn từ địa phương là một trong những
phương tiện nghệ thuật giúp Nguyễn Du thể hiện tối ưu nội dung và
nghệ thuật của Truyện Kiều. Nhờ vai trò của ngôn ngữ và văn hoá mà
Nguyễn Du đã chuyển được từ một cốt truyện giản đơn - Kim Vân
Kiều truyện của Trung Quốc thành một truyện thơ đặc sắc, phù hợp
với tâm tư, tình cảm của con người Việt Nam.
Từ ngữ văn hoá bình dân, bác học trong ngôn ngữ Truyện Kiều đã
Nguyễn Du dùng một cách hết sức hợp lý. Ở đó cái giá trị cá thể hoá
độc đáo nhất của nó được sử dụng và thể hiện rõ. Cũng cần phải thấy
rằng sự xuất hiện của những từ ngữ văn hoá ấy phù hợp với cấu trúc
của câu thơ lục bát, hợp cả về nội dung lẫn hình thức và âm hưởng
của nó.
2.3.3. Sự kết hợp hài hoà, chuyển dịch hợp lý của hai hệ thống ngữ
liệu bác học và bình dân trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện
Kiều
Hai hệ thống từ ngữ văn hoá được sử dụng trong ngôn ngữ nghệ
thuật Truyện Kiều chủ yếu thuộc vào các lĩnh vực văn hoá, xã hội
thời trung đại. Hệ thống ngữ liệu văn hoá trong Truyện Kiều không
chỉ khắc hoạ, thể hiện chiều sâu triết mỹ trong tâm hồn, phong thái
của thi nhân, mà còn là những cơ sở thể hiện những tính cách, dòng
suy tưởng của nhân vật, là căn cứ để khái quát văn hoá về phong
cách, ngoại hình của nhân vật, tạo nên những tuyến nhân vật trong
tác phẩm.
Truyện Kiều được lưu truyền rộng rãi trong dân gian là vì Nguyễn Du
đã đã sử dụng một cách nhuần nhuyễn, sinh động, đa dạng, kết hợp một
cách thuần thục hai hệ thống từ ngữ Việt và Hán Việt. Bên cạnh đó,
trong quá trình sáng tạo, tác giả đã tổng hợp, điều hoà những ảnh hưởng
của cả hai khuynh hướng bình dân và bác học.
Chương 3. HIỆU QUẢ THẨM MỸ CỦA HỆ THỐNG NGỮ

LIỆU VĂN HOÁ TRONG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
TRUYỆN KIỀU
3.1. Ngữ liệu văn hoá với sự thể hiện tính triết luận và bức
tranh thời đại qua ngôn ngữ tác giả
3.1.1. Tính triết luận và trầm tích văn hóa qua ngôn ngữ trữ tình
Tính triết luận ở đây được hiểu như là chiều sâu văn hoá, những
tác động văn hoá đến sự lựa chọn, sử dụng các ngữ liệu bình dân, bác
học trong ngôn ngữ trữ tình hay tự sự của tác phẩm, tác giả. Do đó,
theo chúng tôi, tính triết luận của lớp từ ngữ văn hoá trong một tác
phẩm văn học cổ điển được thể hiện ở chỗ nó đã giúp tác giả phản
ánh, nghiền ngẫm về hiện thực, cuộc sống, quan niệm nhân sinh,
miêu tả nhân vật, biểu đạt tình cảm cá nhân qua thế giới nghệ thuật
phong phú, đa dạng.
Giá trị đích thực của hệ thống hình tượng nghệ thuật, của bức
tranh sống động của cuộc sống trở nên phong phú và đa dạng hơn
thông qua hệ thống ngôn ngữ triết lý, trữ tình của nhà thơ. Với cái
nhìn tinh tế, tư duy nhạy bén và lăng kính mỹ thuật độc đáo, Nguyễn
Du đã thể hiện một chiều kích văn hoá phức hợp qua một hệ thống
ngôn ngữ đặc sắc giàu tính triết mỹ, đậm tính trữ tình. Mỗi câu thơ
của ông chẳng những nhuốm một vẻ đẹp u tịch, triết mỹ của thơ ca
phương Đông mà còn hiển hiện những đường nét lung linh của văn
hoá Á Đông.
Trong tư duy nghệ thuật và quan niệm thẩm mỹ của nhà thơ, hai
đặc trưng này chuyển hoá, tác động qua lại một cách thần tình khiến
cho ngôn ngữ trữ tình của nhà thơ luôn sinh động, có tính triết mỹ,
không có sự lặp lại, điều đó tạo nên sự trong sáng, hài hoà của ngôn
ngữ tác giả và nhân vật trong thiên truyện.
3.1.2. Bức tranh văn hóa thời đại qua ngôn ngữ tự sự
Ngôn ngữ tự sự của tác giả, nếu xét từ phương diện kể, được hiểu
là những lời kể của tác giả nhằm nêu lên một vấn đề nào đấy. Để mở

