Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Tải Qua văn bản Bài toán dân số, hãy rút ta kết luận về mối quan hệ giữa dân số và sự phát triển xã hội? - Bài văn mẫu lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.18 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Qua văn bản Bài toán dân số, hãy rút ta kết luận về mối quan hệ</b>
<b>giữa dân số và sự phát triển xã hội?</b>


<b>Bài làm</b>


Điểm nhấn của văn bản Bài tốn dân số chính là những sốliệu theo thống kê
của hội nghị Cai-rô (Ai Cập) họp ngày 5 tháng 9 năm 1994 đưa ra. Những
sốliệu này cho thấy tỉ lệ sinh con của phụ nữ khắp các nơi trên thế giới là rất
lớn, phụ nữ Ấn Độ là 4,5; Nê-pan là 6,3…, tính chung tồn châu Phi là 5,8; phụ
nữ Việt Nam là 3,7. Như vậy, phấn đấu đểmỗi gia đình có từ một đến hai con là
một chỉ tiêu rất khó khăn. Với tỉ lệ hằng năm tăng 1,73 % như mười lăm năm
trước và 1,57% năm 1990 thì dân số hành tinh của chúng ta năm 2015 sẽ là hơn
7 tỉ người. Một vấn đề cần được quan tâm là phụ nữ ởnhững nước nghèo lại có
khả năng sinh nhiềucon. Những nước kém phát triển ở hai châu lục là châu Phi
và châu Á lại là những nước có tốc độ gia tăng dân sốnhiều nhất. Chính sự phát
triển dân số ào ạt này ảnh hưởng đến khả năng phát triển xã hội của những
nước đó. Sự bùng nổ dân sốln đi kèm với nghèonàn, lạc hậu, kinh tế kém
phát triển, văn hóa, giáo dục không được cải thiện… Ngược lại, khi kinh tế, xã
hội, văn hóa, giáo dục khơng được nâng cao thì thì khơng thể khống chế được
tình trạng gia tăng dân số. Hai mặt trên có liên quan với nhau và tác động trực
tiếp lên nhau, ở những nước có nền kinh tế phát triển cao như Nhật, Đức, Mĩ…
tỉ lệ sinh của họ rất thấp; trong khi đó những nước nghèo đói nhất lại có tỉ lệ
sinh cao nhất.


Từ thực trạng trên, muốn giải quyết vấn nạn bùng nổ dân số cần phải cải thiện
trước tiên về kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục, văn hóa., cần có sự trợ giúp của các
nước phát triển trong sự nghiệp ngăn chặn sự gia tăng dân sốquá mức.


Cảm nhận của em sau khi đọc văn bản Bài toán dân số của tác giả Thái An.
<b>Bài làm</b>



Bài toán dân số là một văn bản nhật dụng, chủ đề nói về “dân số và tương lai
của dân tộc, nhân loại”.


Bài toán dân sốviết theo phương thức lập luận kết hợp với tự sự (lập luận là
chính). Người viết bắt đầu kể lại câu chuyện về một bài toán cổ nên cách nêu
vấn đề nhẹ nhàng và hấp dẫn.


Có thể nói, chủ đề bao trùm mà tác giả muốn làm nổi bật là thế giới đang đứng
trước nguy cơ bùng nổ và gia tăng dân số quá nhanh.Đó sẽ là một hiểm họa
phải báo động và là vấn đề “tồn tại hay không tồn tại” của chính lồi người.
Để làm sáng tỏ chủ đề chính đã nêu, tác giả đã lập luận theo lơgíc sau:


– Nếu bàn cờ tướng gồm 64 ơ, số thóc trong mỗi ơ được tăng theo cấp sốnhân,
cơng bội là hai, thì tổng số thóc nhiều đến mức có thể phủ kín bề mặt trái đất.
– Trái đất từ khi bắt đầu chỉ có 2 người, thế mà đến năm 1995 đã có 5,63 tỉ
người. Theo bài tốn cổ, nếu lồingười tăng theo cấp số nhân với cơng bội
là2thì tổng dân số vào năm 1995 đã đạt đến ô thứ 30. Đó là đã trừ đi tỉ lệ tử
vong.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

– Nếu cứ để dân số bùng nổ và gia tăng như thế thì chẳng mấy chốc 64 ơ của
bàn cờ sẽ bị lấp kín và khi đó mỗi người chỉ cịn một chỗ ở với diện tích như
một hạt thóc trên Trái Đất. Điều đó cũng có nghĩa là lồi người muốn tồn tại thì
phải hạn chế sự bùng nổ và tốc độ gia tăng dân số.


