Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về tôn giáo và công tác tôn giáo trong công cuộc đổi mới ở việt nam hiện nay báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.86 KB, 77 trang )

1

MỤC LỤC
Trang
Tóm tắt kết quả nghiên cứu………………………………………………………3
Phần mở đầu……………………………………………………………………….5
Chương 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và cơng tác tôn giáo……… ...10
1.1. Nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và cơng tác tơn giáo...10
1.1.1. Truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam……………………………..10
1.1.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại………………………………………………….11
1.1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về tôn giáo và công tác tôn
giáo……………………………………………………………………………………..13
1.1.4. Phẩm chất và tài năng Hồ Chí Minh……………………………………….17
1.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo…………………19
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất của tơn giáo………………………...19
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chức năng của tơn giáo………………………21
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của tơn giáo…………………………...24
1.2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục đích của tơn giáo………………………..29
1.3. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác tơn giáo……….31
1.3.1. Tư tưởng về quyền tự do tín ngưỡng tơn giáo……………………………..31
1.3.2. Tư tưởng đại đồn kết dân tộc trong cơng tác tơn giáo…………………35
1.3.3. Tư tưởng giải quyết hài hịa vấn đề tơn giáo với lợi ích quốc gia, dân tộc
1.3.4. Tư tưởng về cơng tác vận động quần chúng tín đồ tơn giáo……………43
Chương 2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo
trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng, những định hướng
và giải pháp……………………………………………………………………….49
2.1. Thực trạng của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và cơng
tác tơn giáo trong công cuộc đổi ở nước ta hiện nay…………………………...49
2.1.1. Thành tựu và nguyên nhân………………………………………………......49
2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân……………………………………………….........52
2.2. Những định hướng cơ bản của sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn


giáo và cơng tác tơn giáo trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay…….54
2.2.1. Tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng trong cơng tác tơn giáo…………….54
2.2.2. Phát huy tinh thần đại đồn kết dân tộc trong công tác tôn giáo……..58


2

2.2.3. Nâng cao hiệu quả của công tác vận động quần chúng trong công tác
tôn giáo………………………………………………………………………….................60
2.3. Những giải pháp chủ yếu của công tác tôn giáo…………………………...64
2.3.1. Nâng cao nhận thức của nhân dân về vấn đề tôn giáo và công tác tôn
giáo…………………………………………………………………………………………..64
2.3.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kiện tồn các cơ quan nhà nước
quản lý hoạt động tơn giáo.......................................................................................66
2.3.3. Phát huy bài học kinh nghiệm trong công tác tơn giáo đã được
tích lũy……………………………………………………………………………………….67
2.3.4. Đẩy mạnh cơng tác tư tưởng trong quản lý xã hội về tôn giáo..............68
Kết luận...................................................................................................................71
Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………………………73
Thuyết minh đề tài……………………………………………………………….78


3

TĨM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CƠNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG
Tên đề tài: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và cơng tác tơn giáo trong
công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Mã số:


CS.2011.19.10

Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Ngọc Khá
E-mail:

Tel : 091.802.9.802



Cơ quan và cá nhân phối hợp: Khơng
Cơ quan chủ trì đề tài: Khoa Giáo dục Chính trị, trường Đại học Sư phạm TP. Hồ
Chí Minh.
Thời gian thực hiện: Từ tháng 06/2011 đến tháng 06 năm 2012.
1. Mục tiêu:
Khảo sát và lý giải tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và cơng tác tơn giáo, từ
đó nêu lên sự vận dụng tư tưởng của Người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam
hiện nay.
2. Nội dung chính:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và công tác tôn giáo trong công
cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng, những định hướng và giải pháp
3. Kết quả đạt được:
- Báo cáo khoa học
- Đĩa CD về các tư liệu đã khảo sát
- Bài báo khoa học


4

SUMMARY

RESEARCH ON SCIENCE AND TECHNOLOGY AT UNIVERSITY LEVEL

Project Title: The application of Ho Chi Minh ideology to religion and religious
activities in the process of renovation in Vietnam today
Code Number:

CS.2011.19.10

Coordinator:

Nguyen Ngoc Kha, Ph.D

E-mail:



Tel : 091.802.9.802

Cooperating Institution: No
Implementing Institution: The Political Education Faculty, the Ho Chi Minh City
University of Pedagogy
Duration: From June 2011 to June 2012

1. Objectives:
The Investigation and the explanation of Ho Chi Minh ideology for religion
and religious activities, which show the application of his great ideas in the process
of renovation in Vietnam today.

2. Main contents:
- Ho Chi Minh ideology to religion and religious activities.

- The application of Ho Chi Minh ideology to religion and religious activities
in the process of renovation in Vietnam today: The reality, orientations and
solutions.

3. Results obtained:
- Science report: “The application of Ho Chi Minh ideology to religion and
religious activities in the process of renovation in Vietnam today”
- CD of the materials collected
- Journal article


5

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia thống nhất có nhiều hình thức tơn giáo, tín ngưỡng
khác nhau. Do đặc điểm vị trí địa lý, lịch sử nên sự hình thành, du nhập, số lượng
tín đồ, vai trị xã hội cũng như tác động chính trị của các tơn giáo ở nước ta cũng
khác nhau. Sự tồn tại, hoạt động của các tôn giáo làm phong phú bộ mặt văn hóa
tinh thần của đất nước. Chính vì vậy, ngay từ đầu Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận
dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo vào điều kiện cụ
thể của Việt Nam.
Vấn đề tôn giáo luôn là đề tài nhạy cảm trong đời sống chính trị - tinh thần
của xã hội. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phức tạp, có liên quan và ảnh hưởng
đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, hơn bao giờ hết
vấn đề tôn giáo lại trở nên vô cùng bức bách không chỉ về mặt nhận thức, mà nhất
là về mặt chính trị - xã hội. Tơn giáo có chiều hướng phục hồi, đang phát triển
mạnh mẽ ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tình hình diễn biến theo nhiều
khuynh hướng, góc độ khác nhau, đang đặt ra những vấn đề cần được lý giải trên
cơ sở khoa học cả về lý luận cũng như thực tiễn.

