Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tải Cảm nhận tâm trạng của nhân vật Tràng liên hệ với tâm trạng Chí Phèo - 4 bài văn mẫu Ngữ văn 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.49 KB, 19 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Cảm nhận tâm trạng nhân vật Tràng- </b>

<b> Vợ nhặt</b>

<b> liên hệ với</b>


<b>tâm trạng Chí Phèo</b>



<b>Hướng dẫn Dàn ý chi tiết</b>



I. <b>Mở bài: </b>


Nêu vấn đề của đề bài


- Giới thiệu đôi nét về nhà văn Kim Lân và giới thiệu khái quát về nhân vật Tràng
trong tác phẩm (đặc biệt được thể hiện qua đoạn trích của đề bài).


- Từ đoạn trích trên, giúp liên hệ đến tâm trạng của Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở
trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao (Ngữ văn 11).


- Qua việc khắc họa 2 nhân vật; ta thấy được sự thành công của hai nhà văn trong
nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật.


<b>II. Thân bài: </b>


Triển khai vấn đề


<b>1. Cảm nhận về tâm trạng nhân vật Tràng</b>


- Tràng sung sướng, hạnh phúc, hãnh diện: thấy “trong người êm ái lửng lơ như
người vừa ở trong giấc mơ đi ra”, việc có vợ đối với hắn vẫn hết sức bất ngờ.


- Tràng nhận ra sự thay đổi xung quanh khiến anh cảm động: “có cái gì vừa thay
đổi mới lạ”: “Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn
gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà
đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc cây ổi đã


kín nước đầy ăm ắp”, bà cụ Tứ lúi húi giẫy cỏ, nàng dâu quét tước, nấu nướng. Tất
cả những cảnh tượng đó thật bình thường nhưng đủ làm cho hắn cảm động vì chưa
bao giờ Tràng được trải qua niềm hạnh phúc giản dị như thế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Tràng thấy cuộc đời mình bỗng nhiên thay đổi hẳn, hắn thấy mình trưởng thành
(“nên người”) và cần có trách nhiệm với gia đình của mình:


“Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương u gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.
Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà
như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột
ngột tràn ngập trong lịng”. Bởi vì Tràng đã có một gia đình, và trong cái buổi
sáng đầu tiên ấy, hắn đã được tắm mình trong khơng khí ấm áp, hạnh phúc của tổ
ấm gia đình.


=> Tác giả đã đặt nhân vật vào tình huống độc đáo để nhân vật bộc lộ phẩm chất,
tính cách; Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đậm chất
nông thôn và có sự gia cơng sáng tạo của nhà văn. Cách kể chuyện tự nhiên, hấp
dẫn, dựng cảnh sinh động với nhiều chi tiết đặc sắc...


<b>2. Liên hệ tâm trạng của Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở để thấy sự</b>
<b>thành công của hai nhà văn trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật</b>


- Tâm trạng của nhân vật Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở được thể hiện tập trung
trong buổi sáng tỉnh rượu của Chí. Nam Cao khắc họa rất thành cơng chuỗi diễn
biến tâm lí của Chí Phèo:


+ Cảm nhận cuộc sống đời thường (lần đầu tiên sau một cơn say dài, Chí cảm nhận
được những hình ảnh quen thuộc và lắng nghe rõ nhất những âm thanh cuộc sống
xung quanh mình);



+ Hắn nhớ lại quá khứ xa xơi, thấm thía cuộc sống hiện tại, lo lắng cho tương lai cô
độc, buồn tủi;


+ Khi được Thị Nở cho ăn cháo hành thì hắn ngạc nhiên, cảm động, ăn năn hối hận,
tủi thân khi lần đầu tiên được cho bởi một người đàn bà; rồi hắn vui, khao khát
được trở lại cuộc đời lương thiện, hi vọng, tin tưởng được trở lại cuộc đời hoàn
lương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

+ Cả Nam Cao và Kim Lân đều rất quan tâm đến đời sống tâm hồn của những
người lao động nghèo Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Hai nhà văn đều mô
tả chi tiết, chân thực, sinh động diễn biến tâm trạng của mỗi nhân vật ở thời điểm
buổi sáng – gắn liền với sự thức tỉnh/ đổi thay của mỗi nhân vật – thơng qua cảm
xúc và dịng ý nghĩ.