Như thế có thể thấy bài văn nhật dụng này khơng chỉ phục vụ cho chủ đề dân
số mà cịn đề cập đến tương lai của dân tộc và nhân loại.


Như vậy để trả lời con đường nào là con đường tốt nhất để hạn chế sự gia tăng
dân số? Chúng ta có thể trả lời ngay là: Chỉ bằng con đường giáo dục mới giúp
mọi người hiểu ra nguy cơ bùng nổ dân số; vấn đề dân số gắn liền với sự đói


nghèo hay no ấm, hạnh phúc. Nhưng sinh đẻ là quyền của phụ nữ, không thể
cấm bằng mệnh lệnh hay các biện pháp thô bạo cho nên đẩy mạnh giáo dục cho
phụ nữ là hạ thấp tỉ lệ thụ thai và tỉ lệ tử vong.


Bài viết nêu rất rõ ý nghĩa của vấn đề dân số. Dân số phát triển quá nhanh sẽ
ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Thể hiện ở việc thiếu lương thực,
thực phẩm, môi trường quá đông đúc, thiếu việc làm…, kết quả dẫn đến nghèo
nàn lạc hậu, hạn chế giáo dục. Trong khi đó, giáo dục khơng phát triển lại tạo
nghèo nàn lạc hậu. Đó là cái vịng dẫn đến đói nghèo.


Vấn đề dân số đã được thể hiện như thế nào trong văn bản Bài toán dân số của
Thái An


<b>Bài làm</b>


Viết về hiểm hoạ của việc gia tăng dân số q nhanh – một đề tài vừa khó vừa
khơ khan, tác giả của "Bài toán dân số" đã chọn cách vào đề thật hấp dẫn, vừa
thực tế, vừa giàu sức thuyết phục. Từ câu chuyện nhà thông thái kén rể đến 64
ơ bàn cờ với một lượng thóc "nhiều đến mức có thể phù khắp bề mặt Trái Đất",
bạn đọc dễ dàng hình dung về sự gia tăng dân số chóng mặt với tốc độ sinh sản
như hiện nay.


Vấn đề chính mà tác giả đặt ra trong văn bản này là: Con người đang ngày càng
tăng lên gấp bội. Nếu khơng hạn chế sự gia tăng dân số thì con người sẽ tự làm
hại chính mình.


Điều làm tác giả "sáng mắt ra" ấy là: không ngờ một vấn đề rất hiện đại mới
được đặt ra gần đây (vấn đề dân số kế hoạch hố gia đình) thế mà dường như
nó đã được đặt ra từ thời cổ đại.



Nhập đề dưới hình thức một bài tốn cổ, kể về việc kén rể của nhà thông thái,
phần kể của nhà văn đã vừa gây được sự tò mò, hấp dẫn của người đọc, vừa
mang lại một kết luận rất bất ngờ ở phía cuối của câu chuyện kể. Lấy câu
chuyện ấy làm tiền đề, tác giả đã so sánh ngay với sự bùng nổ và gia tăng dân
số (cả hai đều tăng theo cấp số nhân). Cách so sánh ấy, quả thực đã làm cho
người đọc hình dung một cách nhanh chóng đến tốc độ gia tăng kinh khủng của
dân số. Và đây cũng chính là trọng tâm vấn đề mà bài viết muôn nêu lên.


Việc đưa ra tỉ lệ sinh con của phụ nữ ở một số nước theo thông báo của Hội
nghị Cai-rơ là rất có ý nghĩa. Trước hết, nó thơng tin cho người ta thấy người
phụ nữ có thể sinh rất nhiều con (ít như Việt Nam thì trung bình cũng là 3,7;
nhiều như Ru-an-đa thì tới 8,1). Từ đó có thể thấy chỉ tiêu mỗi gia đình có hai
con là rất khó khăn. Thứ hai, các con số thống kê còn cho thấy các nước chậm
phát triển lại sinh con rất nhiều.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

– Châu Phi: Nê-pan, Ru-an-đa, Tan-da-ni-a, Ma-đa-gát-xca.
– Châu Á: Ấn Độ và Việt Nam.


</div>

<!--links-->

×