Đặc biệt, trong những năm gần đây, khơng ít học giả tư sản đã xun tạc
quan điểm mác-xít về vấn đề tơn giáo. Nghiêm trọng hơn, các thế lực thù địch và
phản động nhân danh cái gọi là “tự do, dân chủ, nhân quyền” đã dùng “con bài”
tôn giáo để can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia. Chúng lợi dụng tôn
giáo để xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước, nhằm chia rẽ khối đại đồn kết tồn dân tộc. Chính vì lẽ ấy, Đảng ta
đã chỉ rõ: “Tình hình hoạt động tơn giáo cịn có những diễn biến phức tạp,
tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định” [13,45].
Trong cơng cuộc đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi tự do tín
ngưỡng, tơn giáo là một trong những quyền cơ bản của công dân, được pháp luật
bảo hộ. Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta khẳng
định: “Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đồng bào các tơn giáo là bộ phận của khối đồn kết tồn dân tộc”[13,
48] và cần phải “phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tơn
giáo” [13, 49]. Đồng thời Đảng ta nhấn mạnh: “Chăm lo phát triển kinh tế, văn


6

hóa, nâng cao đời sống của đồng bào. Đồng bào có đạo và các vị chức sắc tơn
giáo có nghĩa vụ làm trịn trách nhiệm cơng dân đối với Tổ quốc, sống “tốt đời
đẹp đạo”” [13, 51].
Vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo được Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng,
tơn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo
đức tốt đẹp của các tơn giáo; động viên các tổ chức tơn giáo, chức sắc, tín đồ sống
tốt đời đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến
chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định

của pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những
hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đại đồn
kết tồn dân tộc” [17, 81].
Chính vì thế, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và cơng tác
tơn giáo có ý nghĩa quan trọng trong công tác nghiên cứu lý luận và thực tiễn, góp
phần thực hiện tốt cơng tác tơn giáo của Đảng.
Do đó, tơi chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và cơng
tác tơn giáo trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu
khoa học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trị là kim
chỉ nam cho đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, tư tưởng
Hồ Chí Minh đã trở thành đối tượng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Đặc
biệt, trong đó có nhiều cơng trình nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh về tơn
giáo và cơng tác tơn giáo ở những góc độ khác nhau.
Các cơng trình của các tác giả như Đào Phan, Đạo Khổng trong văn Bác Hồ,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004: Cơng trình này chủ yếu nói đến sự ảnh hưởng
của Nho giáo đối với tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh trong suốt thời gian từ
1921 khi Người giới thiệu Học thuyết Khổng Mạnh trên Tạp chí Cộng sản của Quốc tế
ba cho đến năm 1969; Tác phẩm Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào Cơng giáo do
Hồng Thơng sưu tầm và biên soạn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2004: Tác giả
chủ yếu trích dẫn những bức thư và câu nói của Người khi nói chuyện với
đồng bào Cơng giáo hoặc với các vị chức sắc tơn giáo; Tác phẩm Hồ Chí Minh


7

về vấn đề tơn giáo và tín ngưỡng, Nxb Khoa học xã hội, Hà nội, 1998 đã bàn
về cách tiếp cận của tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo; Tác giả Nguyễn Đức
Lữ với cơng trình Lý luận về tơn giáo và chính sách tơn giáo ở Việt Nam, Nxb

Tơn giáo, 2007 đã tìm hiểu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo
và sự vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh vào việc giải quyết các vấn đề về
tơn giáo, đồng thời trình bày tình hình tơn giáo thế giới và Việt Nam hiện nay,
những bài học mà Đảng và Nhà nước ta rút ra trong q trình xây dựng đường
lối, chính sách về tơn giáo; Cơng trình của Ban tơn giáo Chính phủ Tơn giáo
và công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội, 2008: Các tác giả dành phần lớn cơng trình để trích dẫn tồn bộ những
bức thư, những bài báo của Hồ Chí Minh về tôn giáo và nêu lên những kết
luận quan trọng trong việc quản lý xã hội đối với tôn giáo; Cơng trình của Học
viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2009 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết với vấn đề phát huy sức
mạnh đại đoàn kết tồn dân tộc trong thời kỳ mới, trong đó có bài viết: Hồ Chí
Minh với việc phát huy những giá trị đạo đức tôn giáo của Ngô Vương Anh đã
phân tích phương pháp khai thác các giá trị đạo đức trong tơn giáo của Hồ Chí
Minh để phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Ngồi ra, cịn có hàng loạt các bài viết liên quan đến tưởng Hồ Chí Minh về
tôn giáo và công tác tôn giáo. Chẳng hạn, Bài viết Tìm hiểu phương pháp đồn kết
tơn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Lý Thị Bích Hồng đã phân tích phương
pháp đồn kết tơn giáo của Hồ Chí Minh; Bài viết Đồn kết Cơng giáo – Nét đặc
sắc trong tư tưởng đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh của Nguyễn Đức Lữ đã trình
bày những kinh nghiệm giải quyết vấn đề tơn giáo của Hồ Chí Minh, phương pháp
khai thác sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc của Người; các bài viết Vấn
đề tơn giáo trong tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh của Đặng Văn Thái, Ý kiến
của Hồ Chủ tịch đối với đặc trưng tôn giáo Việt Nam của Đặng Nghiêm Vạn, Một
số quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo của Võ Thanh Bằng,
Vấn đề tơn giáo tín ngưỡng trong tư tưởng Hồ Chí Minh của Đỗ Quang Hưng,…
cũng đều đề cập đến những khía cạnh khác nhau trong tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề tơn giáo và cơng tác tơn giáo.
Có thể nói, có rất nhiều cơng trình, bài viết liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh
về tơn giáo và cơng tác tơn giáo, được khai thác ở những góc độ, phương diện khác



8

nhau. Nhưng những vấn đề cụ thể như tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất, chức năng,
vai trị, mục đích của tơn giáo, các vấn đề mấu chốt của công tác tôn giáo và vận dụng
cụ thể tư tưởng của Người trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay thì các cơng
trình cịn thể hiện một cách mờ nhạt.
Chính vì vậy, cơng trình này góp phần làm rõ hơn và hệ thống hóa nội dung
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, từ đó đưa ra những định hướng
cơ bản và những giải pháp chủ yếu trong sự vận dụng tưởng Hồ Chí Minh vào sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo
và cơng tác tơn giáo, từ đó nêu lên những định hướng cơ bản và những giải pháp
chủ yếu trong việc vận dụng tư tưởng của Người trong công cuộc đổi mới ở Việt
Nam hiện nay.
Để thực hiện được mục đích trên đây, đề tài cần phải thực hiện những nhiệm
vụ chủ yếu sau:
Một là, làm rõ cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và cơng
tác tơn giáo.
Hai là, trình bày những tư tưởng cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn
giáo và công tác tôn giáo.
Ba là, nêu lên thực trạng của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo
và cơng tác tơn giáo trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Bốn là, nêu lên những định hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu của sự vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo của Đảng và Nhà
nước ta trong công công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của cơng trình là Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa

duy vật lịch sử, quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng sản
Việt Nam về tôn giáo và công tác tôn giáo.
Phương pháp xuyên suốt mà tác giả sử dụng là phương pháp biện chứng duy
vật; ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp thống nhất giữa phân tích và
tổng hợp, lịch sử và lơgíc, khái quát hóa, trừu tượng hóa, hệ thống hóa,....


9

4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận, cơng trình góp phần làm rõ và sâu sắc thêm tư tưởng Hồ Chí
Minh về tơn giáo và cơng tác tơn giáo. Do vậy, nó có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng trong việc học tập mơn học Tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung.
Về mặt thực tiễn, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và cơng
tác tơn giáo góp phần chứng minh tính đúng đắn và phù hợp của các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước trong công tác tôn giáo. Đồng thời, nó cịn có ý
nghĩa khuyến nghị trong việc giải quyết các vấn đề tôn giáo ở nước ta hiện nay.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, cơng trình bao
gồm 2 chương và được chia thành 6 tiết.