+ Có khi các nhà văn khách quan kể lại diễn biến đó nhưng cũng có khi Nam Cao
và Kim Lân nhập thân vào nhân vật, trần thuật lại diễn biến tâm trạng thông qua lời
văn nửa trực tiếp. Tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của mỗi nhà văn khơng chỉ giúp
cho các nhân vật nổi hình nổi sắc mà còn giúp các nhà văn thể hiện sâu sắc tình
cảm nhân đạo của mình.


- Điểm khác nhau:


+ Qua diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau buổi sáng gặp Thị Nở, ta thấy đó là
tâm trạng của con người đang đứng trước bi kịch của đời mình; Chí Phèo “lần đầu
tiên thức tỉnh” sau một cơn say dài - nhận thức sự bần cùng hóa dẫn đến tha hóa,
lưu manh hóa của bản thân và khát khao muốn quay lại cuộc sống lương thiện; qua
đó nhà văn Nam Cao thể hiện tin tưởng vào sự thức tỉnh lương tâm của người nơng
dân trước cách mạng.


+ Trong đoạn trích của “Vợ nhặt”, cùng tả tâm trạng nhân vật vào buổi sáng, Kim


Lân đã phát hiện ra sự thay đổi và trưởng thành trong nhận thức, tình cảm và hành
động của nhân vật Tràng. Nó khơng phải q đột ngột bất ngờ mà nó là một lát cắt
trong chuỗi diễn biến tâm trạng đầy ngạc nhiên, có sự thay đổi dần dần của Tràng
từ lúc “nhặt” được vợ cho đến cuối truyện.


=> Qua đó, tác giả có cái nhìn trân trọng, ca ngợi người nơng dân dù trong hồn
cảnh hết sức bi đát vẫn có ý thức xây dựng hạnh phúc gia đình. Nhân vật Chí Phèo
tuy thức tỉnh để khao khát hoàn lương như cuối cùng rơi vào bi kịch bị cự tuyệt
quyền làm người, còn nhân vật Tràng cuối cùng đã được đổi đời, tìm thấy hạnh
phúc đích thực của cuộc đời…


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

- Đánh giá khái quát vấn đề: Qua hai đoạn trích đều thể hiện tài năng khắc họa nghệ
thuật miêu tả tâm lí nhân vật của hai nhà văn; qua đó cũng góp phần thể hiện giá trị
nhân đạo sâu sắc.


<b>Bài văn cảm nhận hay về tâm trạng nhân vật Tràng sau khi lấy Thị</b>


<b>về làm vợ</b>



“Vợ Nhặt” là truyện ngắn được trích trong tập truyện “Xóm ngụ cư” của nhà văn
Kim Lân. Câu truyện kể về nhân vật anh cu Tràng một người nơng dân hiền lành
chất phác trong nghịch cảnh lại có được hạnh phúc lứa đôi. Không chỉ xây dựng
nhân vật thành cơng qua nét tính cách và ngoại hình, Kim Lân cịn khắc họa rất
thành cơng diễn biến tâm trạng của nhân vật này.


Vợ Nhặt được lấy bối cảnh từ nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945 khi mà đất
nước ta có đến 2 triệu người chết đói. Nhân dân ta chịu cảnh áp bức một cổ hai
tròng. Ở miền Bắc, phát xít Nhật bắt dân ta phải nhổ lúa trồng đay. Thực dân Pháp
thì ra sức vơ vét thóc gạo của người nơng dân. Hậu quả là đến cuối năm 1945,
người dân rơi vào thảm cảnh bi thương khi hàng triệu người bị chết đói. Đây được
xem là nạn đói lớn nhất trong lịch sử. Nhưng kỳ lạ thay ngay cả trong hồn cảnh


đói khát tăm tối nhất khi người ta cận kề bên miệng vực của cái chết thì những con
người lao động Việt Nam vẫn lạc quan hướng về tương lai hạnh phúc hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Trong cái cơn thóc cao gạo kém đó, một người vừa xấu xí lại nghèo như Tràng
khơng ai có thể hình dung được là hắn có thể có vợ. Mà hoàn cảnh lấy được vợ
cũng hết sức thú vị. Hắn nhặt được vợ trên đường đi đẩy xe bò chở thóc về nhà. Thị
đã theo hắn về nhà sau lời mời chào tưởng như bông đùa và bốn bát bánh đúc ở chợ
huyện.