đầu cho tác phẩm của mình, Nguyễn Du đã khai mở một không - thời
gian văn hoá đặc trưng của những tác phẩm trung đại, ấy là không -
thời gian của triều đại, gia cảnh hay bất kỳ một khung cảnh nên thơ,
nơi gặp gỡ, đoàn viên, là phát đoan của nỗi đoạn trường.
Bên cạnh tính phức điệu, ngôn ngữ tự sự của Nguyễn Du còn thể
hiện một khả năng đối chiếu và tương phản đặc biệt. Có thể thấy, qua
lời kể của tác giả và trực tiếp đọc Truyện Kiều, và bất kỳ độc giả nào
cũng đồng ý với nhận định của Hoàng Hữu Yên: Ai mà nén nổi xúc
động trước mọi chặng đường khổ ải của nạn nhân Thuý Kiều…, ai
mà không thấy hiện lên trước mắt là cái “lờn lợt màu da”, với những
lời tục tĩu văng ra từ mồm mụ đĩ Tú Bà! Ai mà không ghê rợn về sự tính
toán bỉ ổi của tên ma cô họ Mã! Cũng chẳng ai quên được cái “lẻn”,
cái “rẽ dây cương” rồi cái “mặt mo” của tên lừa đảo đốn mạt Sở
Khanh…”
3.2. Ngữ liệu văn hóa với sự thể hiện tính triết mỹ trong ngôn ngữ
nhân vật Truyện Kiều
3.2.1. Tính đa thanh, đa giọng điệu qua phong cách Khổng tước văn
và Hải hạc văn
Qua ý kiến của một số nhà nghiên cứu, chúng tôi cũng xem ba bài
thơ trên là những tự sự nghệ thuật của ông, trong đó bài Khổng tước
vũ nói về phong cách ngôn ngữ. Đúng như Lê Quế đã nhận xét:
“Giọng văn của Nguyễn Du trong Đoạn trường tân thanh có cả sự
lộng lẫy như vũ điệu chim công và cả sự thanh thoát, kín đáo, tế nhị
như vũ điệu của loài hạc biển ”. Dựa trên việc lý giải mối quan hệ
giữa hình thức và nội dung đã nêu, trong Truyện Kiều, tác giả đã tạo
nên hai tuyến nhân vật với hai kiểu phát ngôn và giọng điệu riêng
biệt. Giọng điệu và ngôn ngữ của các tuyến nhân vật đó thể hiện rất
phong phú, đa dạng nhưng cũng rất thống nhất: nhân vật nào ngôn
ngữ ấy, ngôn ngữ nào, giọng điệu đó.
3.2.2. Phong cách Khổng tước văn trong ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều

Để nhận chân cái vẻ bề ngoài của Khổng Tước văn tưởng cũng thật
dễ dàng, bởi ngoại diện của nó đã được phô ra hết bên ngoài, nhưng
vấn đề là nhận ra được sự ẩn hàm những tàng độc của nó như mối
quan hệ giữa vẻ đẹp bên ngoài của công lại dung chứa một hệ thống
lục phủ ngũ tạng đầy chất độc. Tác giả đã khéo léo sử dụng mối quan
hệ ấy dưới bộ lông sặc sỡ của Khổng Tước. Trong tác phẩm, ở đâu
Nguyễn Du dùng những lời lẽ khoa trương, ồn ào thì ở đó có sự xuất
hiện của những kẻ chuyên sống bằng xác thịt con người, bằng mưu mô
và thủ đoạn, những lừa dối, sự tầm thường hoặc chưa hoàn thiện. Sau
cái đêm ở trú phường, khi đã ở ngoài mươi dặm trường đình, Thuý Kiều
tâm sự với Vương Bà trước lúc chia tay, đã nhận xét về Mã: “Khác màu
kẻ quý người thanh/ Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn.”
Như đã nói, ngôn ngữ của các nhân vật phản diện, hay có tính tiêu
cực đã phân tích trên đã chỉ rõ vẻ đẹp của những lông công, là những
bước biểu diễn của con công và sự tàng độc của gan công. Có lẽ vũ
điệu đẹp nhất, những chiệc lông đẹp nhất chính là kỹ thuật và giọng
điệu, ngôn ngữ náo nhiệt nhất mà tác giả đã sử dụng để viết về cái
“không khí Từ Hải” (chữ dùng của Xuân Diệu). Từ góc độ ngôn ngữ,
qua thống kê trong 12 câu thơ được trích trên, chúng tôi nhận thấy có
lẽ nhà thơ đã vận dụng hết những gì là tinh tuý nhất của hai lớp ngữ
liệu bình dân và bác học để phục dựng cái không khí rất hào tráng
của đội quân Từ Hải. Sự kết hợp nhuần nhuyễn những ngữ liệu bác
học và bình dân đã giúp nhà thơ như muốn thể hiện cái oai hùng rất
lớn của cái không khí ấy. Chẳng hạn, khi sử dụng từ cô quả (tiếng
vua chư hầu tự xưng), bá vương (vừa ám chỉ những người đứng đầu
có tài năng, sức mạnh, vừa ám chỉ việc làm của Từ Hải giống như Sở
Bá Vương năm xưa) có nguồn gốc từ văn hoá khiêm xưng của Trung
Hoa (cô gia, quả nhân) hoặc thời kỳ lịch sử Hán sở tranh hùng, tả giả
muốn đề cao vai trò to lớn của người anh hùng Từ Hải. Thế nhưng,
cái không khí ấy càng hùng tráng bao nhiêu thì khi sự thất bại của họ

Từ diễn ra, người đọc càng cảm thấy thấm thía bấy nhiêu.
3.2.3. Phong cách Hải hạc văn trong ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều
Xét từ phương diện ngôn ngữ, nếu Thuý Kiều ôn nhu thì Từ Hải
mạnh mẽ, nếu Thuý Kiều thanh cao thì Từ Hải võ biền, nếu Thuý
Kiều đáng thương thì Từ Hải đáng trọng. Nhà nghiên cứu Nguyễn
Lộc chơ rằng: “Ngôn ngữ của Từ Hải là tuyên ngôn của lý tưởng anh
hùng là sự biểu hiện của một phẩm cách anh hùng.”. Khi khẳng định
Từ Hải là kẻ quốc sĩ, Nguyễn Du muốn thông ngôn ngữ của nhân vật
này đề cao phẩm giá củanhững người phụ nữ từng trải, những người
có số phận “cỏ nội hoa hèn”, cách dùng từ “tri kỷ” để nói về Thuý
Kiều đã thể hiện rõ điều đó. Qua ngôn ngữ chân thành của Từ Hải,
Nguyễn Du không những đã sử thi hoá nhân vật này, mà đồng thời
ông cũng phác hoạ thành công bức chân dung một nhân vật anh hùng
xuất chúng, một tâm hồn bầu bạn, một trái tim yêu thương, kính
trọng của Thuý Kiều.
Hiểu văn Nguyễn Du qua Khổng Tước văn chỉ là mới tiếp cận bên
ngoài của cái vẻ hào nhoáng, chỉ thấy được giọng điệu cay độc, mỉa
mai của tác giả dành cho những kẻ độc ác, gian ma nhiều khi được
che đậy trong một lốt vẻ hào hoa, phong nhã. Khi tiếp cận với giọng
Hải Hạc văn, người đọc dường như mới tiếp cận được cái trọn vẹn,
hoàn mỹ của một thiên tài. Vẻ đẹp của Hải Hạc văn được thể hiện
qua ngôn ngữ của các nhân vật chính diện là vẻ đẹp kín đáo, tế nhị và
mộc mạc, thân tình. Qua nhiều đoạn triết lý, độc thoại nội tâm của
những nhân vật như Thuý Kiều, chúng ta mới thấy được dáng vẻ
thâm trầm, kín đáo của thi nhân.
3.3. Âm hưởng của ngôn ngữ văn hoá trong Truyện Kiều đến đời sống
xã hôi, văn chương Việt Nam
3.3.1. Ảnh hưởng của ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều đến đời sống
văn hoá, xã hội Việt Nam
Qua ngôn ngữ văn hoá Truyện Kiều, Nguyễn Du tái hiện một thế