10

Chương 1
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và công tác tôn giáo
1.1. Nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và cơng tác tơn
giáo
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và

cơng tác tơn giáo nói riêng có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa của dân tộc Việt
Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại, chủ nghĩa Mác – Lênin và phẩm chất, tài năng
Hồ Chí Minh.
1.1.1. Truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam
Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình thành nên những giá trị
truyền thống hết sức đặc sắc của dân tộc Việt Nam, trở thành tiền đề tư tưởng xuất
phát hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và cơng tác tơn giáo. Theo
Người, “…khơng phải cái gì cũ cũng bỏ hết, khơng phải cái gì cũng làm mới. Cái
gì cũ mà xấu, thì phải bỏ…Cái gì cũ mà khơng xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa
đổi cho hợp lý… Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm…” [48, 94]. Với tinh
thần ấy, Hồ Chí Minh đã trở thành “người Việt Nam hơn bất cứ người Việt Nam
nào”, Người là hình ảnh của dân tộc Việt Nam hôm qua, hôm nay và mãi mãi.
Thứ nhất, là chủ nghĩa yêu nước.
Chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử Việt
Nam, là cơ sở xuất phát và sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng
của Người. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã có q trình lịch sử hàng ngàn năm
với nội dung hết sức phong phú và sâu sắc. Mọi học thuyết đạo đức, tơn giáo từ
nước ngồi du nhập vào Việt Nam đều được tiếp nhận, khúc xạ qua lăng kính của
tư tưởng yêu nước. Hồ Chí Minh khi tiếp cận các học thuyết chính trị, tơn giáo đã
sử dụng lăng kính ấy để tiếp biến những giá trị tích cực thành cái riêng cho dân
tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lịng nồng nàn yêu nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì
tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp
nước” [49, 171 – 172].
Truyền thống u nước đó khơng chỉ là một tình cảm, một phẩm chất tinh
thần, mà đã phát triển thành chủ nghĩa dân tộc chân chính, là cốt cách của lịch sử



11

dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước sẽ biến thành lực lượng vật chất thực sự khi nó ăn
sâu vào tiềm thức và hành động của mỗi người. Chính truyền thống yêu nước đó
đã thúc đẩy người thanh niên Nguyễn Tất Thành đi tìm đường cứu nước. Chính
Hồ Chí Minh đã làm phong phú nội dung của chủ nghĩa yêu nước. Yêu nước, đối
với Người, là gắn liền với yêu nhân dân, là “ham muốn tột bậc là làm sao cho
nước ta hoàn toàn được độc lập, dân ta được hoàn tồn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Thứ hai, tư tưởng nhân nghĩa, đồn kết, tương thân, tương ái.
Đó là những giá trị truyền thống hết sức đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Hồ
Chí Minh đã kế thừa, phát huy sức mạnh bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức,
đồng lịng, đồng minh). Người thường nhấn mạnh, nhân dân ta đã từ lâu sống với
nhau có tình, có nghĩa. Tình nghĩa ấy được Người nâng lên cao đẹp hơn, trở thành
tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà.
Hồ Chí Minh chỉ rõ đời sống mới là phải “cần, kiệm, liêm, chính”, giữ được
thuần phong mỹ tục, “lá lành đùm lá rách”, “đói cho sạch rách cho thơm”, “tối lửa
tắt đèn có nhau”. Nếu một mình no ấm mà để đồng bào xung quanh đói rét… thì
dù giàu cũng không hưởng được. Người khuyên cán bộ, đảng viên khi cư xử với
đồng bào thì cần phải thành thực, thân ái, sẵn lòng giúp đỡ,…
Thứ ba, tinh thần lạc quan, yêu đời, cần cù, thông minh, dũng cảm, sáng tạo.
Trong mn ngàn khó khăn, người Việt Nam ln động viên nhau “chớ thấy
sóng cả mà ngã tay chèo”. Tinh thần lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào sức
mạnh của truyền thống dân tộc, vào sự tất thắng của chân lý và chính nghĩa. Hồ
Chí Minh là một minh chứng cho những phẩm chất quý báu đó.
Như vậy, truyền thống văn hóa dân tộc nói chung là cơ sở thực tiễn trực tiếp
của tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và cơng tác tơn giáo.
1.1.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đơng với các thành tựu
hiện đại của văn minh phương Tây - chính là nét đặc sắc trong quá trình hình

thành nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh nói chung, quan niệm của Người về tơn
giáo và cơng tác tơn giáo nói riêng.
Trong con người Hồ Chí Minh khơng phải là phép tính cộng các nền văn hóa
dân tộc và nhân loại, mà là sự tổng hòa, đúc kết làm một để kiến tạo nên tư chất
của một danh nhân văn hóa thế giới.


12

Hồ Chí Minh tiếp thu văn hóa phương Đơng, chắt lọc những tư tưởng tích
cực của Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo, như yêu thương con người, tu thân dưỡng
tính, hành đạo cứu người, đề cao văn hóa, đạo đức, hiếu học,… Hồ Chí Minh có
cách nhìn mới mẻ và sâu sắc về phạm trù giải thoát trong học thuyết Phật giáo.
Người khẳng định: “Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng
sinh ra khỏi khổ nạn Người phải hy sinh tranh đấu quyết liệt, diệt lũ ác ma,…
Chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích ca, kháng chiến để đưa
giống nịi ra khỏi khổ ải nơ lệ” [48, 197]. Còn Chúa Giê-su “ chỉ lo cứu thế độ
dân, hy sinh cho tự do, bình đẳng” [47, 490].
Bên cạnh đó, tư tưởng Hồ Chí Minh cịn được hình thành trên nền tảng kế
thừa những tư tưởng tiến bộ khác của văn hóa phương Đơng thời kỳ cận đại.
Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, Tôn Dật Tiên (1886 - 1925) xây dựng thuyết
Tam dân với tuyên ngôn "Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc"
tại Trung Quốc. Hồ Chí Minh đã đánh giá cao những đóng góp của chủ thuyết
Tam dân và khẳng định: “Độc lập – tự do – hạnh phúc” là tư tưởng phù hợp với
điều kiện Việt Nam.
Văn hóa phương Tây được Hồ Chí Minh tiếp nhận đồng thời với quá trình
tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, là một phần hết sức quan trọng trong tư tưởng của
Người, xét cả về chiều rộng lẫn chiều sâu tư tưởng. Quá trình bơn ba tìm đường
cứu nước đã giúp Hồ Chí Minh tiếp cận và chịu ảnh hưởng nền văn hóa dân chủ
và cách mạng phương Tây. Những tư tưởng về quyền con người trong Tuyên

ngôn độc lập 1776 của Mỹ; tư tưởng về tự do, bình đẳng, bác ái của các nhà Khai
sáng Pháp,…đóng vai trị quan trọng về mặt lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về tơn giáo và cơng tác tơn giáo.
Nắm được quy luật hình thành và phát triển của văn hóa, Hồ Chí Minh cho
rằng, đã là văn hóa thì phải giao lưu, tiếp thu các giá trị văn hóa của các dân tộc
khác. Người nói: “Ta phải “giữ cốt cách dân tộc, cịn phương Đơng hay phương
Tây có cái gì hay, cái gì tốt là phải học lấy để tạo ra nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa
là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt
Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ”[48, 163].
Tóm lại, Hồ Chí Minh tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại một cách có chọn
lọc và vận dụng tinh hoa đó một cách phù hợp vào điều kiện cụ thể của Việt Nam,