Kim Lân đã dành rất nhiều trường đoạn để miêu tả diễn biến của nhân vật Tràng
sau khi nhặt được vợ. Đầu tiên khi nghe những lời hàng xóm xì xầm, bàn tán chê
bai: ”chao ơi, thời buổi nào cịn rước cái của nợ ấy về, có ni nổi nhau sống qua
ngày không?”. Nhưng Tràng nghe thấy thế cũng chỉ “Chậc. Kệ” giờ đây hắn chỉ
cịn “tình nghĩa với người đàn bà đi kế bên”. Hắn tủm tỉm cười hai mắt sáng lấp
lánh mơ về niềm hạnh phúc tương lai.


Buổi sáng hôm sau khi Tràng thức dậy tâm trạng của hắn thực sự thay đổi. Niềm
vui lâng lâng trong người khi hắn nhìn thấy nhà cửa dọn sạch sẽ tinh tươm. Mẹ hắn
đang nhổ cỏ vườn. Vợ đang quét sân tiếng chổi vang lên đều đều. Bỗng nhiên, hắn
cảm thấy yêu thương gắn bó với cái nhà của hắn một cách lạ lùng. Thế là từ đây
hắn đã có một gia đình, hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây. Cái nhà sẽ trở thành
nơi che mưa che nắng cho vợ chồng hắn. Một nguồn sung sướng và phấn chấn
dâng lên trong lòng Tràng. Lúc này, Tràng cũng biết bổn phận của người đàn ông
trong gia đình cần lo lắng cho vợ. Hắn cũng chạy xăm xăm ra giữa sân và tham dự
vào một phần giúp tu sửa căn nhà. Chỉ trong một đoạn văn ngắn ngủi mà Kim Lân
đã lột tả được tâm trạng của nhân vật Tràng. Từ bất ngờ, bỡ ngỡ cho đến hạnh phúc
tột cùng khi biết mình đã có gia đình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>Bài văn liên hệ nhân vật Tràng với Chí Phèo ấn tượng của nam sinh</b>


<b>Vũng Tàu</b>




Tơi định viết một số truyện ngắn những ý khác là khi đói người ta không nghĩ đến
con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm
đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn
tin vào sự sống và vẫn hy vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người”.
Đây là lời tự sự của chính tác giả truyện ngắn Vợ nhặt – nhà văn Kim Lân – người
một lòng đi về với vẻ đẹp thuần hậu nguyên thủy làng quê khuất lấp sau dãy tre
làng. Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân để lại ấn tượng trong lịng bạn
đọc khơng chỉ bởi thơng điệp giàu ý nghĩa mà cịn bởi giá trị tinh thần và giá trị
giáo dục giàu có của thiên truyện này. Truyện được lấy cảm hứng và viết từ nạn đói
năm 1945. Sau đó, bị mất bản thảo nhưng khi hịa bình lập lại (1954), ơng dựa vào
cốt truyện cũ viết nên truyện ngắn này và in trong tập Con chó xấu xí.


Cốt truyện xoay quanh ba nhân vật là Tràng, bà cụ Tứ (mẹ Tràng) và Thị – người
vợ nhặt (vợ Tràng). Nhân vật nào cũng đều là hiện thân của những người nơng dân
trong nạn đói năm ấy, khốn khổ, đói rách. Hồn cảnh nạn đói ấy đã ảnh hưởng sâu
sắc đến ngoại hình và tính cách của họ. Tuy nhiên, được sống trong tình thương của
gia đình, của tình người, những phẩm chất tốt đẹp tiềm ẩn trong họ mới lộ thiên.


Cùng với người vợ nhặt, nhân vật Tràng là một con người với hai phương diện tính
cách đối lập như thế khi được sống trong những hồn cảnh khác nhau “một gã trai
q nơng nổi, liều lĩnh nhưng lại đầy khát khao và tốt bụng”. “Nông nổi” là bồng
bột, thiếu cân nhắc suy nghĩ trước khi hành động, “liều lĩnh” là hành động mà
không nghĩ đến hậu quả tai hại có thể xảy ra. “Khao khát” là muốn có một cuộc
sống hạnh phúc như bao người, “tốt bụng” có lịng tốt, thương người và sẵn sàng
giúp đỡ người khác. Đó là hai mặt tính cách đối lập do hồn cảnh sống tạo ra. Tuy
hai tính cách có đối lập nhau nhưng chúng lại bổ sung cho nhau để hoàn thiện nhân
vật Tràng trong tác phẩm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

mướn cho những người có quyền thế, có tiền của. Họ cịn phải chịu cái nhìn ghẻ


lạnh, khinh miệt từ người dân địa phương. Tràng làm nghề đẩy xe thóc th cho
Liên đồn Nhật. Một nghề bấp bênh, ngắn hạn không ổn định. Tràng sống cùng
người mẹ già trong một ngơi nhà “rúm ró” nằm trong một mảnh vườn mọc lổn
nhổn những búi cỏ dại, xiêu vẹo, tối tăm, sống đời “mẹ quá, con côi” cơ cực cùng
bà mẹ già.