giới nghệ thuật sinh động qua một hệ thống từ ngữ mang tính phúng dụ
sâu sắc, dung chứa những quan niệm văn hóa, văn chương và đậm hơi
thở của cuộc sống. Nó “không chỉ chiếm lĩnh ở đỉnh cao về nghệ
thuật sử dụng tiếng Việt mà còn có vai trò hiếm có trong việc đóng
góp vào kho tàng từ vựng tiếng Việt một hệ thống từ ngữ mới, đi vào
lời ăn tiếng nói hằng ngày của mọi tầng lớp nhân dân.”.
Sau khi ra đời, Truyện Kiều đã thực sự trở thành món ăn tinh
thần cho bao thế hệ người đọc Việt Nam, là một tác phẩm có vị trí
đỉnh cao trong lịch sử phát triển của văn học Việt Nam, là sách giáo
khoa quốc văn cần phải đọc ở các bậc học, là một đối tượng nghiên
cứu chuyên sâu của các chuyên luận khoa học. Cùng với Lục Vân
Tiên ở Nam Bộ, Truyện Kiều đã trở thành hai đại tuyệt phẩm của thể
loại truyện Nôm bác học. Sự ra đời của Truyện Kiều đã góp phần to
lớn làm phong phú đời sống văn hóa dân tộc. “Làm trai biết đánh tổ
tôm, uống trà Chính Thái, xem nôm Thúy Kiều” đã trở thành một nét
văn hóa đặc sắc của người dân Việt. Trong sinh hoạt văn hóa cộng
đồng, những hình thức sinh hoạt như đố Kiều, lẩy Kiều, bình Kiều,
ca tài tử, cải lương liên quan các tuồng tích trong Truyện Kiều đều in
đậm dấu ấn ngôn ngữ văn hoá Truyện Kiều.
Sau Truyện Kiều, không ít người đã nói đến cái gọi là lục bát hậu
Truyện Kiều, Truyện Kiều đọc ngược, văn Kiều, thơ Kiều, bói Kiều,
vịnh Kiều, tập Kiều. Trong những năm gần đây, sau khi thành lập
Hội Kiều học Viêt Nam quy tụ những học giả, chuyên gia Hán Nôm,
người yêu mến Nguyễn Du và Truyện Kiều, các nhà nghiên cứu và
nhà xuất bản Thanh niên lần lượt cho xuất bản các ấn phẩm nghiên
cứu, bình luận về Truyện Kiều trong bộ Tùng thư Truyện Kiều, đây
được xem là một bộ sách góp phần thay đổi diện mạo của “văn hoá
Kiều”. Có thể nói, đây không chỉ là một công việc thuần tuý khoa
học mà còn là một cách thức rất cơ bản khuyến khích việc tuyên
truyền quảng bá “văn hoá Kiều” đến bạn đọc trong và ngoài nước.