13

vì mục đích khơng chỉ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình, mà cịn góp phần
tích cực vào sự nghiệp giải phóng nhân loại.
1.1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về tôn giáo và công tác tôn
giáo
 Về bản chất của tơn giáo:
Chủ nghĩa Mác- Lênin coi tín ngưỡng, tơn giáo là một loại hình thái ý thức
xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Qua hình
thức phản ánh của tơn giáo, những hiện tượng tự nhiên trở thành lực lượng siêu
nhiên. Điều này đã được Ph. Ăngghen khẳng định: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua
chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở
bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó
những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế” [42,
437].
Khi diễn đạt mối quan hệ của con người với tôn giáo, C.Mác đã dùng các
mệnh đề “tôn giáo là thế giới lộn ngược” và “tôn giáo là sự tự ý thức và tự tri giác

của con người chưa tìm được bản thân”. Chính vì thế, tôn giáo chỉ mất đi khi quan
hệ giữa con người với con người và giữa con người với tự nhiên trở nên hợp lý.
Tín ngưỡng và tơn giáo có sự khác nhau, song lại có quan hệ chặt chẽ mà
ranh giới để phân biệt giữa chúng chỉ là tương đối.
Tín ngưỡng là một khái niệm rộng hơn khái niệm tơn giáo, chẳng hạn, ngồi
tín ngưỡng tơn giáo cịn có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Tín ngưỡng là niềm tin và
sự ngưỡng mộ của con người vào một lực lượng gì đó nói chung. Nhưng ở đây
chúng ta chỉ đề cập đến một dạng tín ngưỡng, đó là tín ngưỡng tôn giáo (mà
thường gọi vắn tắt là tôn giáo).
Tôn giáo là một cộng đồng tinh thần của những người cùng chung một tín
ngưỡng, thống nhất với nhau bởi một hệ thống giáo lý, giáo luật và tổ chức giáo
hội.
Mê tín dị đoan là biểu hiện của sự lạm dụng niềm tin tôn giáo, là niềm tin
của con người vào các lực lượng siêu nhiên đến mức độ mê muội, cuồng tín với
những hành vi cực đoan, thái quá, phản văn hóa và gây ảnh hưởng tiêu cực đến
cuộc sống của con người và xã hội. Vì vậy, cùng với việc tơn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân thì đồng thời phải loại bỏ mê tín dị đoan
nhằm làm lành mạnh hóa đời sống xã hội.


14

Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự
nhiên và lịch sử xã hội nhất định. Xét về bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã
hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.
Tuy nhiên, tơn giáo cũng chứa đựng trong nó một số nhân tố còn phù hợp.
C.Mác khẳng định: “ Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo
nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn
giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới khơng có trái
tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự khơng có tinh thần. Tôn giáo

là thuốc phiện của nhân dân” [41, 570]
Bản chất của tôn giáo là khẳng định, nhấn mạnh vai trò của lực lượng siêu
nhiên như một giá trị xã hội cao nhất và đề ra một hệ thống chuẩn mực để củng
cố, giữ vững niềm tin vào các thế lực siêu nhiên. Dù tơn giáo có lý tưởng cứu khổ,
giải phóng con người nhưng tơn giáo đã phủ định sức mạnh ở chính con người.
Với tơn giáo, con người chỉ là “con cừu bé nhỏ”, là “chúng sinh đau khổ”, cần
được “chǎn dắt”, “cứu vớt”, “giải thốt”. Tơn giáo có lý tưởng mang lại cuộc sống
hạnh phúc cho con người, nhưng không phải ở thế giới trần gian, trần tục, mà là ở
“thế giới bên kia”.
Thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo là sự vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin về tôn giáo để giải quyết vấn đề tín ngưỡng tơn giáo ở Việt Nam một cách
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn cách mạng Việt Nam.
 Về nguồn gốc của tôn giáo:
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội và khi nghiên cứu vấn đề này, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã sớm nhận ra tầm quan trọng của việc giải quyết các vấn đề liên
quan đến tơn giáo đối với sự nghiệp giải phóng giai cấp và nhân loại. Để giải
quyết vấn đề tôn giáo, hai ông đi tìm nguồn gốc hình thành và cơ sở tồn tại của
tôn giáo.
* Nguồn gốc kinh tế- xã hội:
Dựa vào quan điểm duy vật về lịch sử, C. Mác và Ph. Ăngghen đã coi tôn
giáo là một hiện tượng xã hội tùy thuộc vào sự phát triển của các hình thái kinh tế
- xã hội.
C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ ra nền tảng cho sự tồn tại của tôn giáo là những
xã hội cụ thể với những mối quan hệ vật chất và tinh thần. Trong đó, sản xuất vật


15

chất là cơ sở khách quan quyết định mọi quan hệ xã hội, quan hệ tôn giáo. Căn
nguyên sâu xa của sự tồn tại tơn giáo chính là sự bất hợp lý trong mối quan hệ

giữa người với người. Sự tha hóa lao động cùng với bất lực của con người trước
những chà đạp và bóc lột của chính đồng loại là một trong những nguyên nhân
đưa con người đến với tôn giáo.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, do trình độ của lực lượng sản xuất cịn
thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên. Vì vậy,
người nguyên thủy đã gán cho thiên nhiên một sức mạnh siêu nhiên.
Khi chế độ tư hữu xuất hiện, giai cấp được hình thành, các mối quan hệ xã
hội ngày càng phức tạp và con người càng chịu tác động của những yếu tố tự phát,
ngẫu nhiên, may rủi,…thì con người lại bị động, bất lực trước những lực lượng tự
phát nảy sinh trong xã hội. Sự bần cùng về kinh tế, nạn áp bức về chính trị, những
bất cơng xã hội - đó là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
* Nguồn gốc nhận thức:
Các nhà duy vật trước Mác thường nhấn mạnh nguồn gốc nhận thức của tơn
giáo, cịn các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin lại quan tâm trước hết đến
nguồn gốc kinh tế - xã hội của nó. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác - Lênin không phủ
nhận nguồn gốc nhận thức của tơn giáo, mà cịn làm sáng tỏ nó một cách có cơ sở
khoa học.
Ở một giai đoạn lịch sử nhất định thì nhận thức của con người về thế giới là
có giới hạn. Chức năng của khoa học là tìm hiểu, khám phá những điều mà nhân
loại chưa biết; vận dụng các tri thức đã biết để tiếp tục nhận thức, cải tạo tự nhiên,
xã hội và bản thân con người. Song, ở một thời điểm cụ thể thì khoảng cách giữa
“biết” và “chưa biết” vẫn tồn tại, mà “điều gì mà khoa học chưa giải thích được
thì sẽ được tơn giáo lấp vào”. Thậm chí ngay cả những vấn đề đã được khoa học
chứng minh, nhưng trình độ dân trí thấp kém vẫn là mảnh đất cho tơn giáo tồn tại
và phát triển.
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cịn gắn liền với đặc điểm của q trình
nhận thức của con người - đó là q trình phức tạp và đầy mâu thuẫn. Một mặt,
hình thức phản ánh càng đa dạng, phong phú và mang tính khoa học bao nhiêu thì
con người càng có khả năng nhận thức đầy đủ, sâu sắc thế giới bấy nhiêu. Mặt
khác, hình thức phản ánh càng trừu tượng đến mức hư ảo bao nhiêu thì nhận thức

của con người càng có khả năng xa rời và phản ánh sai lệch hiện thực bấy nhiêu.