Trong cái nạn đói năm ấy, người đói chết thây chất đầy đường, thiếu ăn đến độ phải
ăn rễ cây mà sống, có được bát cháo cám mà húp thơi đã là một ân huệ rất lớn. Gia
đình Tràng cũng chẳng ngoại lệ, cuộc sống bấp bênh khi tương lai của mình cịn lo
chưa xong, ở nhà “gạo chỉ đếm bằng hạt”. Thế nhưng, chỉ với hai lần gặp gỡ người
đàn bà xa lạ trong hai lần kéo xe bò lên tỉnh, Tràng đã sẵn sàng đãi người đàn bà ấy
bốn bát bánh đúc, cho không, biếu không Thị mấy cái thúng con,… Thế thì có nơng
nỗi khơng?


Khơng chỉ thế, trong tình cảnh “đến cái thân mình cịn lo chưa xong” mà Tràng lại
dẫn Thị về nhà, thêm một miệng ăn là thêm một “cơ hội” chết đói. Tính mạng mình
mà cũng khơng màng, thế có phải là liều lĩnh không? Lý giải cho hành động nông
nỗi, liều lĩnh này, phải kể đến tài năng của nhà văn Kim Lân.


Kim Lân đã rất thành công trong việc phác họa được một anh nông dân đúng bản
chất khù khờ, hiền lành và chất phác. Nếu hiểu Tràng là người đầy khát khao và tốt
bụng thì chẳng có gì nhân văn cả. Vậy Tràng bao dung, thương người ? Chính cái
tính hồn nhiên, vô tư ấy là bước đệm, là nền tảng tạo dựng hạnh phúc cho Tràng
sau này. Cái tính tốt bụng bắt đầu từ khi gặp người đàn bà xa lạ, khi chưa có danh
phận gì với nhau cả, chỉ là người lạ gặp qua đường. Anh đã cho đi, để rồi anh đã
nhận lại thứ quý giá nhiều hơn thế.


Tràng tốt bụng nhưng khao khát có vợ của Tràng rất mãnh liệt, dẫu trong vài chi
tiết hé lộ khá kín đáo, nhà văn đã cho bạn đọc thấy được điều đó: Trong lần thứ
nhất, Tràng đẩy xe bị lên tỉnh gặp Thị, Tràng hị một câu tưởng tình cờ cho đỡ mệt


nhưng thật ra lại đầy tình ý:


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì


Khi Thị nhận lời, Tràng thích lắm. “Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con
gái nào cười với hắn tình tứ như thế”. Rồi cả trong câu nói vu vơ nhưng đầy tình
thương và thành ý: “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khn hàng lên xe rồi cùng
về”.


Nhà văn Kim Lân muốn nhấn mạnh với bạn đọc điều gì qua khát vọng hạnh phúc
gia đình của Tràng ? Là dù trong hồn cảnh nghèo đói cơ cực hay thậm chí là cái
chết đang chờ đón trước mắt thì khao khát hạnh phúc của con người vẫn ln dạt
dào, mãnh liệt. Tình người, hạnh phúc luôn mang đến những điều kỳ diệu, tươi đẹp
cho cuộc sống để con người cảm thấy muốn sống, sống đẹp hơn trong những ngày
cằn cỗi, khắc nghiệt. Chính điều đó đã làm cái vẻ xấu xí, thơ kệch của Tràng bị lấn
át bởi vẻ đẹp tỏa sáng tự bên trong.


Những ấn tượng còn lại về Tràng: Anh là một con người bao dung, ấm áp và đầy
tình yêu thương. Ngoài vườn mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ
hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật
đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên
hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Và nghĩ về tương lai
tươi sáng sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che
nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn
mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.


