Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.45 KB, 3 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Soạn bài: Tác giả Nguyễn Khuyến</b>
<b>NGUYỄN KHUYẾN</b>
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
Nguyễn Khuyến sinh năm 1835 mất năm 1909, lúc nhỏ tên là Thắng, sau khi thi hội
không đỗ đổi thành Khuyến, hiệu là Quế Sơn, quê làng Và, xã n Đổ, huyện Bình Lục,
tỉnh Hà Nam. Ơng xuất thân trong gia đình có nhiều người đỗ đạt. Nguyễn Khuyến là
người có tài những thi cử lận đận. Năm 1871, ơng thi đỗ cả Hội ngun và Đình ngun.
Vì ba lần đỗ đầu nên ơng được gọi là Tam nguyên Tên Đổ. Sau khi đỗ đạt ông đã ra làm
quan với triều đình nhà Nguyễn. Sau đó, cảm thấy bất lực trước cảnh đất nước bị xâm
lược, đạo đức xã hội suy đồi, chốn quan trường đen tối, ông đã cáo quan về ở ẩn tại làng
quê. Trong thời gian đó, ơng tiếp tục làm thơ để bộc lộ tâm sự và thể hiện tấm lòng với
dân tộc. Nguyễn Khuyến đã sống vào thời kì xã hội Việt Nam có rất nhiều biến động. Các
nhà nho khơng có nhiều sự chọn lựa. Và ơng đã chọn cho mình một cách sống theo đạo
thơng thườngcủa những nhà Nho có nhân cách: bất hợp tác với cường quyền về sống
cuộc sống nghèo khổ nhưng thanh bạch chốn làng quê.
II. RÈN KĨ NĂNG
Nguyễn Khuyến sáng tác thơ, câu đối, văn bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Những sáng tác
của ông tập trung thể hiện tình cảm của một nhà nho đối với quê hương đất nước, người
thân. Sáng tác của ông có thể chia thành các mảng sau:
1. Tâm sự yêu nước, u hoài trước sự đổi thay của thời cuộc
Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi rất
mạnh mẽ. Dưới con mắt của các nhà Nho, đó chủ yếu là những biến đổi tiêu cực. Đạo
đức xã hội thay đổi và khác rất nhiều so với những chuẩn mực đạo đức phong kiến.
Giống như nhiều nhà Nho khác, Nguyễn Khuyến cảm thấy vơ cùng đau xót trước hiện
thực ấy. Và ông đã viết rất nhiều bài thơ thể hiện nỗi niềm u hồi của mình về vận mệnh
2. Thơ về làng cảnh Việt Nam
3. Thơ trào phúng
Thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến mang giọng điệu thâm thuý vơi snôj dung trào
phúng rất sâu cay. Ông thường phê phán nhữung biểu hiện suy đồi của đạo đức xã hội,
nhất là chuyện khoa cử, quan tước. Đồng thời, với tâm trạng của một nhà nho bất lực
trước thời cuộc ông đã viết những vần thơ tự trào để vừa tự trách mình, vừa bộc bạch tâm
sự về thế cuộc.
Ở cả ba mảng thơ trên, Nguyễn Khuyến đều để lại những sáng tác có giá trị cả về nội
dung và nghệ thuật.
4. Một số nét nghệ thuật tiêu biểu
Nguyễn Khuyến thành công hơn cả là ở thơ văn viết bằng chữ Nôm. Phân lớn những tác
phẩm xuất sắc của ơng đều được sáng tác trong thời kì ông đã cáo quan về ở ẩn.
Điểm nổi bật trong nghệ thuật thơ Nguyễn Khuyến là ông đã “đưa tiếng nói sinh hoạt dân
dã, bình dị vào thơ một cách tinh tế, sâu sắc, nhiều khi hóm hỉnh, tự nhiên mà thành thơ”.
Dù viết thể thơ cổ điển những thơ ông vẫn luôn rất thoải mái, không có cảm giác gị bó.
Ơng vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật của thơ ca dân gian và ngơn ngữ giàu chất tạo
hình. Nguyễn Khuyến đã đưa thơ Nôm, ngôn ngữ thơ đến một trình độ mới, tinh tế và rất
hiện đại.
III. TƯ LIỆU THAM KHẢO
"... Trong xã hội cũ, người ta thường lưu hành câu thành ngữ “nhất tự cách trùng” hay
thần thánh hóa Nguyễn Khuyến: Lúc bé là thần đồng, lúc về hưu là thành hoàng, đứng
trên các vị thành hồng ở địa phương. Tấm lịng q mến tự hào của quê nhà đối với nhà
thơ dân tộc xuất sắc Nguyễn Khuyến là như thế đó.”