* Nguồn gốc tâm lý:

16

Vấn đề ảnh hưởng của yếu tố tâm lý, tình cảm của con người đối với sự ra
đời và tồn tại của tôn giáo đã được các nhà vô thần cổ đại nghiên cứu. Họ thường
đưa ra luận điểm “ sự sợ hãi sinh ra thần linh”. V. I. Lênin tán thành và chỉ rõ: “Sợ
hãi trước thế lực mù quáng của tư bản - mù qng vì nhân dân khơng đốn trước
được nó - là thế lực bất cứ lúc nào trong đời sống của người vô sản và người tiểu
chủ, cũng đe dọa đem lại cho họ và đang đem lại cho họ sự phá sản “đột ngột”,
“bất ngờ”, “ngẫu nhiên”, làm cho họ phải diệt vong, biến họ thành một người ăn
xin, một kẻ bần cùng, một gái điếm, và dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là
nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại”. [ 39, 515-516].
Nhưng không chỉ sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội đã
dẫn con người đến nhờ cậy thần linh, mà ngay cả những tình cảm, tâm lý tích cực
như tình u, lịng biết ơn, sự kính trọng,… nhiều khi cũng được thể hiện qua tín
ngưỡng, tơn giáo.
 Về công tác tôn giáo:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, công tác tôn giáo là khái niệm
dùng để chỉ những công việc, những nhiệm vụ, những hoạt động liên quan đến
việc giải quyết các vấn đề tôn giáo của một quốc gia theo những quy định, chuẩn
mực pháp lý của quốc gia ấy.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định bản chất sâu xa của cơng tác tơn giáo là
“tính chất quần chúng của tôn giáo”. Do vậy, công tác vận động quần chúng là nội
dung cốt lõi, là một trong những nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của công tác tôn
giáo. Trong Bản thảo kinh tế- triết học năm 1844, C. Mác viết: “Chủ nghĩa vô
thần phủ định thượng đế và đặt thành định đề sự tồn tại của con người thơng qua

sự phủ định đó, nhưng chủ nghĩa xã hội như chính nó khơng cần đến cầu nối đó”
[43, 63].
Khi viết Góp phần phê phán dự thảo cương lĩnh năm 1891 của Đảng Dân
chủ xã hội, Ph. Ăngghen đã phê phán nghiêm khắc chủ trương cấm đốn tơn giáo
của Đuyrinh; kịch liệt phê phán quan điểm vô thần quá khích của phái Blăngki –
một phái cực tả trong Công xã Pari.
V. I. Lênin là người kế thừa, bảo vệ và phát triển học thuyết của C. Mác và
Ph. Ăngghen một cách xuất sắc. V. I. Lênin có nhiều đóng góp trong việc thể chế
hóa quyền tự do tơn giáo, tín ngưỡng của cơng dân, nhất là trong mơi trường xã


17

hội chủ nghĩa. V. I. Lênin đặc biệt lưu ý tuyệt đối tránh lối đấu tranh chống tôn
giáo một cách trừu tượng, mà phải căn cứ vào điều kiện thực tế và chú ý công tác
giáo dục quần chúng.
V. I. Lênin phê phán gay gắt những phần tử tả khuynh, vơ chính phủ khi
chúng tun chiến với tơn giáo. Trái lại, V. I. Lênin cho rằng cần phải có thái độ
mềm dẻo và khơn khéo, bởi vì: "tun chiến ầm ĩ... với tôn giáo là dại dột" [39,
512].
Nguyên tắc cơ bản trong công tác tôn giáo được V. I. Lênin chỉ rõ: “Đấu
tranh chống lại các thành kiến tôn giáo thì phải cực kỳ thận trọng; trong cuộc
chiến đấu này, ai làm tổn thương đến tơn giáo, người đó sẽ gây thiệt hại lớn. Cần
phải đấu tranh bằng tuyên truyền, bằng giáo dục. Nếu hành động thô bạo, chúng ta
sẽ làm quần chúng tức giận; hành động như vậy sẽ càng làm chia rẽ trong quần
chúng về vấn đề tôn giáo, mà sức mạnh của ta là ở sự đoàn kết…” [40, 221].
Chính vì lẽ ấy mà sinh thời V. I. Lênin rất chú ý tới việc kết nạp đảng viên có
đạo. Trong bài: “Về thái độ của đảng cơng nhân đối với tôn giáo” viết từ năm
1909, V. I. Lênin nêu: “Chúng ta không những phải sẵn sàng kết nạp, mà còn cố
gắng để thu hút vào Đảng Dân chủ - Xã hội tất cả những công nhân nào còn tin ở

Thượng đế; chúng ta nhất định phản đối bất cứ một sự xúc phạm nhỏ nào đến tín
ngưỡng tôn giáo của họ” [39, 520]. Nhưng V. I. Lênin cũng nhắc nhở: “Chúng ta
thu hút họ để giáo dục họ theo tinh thần Cương lĩnh của chúng ta, chứ khơng phải
để họ tích cực chống lại cương lĩnh ấy” [39, 520].
Hồ Chí Minh đã kế thừa và vận dụng quan điểm này một cách linh hoạt khi
giải quyết những trường hợp lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch nhằm gây
chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết của nhân dân ta.
Kế thừa quan điểm mác-xít về tôn giáo trong việc xử lý các vấn đề tôn giáo,
Hồ Chí Minh ln có thái độ mềm dẻo, biện pháp khơn khéo, hợp tình hợp lý
trong việc giải quyết các vấn đề tôn giáo ở nước ta.
1.1.4. Phẩm chất và tài năng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh sinh ra ở vùng đất có truyền thống hiếu học, lại trong một gia
đình có truyền thống u nước lâu đời, nơi đây là cái nôi đã hun đúc nên phẩm
chất văn hóa Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã tiếp thu khí chất của người cha ở đức
thương người, ở tình nhân ái và tính khảng khái, ở cái chí lớn của một người dân
yêu nước. Đồng thời, Người cũng tiếp nhận cái tinh túy văn hóa điển hình của