3.3.2. Sự lan tỏa và vang vọng của ngôn ngữ nghệ thuật
Truyện Kiều đến đời sống văn chương Việt Nam
Nghiên cứu về vấn đề ảnh hưởng, lan toả và vang vọng của
ngôn ngữ văn hoá trong Truyện Kiều đến đời sống văn chương nghệ
thuật, quá trình sáng tác cũng như các tác phẩm cụ thể của các thế hệ
thi nhân hậu Nguyễn Du, hậu Truyện Kiều, chúng tôi nhận thấy cần
phải xem xét trên hai phương diện. Một là các sáng tác, tác phẩm cụ
thể lấy cảm hứng từ những vấn đề xung quanh câu chuyện về hệ thống
nhân vật, nội dung tư tưởng, nghệ thuật của Truyện Kiều. Hai là sự ảnh
hưởng, tiếp nhận kiểu sáng tác, mô hình sáng tác, kiểu dùng từ đặt
câu có vận dụng các ngữ liệu văn hoá trong Truyện Kiều đến các nhà
văn, nhà thơ sau khi tác phẩm này hành thế. Trong truyền thống văn
chương Việt Nam, đề vịnh về các danh tác là một hiện tượng không
hiếm. Nhà nghiên cứu Lê Thu Yến đã nhận xét, từ góc độ ngôn ngữ
văn hoá, từng câu chữ trong “Truyện Kiều như có hấp lực bắt người
đọc phải làm theo, nỗ lực sáng tạo vì vậy mà có các hình thức lẩy
Kiều, tập Kiều Nhiều cuộc thi tập Kiều với những hình thức khác
nhau được tổ chức từ sau Truyện Kiều ra đời, kéo dài đến bây giờ.”
Nguyễn Văn Y với Thơ vịnh Kiều (1973) là người đầu tiên ý thức
về việc nghiên cứu những ảnh hưởng của ngôn ngữ văn hoá Truyện
Kiều đến giới văn nhân hậu Nguyễn Du. Qua Nguyễn Du và Truyện
Kiều trong cảm hứng thơ đời sau (2001), 126 bài thơ tiêu biểu nhất
lấy cảm hứng từ Nguyễn Du và Truyện Kiều được sưu tuyển. Nhiều
người Việt Nam đã đọc Kiều, ngâm Kiều, thuộc Kiều, rất hay dùng những
từ ngữ, tứ thơ, ngữ điệu thơ, những tâm trạng, tình huống trong Truyện
Kiều để diễn đạt những cung bậc tình cảm cá nhân. Hiện tượng này các
nhà nghiên cứu thường gọi là lẩy Kiều. Đọc các bài viết, bài nói chuyện
và thơ văn của chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta thấy Người rất yêu Truyện
Kiều và hay lẩy Kiều - như một ứng xử văn hoá trước bạn bè quốc tế.
KẾT LUẬN

1. Lịch sử tiếp nhận ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ góc nhìn
văn hoá tuy không có bề dày như nhiều hướng tiếp cận khác nhưng
nó đã mở ra được một hướng nghiên cứu mới về một đối tượng đặc
biệt của văn học dân tộc. Khảo sát hệ thống ngôn ngữ trong tác phẩm
văn học trung đại nói chung và ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều nói
riêng từ góc độ văn hoá là một công việc vô cùng lý thú và hấp dẫn.
Với hệ thống ngữ liệu văn hóa, chúng ta có thể đi vào tìm hiểu bức
tranh “muôn hình muôn vẻ” về thế giới nghệ thuật, xã hội, con người
và những cách tân của tác giả trong quá trình chiếm lĩnh hiện thực,
những trải nghiệm của một thi nhân, triết nhân luôn nặng nợ với đời.
2. Vấn đề hàm nghĩa văn hoá và ngôn ngữ văn hoá trong tiếng
Việt tuy đã được quan tâm nghiên cứu từ lâu, song sự thống nhất
quan điểm nghiên cứu về nội hàm và ngoại diên của các khái niệm
này vẫn chưa được cụ thể hoá, khu biệt hoá. Trong bối cảnh chung
đó, việc đề xuất một cách hiểu sơ khởi về hai khái niệm này của tác
giả luận văn đã góp phần xây dựng nên hệ quy chiếu để phân loại và
biện giải về hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ Truyện Kiều
nói riêng và ngôn ngữ truyện Nôm nói chung. Khi trở thành một yếu
tố quan trọng của ngôn ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm văn học cổ
điển Việt Nam, hệ thống từ ngữ này đã phát huy tối đa tiềm năng vốn
có của nó, giúp cho nhà nghệ sỹ có thể diễn đạt uyển chuyển những
khái quát nghệ thuật ở cấp độ cao.
3. Hệ thống từ ngữ văn hóa trong Truyện Kiều đã tồn tại với tư cách
là một phương tiện đặc thù của ngôn từ tác phẩm. Nguyễn Du đã vận
dụng một cách nhuần nhuyễn, cách tân, sáng tạo, linh động, thần tình,
đích đáng, tự nhiên, gọn gàng, ý vị thanh nhã và thuyết phục người
đọc. Đó còn là nhờ có sự hòa quyện giữa những yếu tố khách quan và
chủ quan theo đặc trưng thi pháp văn học Trung đại, là sự tiếp nhận
những ảnh hưởng từ văn học cổ điển Trung Hoa.
4. Những đặc trưng thẩm mỹ của hệ thống ngôn ngữ văn hóa trong

Truyện Kiều đã có ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình tiếp nhận tác
phẩm trong bối cảnh giao lưu văn hóa. Nó góp phần thể hiện giọng

×