18

người phụ nữ Việt Nam chung thủy, đảm đang, hết lịng vì chồng con từ người mẹ
thân u của mình.
Chính quê hương và gia đình đã trang bị cho người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành một lý tưởng sống có hồi bão, có nghị lực phi thường, có bản
lĩnh kiên định, có ý chí kiên cường, một vốn học vấn chắc chắn, một năng lực trí
tuệ sắc sảo, một đầu óc quan sát và phê phán tinh tường. Đặc biệt, Người có tình
thương u nhân dân sâu sắc, có lịng tin mãnh liệt vào nhân dân, có tác phong
giản dị, khiêm tốn, gần gũi, hịa mình với quần chúng và sức cảm hóa kỳ diệu đối
với mọi người.
Chính những phẩm chất cao đẹp ấy đã giúp cho Người phân tích, tổng kết

phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX để tự tìm một hướng đi
mới cho cách mạng Việt Nam. Cũng chính điều đó đã thơi thức Nguyễn Tất
Thành ở tuổi 20 ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, giải phóng cho dân tộc Việt
Nam.
Từ khát vọng giải phóng dân tộc, Người đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin,
“tựa như người đi đường đang khát nước mà có nước uống, đang đói mà có cơm
ăn” [53, 28]. Người đã phấn khởi reo lên như phát minh ra một sáng kiến vĩ đại:
“Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” [53,
28]. Người sớm đi tới kết luận: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ” [53, 28]. Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã tìm thấy ở đó một động
lực to lớn của thời đại. Ngoài việc nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh còn vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện
thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Những tư chất và phẩm chất cao đẹp của Hồ Chí Minh đã được phát huy
trong suốt cuộc đời hoạt động của Người. Nhờ vậy, Hồ Chí Minh có được tầm
nhìn chiến lược rộng lớn để giải quyết thành công các vấn đề của cách mạng nói
chung, trong đó có vấn đề tơn giáo nói riêng.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và công tác tôn giáo là kết quả của sự
kế thừa có chọn lọc những giá trị tư tưởng của nhân loại, mà trực tiếp là chủ nghĩa
Mác – Lênin, trên nền tảng truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam. Đồng thời, nó
cũng là sản phẩm của một thời đại mà Hồ Chí Minh và quần chúng nhân dân là chủ thể
của nhận thức và hành động.


19

1.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất của tơn giáo
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo là một trong những bộ phận cấu thành

tồn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin về tơn giáo vào hồn cảnh lịch sử - cụ thể của nước ta – một
quốc gia đa màu sắc tín ngưỡng, tơn giáo.
Trong suốt q trình lãnh đạo tồn dân thực hiện nhiêm vụ cách mạng, Hồ
Chí Minh chưa viết một tác phẩm, bài báo chuyên đề về vấn đề lý luận tơn giáo.
Tuy nhiên, tồn bộ những lời nói và việc làm của Người cho ta thấy cả một hệ
thống lý luận chặt chẽ về tơn giáo.
Hồ Chí Minh là một trong những con người vô thần mà nghiên cứu hữu thần,
lĩnh hội được cái hay của hữu thần, kết hợp được cái cao quý của trần thế và cái
tinh túy của từng tôn giáo, cho nên ta thấy Hồ Chí Minh cao mà khơng xa, mới mà
khơng lạ. Tư tưởng của Người về tôn giáo thể hiện trong các bài viết và nói, trong
các cuộc tiếp xúc với các tín đồ, chức sắc tơn giáo, trong thái độ kính trọng những
người sáng lập ra các tơn giáo. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất của tơn giáo
thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh nhận thấy giá trị nhân bản của tôn giáo.
Người nhận thấy giá trị nhân bản của tôn giáo để học tập và biến những giá
trị ấy của từng tôn giáo thành cái riêng của mình. Với mỗi tơn giáo khác nhau Hồ
Chí Minh có những thái độ trân trọng khác nhau. Cho nên, không phải ngẫu nhiên
trong tác phẩm “Một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp”, cố
Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn lại lời của một nhà báo phương Tây viết về Hồ
Chí Minh: “Hình ảnh của Hồ Chí Minh đã hồn chỉnh với sự kết hợp đức khơn
ngoan của Phật, lịng bác ái của Chúa, triết học của Mác, thiên tài cách mạng của
Lênin và tình cảm của một chủ gia tộc, tất cả bao bọc trong một dáng dấp rất tự
nhiên” [19, 24].
Hồ Chí Minh ln đánh giá đúng giá trị nhân bản trong các tôn giáo, phân
biệt các tổ chức và giáo dân chân chính với tổ chức, cá nhân giả danh tơn giáo để
đồn kết tập hợp lực lượng cách mạng. Hồ Chí Minh đã tìm hiểu các tơn giáo
đang có mặt ở Việt Nam và rút ra nhận xét khái quát: các tôn giáo ở Việt Nam dù



20

là nội sinh hay ngoại sinh, đều chứa đựng trong giáo lý của mình những lời
khuyên làm điều thiện, tránh điều ác.
Hồ Chí Minh coi các giá trị nhân bản của tơn giáo là những di sản vǎn hóa
tinh thần quý báu của nhân loại. Bằng vốn hiểu biết về vǎn hóa sâu sắc và tư duy
biện chứng duy vật, Người đã thấy các tôn giáo đều phản ánh niềm tin, khát vọng
tự do và hạnh phúc của những người bị áp bức, đau khổ, hướng tới bình đẳng, tự
do, bác ái, hướng thiện, trừ ác. Người đã phát hiện và tiếp nhận cái thiện, cái mỹ,
cái cốt lõi nhân vǎn trong các tơn giáo. Vì vậy, khi nhìn nhận và xử lý các vấn đề
tơn giáo, Hồ Chí Minh ln tìm đến giá trị sáng tạo và phương thức sử dụng tơn
giáo nhằm phát huy những tác động tích cực của tơn giáo để phục vụ lợi ích của
nhân dân.
Hồ Chí Minh ca ngợi chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, coi đó là thiên
đàng của nhân loại, nhưng đồng thời, Người cũng không quên ca ngợi những giá
trị nhân bản của các tôn giáo. Người không bao giờ có thái độ kỳ thị tơn giáo này,
coi trọng tôn giáo kia, mà trái lại, mỗi tôn giáo đều có những điểm giá trị mà có
thể kế thừa, nhất là mặt đạo đức. Bằng lời văn mộc mạc, chân thành có sức thuyết
phục lịng người, khi nói về các vị sáng lập ra các tơn giáo, Hồ Chí Minh viết:
"Chúa Giê-su dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng
Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa" [49, 225]. Hoặc là: "Học thuyết của Khổng Tử có
ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tơn giáo Giê-su có ưu điểm của
nó là lịng nhân ái cao cả...” [49, 225]. Từ đó Người đi đến kết luận: “Nếu các vị
ấy còn sống, cùng với C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin ngồi lại một chỗ, thì sẽ
tìm ra được một quan điểm chung đó là mưu cầu hạnh phúc cho con người; cịn
tơi cố gắng làm học trị nhỏ của các vị ấy” [49, 225].
Người đã nhấn mạnh điểm chung giữa lý tưởng của chủ nghĩa Mác với tôn
giáo và các học thuyết có tính tiến bộ, đó là mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại.
Đây là một đặc điểm lớn được Hồ Chí Minh khai thác một cách triệt để và tài tình
trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến tơn giáo.

Tình cảm trân trọng của Hồ Chí Minh đối với giá trị nhân bản của tơn giáo,
khác với đức tin của các tín đồ của các tơn giáo ấy. Nó xuất phát từ chủ nghĩa
nhân đạo có sẵn trong con người Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là người vơ thần đầy
tư tưởng bao dung, khơng giáo điều, cục bộ, hẹp hịi; Người đã “gạn đục khơi


21

trong”, kế thừa những giá trị vǎn hóa mang tính nhân vǎn cao đẹp của các tơn
giáo. Điều đó cho ta thấy các tơn giáo khơng hồn tồn đối lập với chế độ xã hội
chủ nghĩa, trái lại, các giá trị vǎn hóa, đạo đức tơn giáo có thể hịa nhập cùng dân
tộc trên con đường xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, vǎn minh.
Thứ hai, Hồ Chí Minh coi giá trị của tơn giáo như một thành tố của văn hóa.
Xuất phát từ quan điểm về văn hóa, Hồ Chí Minh định nghĩa: “Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng tồn
bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [ 46, 43]. Như vậy, theo Hồ
Chí Minh, tơn giáo khơng chỉ là một hình thái ý thức xã hội, mà còn là một thực
thể xã hội.
Trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã tạo nên hệ giá trị
truyền thống, trong đó yêu nước là nấc thang cao nhất trong các nấc thang giá trị.
Kế thừa truyền thống ấy, Hồ Chí Minh cho rằng, lịng u nước và đức tin tơn
giáo khơng có gì mâu thuẫn, trái lại, nó gắn bó chặt chẽ với nhau, một người dù
theo tơn giáo nào thì trước hết người đó phải là cơng dân, có nghĩa vụ với dân tộc,
đất nước. Lịch sử đã chỉ rõ Trần Nhân Tông vừa là vị vua yêu nước, vừa là người
sáng lập nên thiền phái Trúc Lâm. Sự gắn kết đó đã tạo nên sức mạnh đại đồn kết
dân tộc trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Có thể nói, ở Hồ Chí Minh tư tưởng và hành động của Người là sự dung hợp

những giá trị tư tưởng nhân vǎn cao cả trên nền tảng của chủ nghĩa yêu nước,
chủ nghĩa cộng sản vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Trong
sự dung hợp đó, các giá trị nhân bản của tơn giáo được Hồ Chí Minh kế thừa,
nâng cao và bổ sung những nội dung mới cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử
của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thời đại. Nhờ có quan niệm khoa học về tơn
giáo mà Hồ Chí Minh ln thể hiện thái độ khoan dung trong ứng xử với tôn giáo.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chức năng của tơn giáo
Kế thừa tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăngghen và V. I. Lênin, Hồ Chí Minh
cho rằng, tơn giáo khơng dễ dàng tiêu vong khi đời sống vật chất của con người
đã trở nên đầy đủ. Tơn giáo vẫn cịn tiếp tục tồn tại lâu dài vì nó là nhu cầu tinh


22

thần chính đáng của một bộ phận quần chúng và nó mang trong mình những
chức năng xã hội nhất định.
Thứ nhất, chức năng đền bù hư ảo:
Sự ra đời của các tôn giáo như một giải pháp “giảm nhẹ” tạm thời những nỗi
đau khổ của con người, làm cho con người có cảm giác được an ủi cho những sự
mất mát, thiếu hụt trong cuộc sống. Theo Hồ Chí Minh, chức năng đền bù hư ảo
không chỉ là chức năng chủ yếu, đặc thù, mà còn là chức năng phổ biến của các
tơn giáo. Ở đâu có tơn giáo ở đó có chức năng đền bù hư ảo. Người lấy ví dụ về
một bà mẹ người cơng giáo: “Mẹ Tài là bần nông Công giáo. Mẹ rất tin rằng đời
này chịu đau khổ, thì đời sau sẽ hưởng phúc lành. Mẹ chỉ có một người con trai, bị
tên Hưng đánh chết. Mẹ cho như vậy là linh hồn con sớm hưởng phúc thiên
đường” [78, 224].
Thứ hai, chức năng thế giới quan:
Tôn giáo phản ánh một cách hư ảo hiện thực, có tham vọng tạo ra một bức
tranh về thế giới nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người dưới một hình thức phi
hiện thực. Bức tranh tơn giáo ấy bao gồm hai bộ phận: thế giới thần thánh và thế

giới trần tục, trên cơ sở đó tơn giáo giải thích các vấn đề của tự nhiên cũng như xã
hội. Sự lý giải của tôn giáo về thế giới nhằm hướng con người tới cái siêu nhiên,
thần thánh và phụ thuộc vào cái siêu nhiên, thần thánh ấy. Không phải ngẫu nhiên,
trong những bức thư gửi cho tín đồ tơn giáo, Hồ Chí Minh viết: “Tơi cầu nguyện
Đức Cha phù hộ đồng bào giữ vững tinh thần ái quốc, đủ sức chống lại giặc Pháp,
đặng làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng là: Phụng sự Đức Chúa! Phụng sự Tổ quốc”
[48, 302]. Hoặc là: “Tơi kính cẩn cùng đồng bào, cầu nguyện Đức Chúa ban phúc
cho nước ta” [78, 179]. Đặc biệt, Người kết luận: “Trên nhờ Đức Chúa, dưới nhờ
nhân dân, kháng chiến nhất định thắng lợi” [48, 326].
Thứ ba, chức năng điều chỉnh:
Hồ Chí Minh nhìn thấy trong mỗi học thuyết tơn giáo đều có một hệ thống
các chuẩn mực ứng xử trước tiên với vị sáng lập tôn giáo, với con người nhằm
điều chỉnh hành vi của các tín đồ. Người thuật lại giới răn trong Kitô giáo:
“Chúa dạy, phải yêu thương và cứu giúp người nghèo khổ. Người nghèo khổ
nhất nước ta là nông dân lao động mà giúp đỡ nơng dân chỉ có cách làm cho
dân cày có ruộng” [78, 221-222].


23

Những chuẩn mực ấy, theo Người khơng chỉ có tác động đến những hành
vi trong q trình sinh hoạt tơn giáo, mà ngay cả trong cuộc sống hàng ngày
của gia đình cũng như ngồi xã hội. Vì vậy, hệ thống những chuẩn mực, giá trị
đạo đức trong các học thuyết tôn giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến mọi hoạt động
của con người.
Thứ tư, chức năng giao tiếp:
Trong mỗi tôn giáo bao giờ cũng có những mối liên hệ giữa các tín đồ,
giữa tín đồ với các vị chức sắc và được thực hiện chủ yếu trong sinh hoạt tín
ngưỡng, tôn giáo. Những mối liên hệ này tạo ra những tương tác rất lớn trong
đời sống xã hội. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã thơng qua các vị chức sắc tơn

giáo khi vận động quần chúng tín đồ tơn giáo. Trong bức thư gửi giám mục Lê
Hữu Từ, Người viết: “Như Cụ đã hứa với tơi: bao giờ vì chiến thuật mà phá
cầu Trì Chính, thì Cụ sẽ bảo đồng bào địa phương Phát Diệm phá dùm. Vậy
nhờ Cụ báo cho đồng bào phá cầu ấy đi. Đồng thời, làm một cầu bằng tre, để
dân đi lại cho tiện. Đến khi cấp bách sẽ phá cầu phao. Tôi tin chắc đồng bào ở
đó hiểu đại nghĩa và nghe lời Cụ, sẽ hăng hái làm việc đó, để giúp sức vào
công cuộc bảo vệ tổ quốc” [47, 67].
Thứ năm, chức năng liên kết:
Đời sống sinh hoạt tôn giáo tạo nên một tính liên kết rất bền vững giữa
những người có chung một tín ngưỡng. Sự liên kết ấy thể hiện hiện khơng chỉ
trong sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo, mà kể cả trong đời sống sinh hoạt thường
ngày của các tín đồ. Nhờ đó tạo nên mối liên hệ khăng khít trong gia đình và trong
cộng đồng dân tộc. Có thể nói, ở phương diện này, tơn giáo là một trong những
yếu tố làm ổn định những trật tự xã hội đang tồn tại. Hơn nữa, trong những điều
kiện nhất định, tơn giáo có thể biểu hiện là ngọn cờ tư tưởng chống lại chế độ
phản tiến bộ đương thời. Hồ Chí Minh đã sử dụng chức năng này một cách khoa
học vào việc vận động và xây dựng khối đồn kết tồn dân, Người nói: “Ngày nay
đồng bào cả nước, giáo và lương, đều đoàn kết chặt chẽ nhất tâm nhất trí như con
một nhà, cương quyết giữ vững độc lập tự do. Ngoài sa trường các chiến sĩ lương
và giáo đã xây nên một bức thành kiên cố vĩ đại để ngăn cản kẻ thù chung là bọn
thực dân Pháp. Ở khắp nơi trong nước, đồng bào giáo và lương đang nỗ lực giúp
vào việc kháng chiến và kiến quốc. Tinh thần hy sinh ấy là noi theo tinh thần cao
thượng của Đức Chúa Giê-su” [47, 67].


24

1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của tôn giáo

 Về tác dụng của tôn giáo đối với đạo đức của con người:

Điều quan trọng là cần quan tâm khai thác các giá trị đạo đức của các tơn
giáo trên một tầm nhìn mới và phương pháp mới nhằm phục vụ cho sự nghiệp
cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới. Chính vì thế, Hồ Chí Minh
đã lồng vào trong các giá trị đạo đức của các tơn giáo những nội dung mới mang
tính thời đại, gắn liền với thực tiễn của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

Hồ Chí Minh xác định tơn giáo là một bộ phận cấu thành của văn hóa và
là di sản của văn hóa nhân loại. Người rất coi trọng việc bảo tồn các di sản văn
hóa dân tộc, trong đó có di sản văn hóa tơn giáo cả vật thể và phi vật thể. Để
xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam, Hồ Chí Minh đã “gạn đục khơi trong”,
tiếp thu tất cả những giá trị của tín ngưỡng, tơn giáo như đạo lí “uống nước nhớ
nguồn” của đạo thờ ơng bà, tổ tiên; triết lí nhân sinh của Nho, Phật, Lão.
Khi xem xét tôn giáo như một hình thái ý thức xã hội độc lập tương đối với
các hình thái ý thức khác, Hồ Chí Minh thấy tôn giáo chứa đựng nội dung đạo đức
(bao gồm giá trị, chuẩn mực, lý tưởng đạo đức,...). Người chỉ rõ khát vọng cao cả

của các tôn giáo: “Mục tiêu cao cả của Phật Thích Ca và Chúa Giê Su đều
giống nhau: Thích Ca và Giê-su đều muốn mọi người có cơm ăn, áo mặc, bình
đẳng, tự do và thế giới đại đồng” [49, 225]. Theo Người, bất cứ tôn giáo nào
cũng có một hệ thống chuẩn mực và giá trị đạo đức nhằm điều chỉnh ý thức và
hành vi đạo đức của các tín đồ. Tuy nhiên, ngồi những giá trị đặc thù bảo vệ
niềm tin tôn giáo thiêng liêng, nó cịn đề cập đến những chuẩn mực đạo đức mang
tính nhân loại, như sống hiếu thảo với cha mẹ, trung thực, nhân ái, như Hồ Chí
Minh hay trích dẫn “kính Chúa u người”. Hồ Chí Minh đã tìm thấy cái chung

của các tôn giáo là đều phản ánh khát vọng tự do và hạnh phúc của quần chúng
bị áp bức, đau khổ, thấy rõ tính nhân văn của các tơn giáo chân chính là hướng
tín đồ, hướng nhân loại tới bình đẳng, bác ái, khuyên con người làm điều thiện,
loại trừ cái ác.
Người đã kế thừa các quan niệm đạo đức tôn giáo đối với giáo dục con

người, nhất là giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ cách mạng. Trong sự nghiệp
cách mạng, Hồ Chí Minh luôn phải giải quyết vấn đề cán bộ mà Người mong


25

muốn ở họ “vừa hồng vừa chuyên”; vừa có tài vừa có đức. Vì vậy, việc phát hiện,
lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo, giáo dục và rèn luyện cho đến sử dụng và đãi ngộ để
xây dựng một đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng cho nhu cầu
chung của cách mạng luôn được Người đặt ra. Người thấy: "Học thuyết của
Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tơn giáo Giê-su có
ưu điểm của nó là lịng nhân ái cao cả...” [49, 225]. Người luôn vận dụng những
tư tưởng ấy để giáo dục đội ngũ cán bộ cách mạng.
Một mặt kế thừa, mặt khác, Hồ Chí Minh cũng phê phán đạo đức tơn giáo ở
khía cạnh khơng cịn phù hợp với đạo đức cách mạng. Người viết: “Cách đây
2000 năm, Đức Giê-su đã nói ta phải yêu mến kẻ thù của ta. Điều đó đến bây giờ
vẫn chưa thực hiện được” [47, 272].

 Về ảnh hưởng của tôn giáo đối với chính trị:
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã từng bơn ba hải ngoại
chịu cảnh tù đày, nguy hiểm cũng chỉ vì mục đích là độc lập cho dân tộc và hạnh
phúc cho đồng bào. Với mục đích cao cả đó, Người khơng thể khơng quan tâm
đến mặt chính trị trong tơn giáo.

Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh quan tâm
đến vấn đề khai thác mặt tích cực của tôn giáo để thu hút đồng bào tôn giáo
tham gia sự nghiệp cách mạng chung của toàn dân tộc. Hồ Chí Minh đã nêu
phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”.
Khi miền Bắc giải phóng xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người thường nêu
lên sự tương đồng nhất định giữa mục tiêu của chủ nghĩa xã hội và kỳ vọng của

những người sáng lập ra các tơn giáo. Hồ Chí Minh cho rằng, giữa người cộng
sản và người có tín ngưỡng, tơn giáo có sự khác nhau về thế giới quan, nhưng
sự khác biệt ấy không tất yếu dẫn đến khác nhau về quan điểm chính trị. Nghĩa
là người có cũng như khơng có tín ngưỡng, tơn giáo vẫn có thể phấn đấu cho
một mục tiêu chính trị nhất định. Người cho rằng, Phật Thích Ca, Chúa Giê-su
và Khổng Tử là những “nhà hiền triết”. Họ đã từng hy sinh, phấn đấu cho hạnh
phúc của con người, chống lại áp bức, bất công và luôn mơ ước về một xã hội
tốt đẹp. Dù xã hội đó là mơ hình xã hội khơng tưởng, là “hạnh phúc hư ảo của


×