Cuối tác phẩm, Tràng nghĩ về “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” làm
người đọc hình dung ra rằng khát khao hạnh phúc mãnh liệt tương lai tươi sáng vẫn
đang bùng cháy le lói trong tâm hồn của Tràng. Với ngơn ngữ mộc mạc, giản dị,
đậm chất nông dân được chắt lọc kỹ lưỡng giàu sức gợi, xây dựng tình huống


truyện độc đáo, miêu tả tâm lý nhân vật hấp dẫn sinh động. Nhà văn Kim Lân đã
xây dựng thành công nhân vật Tràng: “một gã trai quê nông nổi, liều lĩnh nhưng
vừa lại đầy khát khao và tốt bụng” như ý kiến ở đề bài đã đánh giá.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

được tiếng vang lớn với hình tượng điển hình Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên ra
đời năm 1941, tức trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.


Chí là một người hiền hậu, chất phác được dân làng Vũ Đại cưu mang. Anh cũng
ước mơ có một cuộc sống bình dị như bao người “một cuộc sống nho nhỏi, chồng
cày thuê, vợ dệt vải”. Chỉ vì cường quyền của chế độ phong kiến khi chưa có Đảng
lãnh đạo mà đứa con tinh thần của tác phẩm đã bị chà đạp không thương tiếc. Chí
Phèo là nhân vật điển hình cho người nơng dân bần cùng dẫn đến lưu manh hóa –
quy luật có tính phổ biến trong xã hội trước Cách mạng. Cịn Tràng lại tiêu biểu
cho người nơng dân vùng nơng thơn trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu (1945).
Nhìn chung, số phận của Chí Phèo đáng thương, đau khổ hơn Tràng: bị cự tuyệt
quyền làm người.


Ngoài những yếu tố chi phối như đề tài, cảm hứng, phong cách, quan niệm nghệ
thuật, tư tưởng, khuynh hướng sáng tác của mỗi nhà văn có khác nhau thì có lẽ bối
cảnh ra đời của hai tác phẩm là yếu tố quyết định đến sự khác nhau trong số phận
của hai người nông dân này.


Tác phẩm Chí Phèo ra đời trước Cách mạng tháng Tám, đồng nghĩa với việc số
phận và cuộc đời người nơng dân hồn tồn bế tắc, khơng lối thốt. Khơng phải vậy
mà Chí Phèo với bản chất vốn lương thiện đã không thể tồn tại trong xã hội ấy đó
sao? Anh phải tìm đến cái chết để được làm người… lương thiện.


Cịn với Vợ nhặt thì khác, dù lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu (1945) nhưng tác
phẩm được viết lại vào năm 1955, tức sau Cách mạng tháng Tám. Văn học thời kỳ
này phải gắn liền và phục sự cho sự nghiệp cách mạng. Do vậy, số phận của người


nông dân, mà chủ yếu qua nhân vật Tràng có nhiều điểm khác biệt: Có lối thốt với
kết thúc có hậu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

nhân đạo cũng như sự nhìn nhận đa chiều để trân trọng vẻ đẹp con người của hai
nhà văn.


(Bài làm của bạn Lâm Ngọc Tú, THPT Lê Quý Đôn, TP Bà Rịa – Vũng Tàu)


<b>Bài tham khảo 3</b>


Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo. Sáng tác
trước cách mạng của ơng xoay quanh hai đề tài chính là nơng dân nghèo và trí thức
nghèo. Truyện ngắn “Chí Phèo” là kiệt tác của Nam Cao, thể hiện rõ phong cách
nghệ thuật của ông. Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn xuôi
hiện đại Việt Nam. Ông là một cây bút viết truyện ngắn tài hoa. Thế giới nghệ thuật
của Kim Lân chủ yếu tập trung ở khung cảnh nơng thơn và hình tượng người nông
dân. “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, in trong tập
“Con chó xấu xí”. Qua việc khắc họa hai nhân vật trong hai đoạn trích trên, ta thấy
được sự thành cơng của hai nhà văn trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật.


Sau cuộc gặp gỡ tình cờ của Chí Phèo với thị Nở, Chí Phèo lần đầu tiên
tỉnh rượu. Chí đã tỉnh rượu sau một cơn say rất dài. Trước đó Chí đã là tay sai cho
kẻ thống trị nham hiểm – Bá Kiến. Bá Kiến lợi dụng Chí Phèo để trừ khử những
phe cánh đối nghịch, gây ra bao tội ác với dân làng mà yếu tố hỗ trợ cho Chí là
rượu. Vì thế đời Chí là một cơn say dài mênh mơng. Cơn say đã lấy mất của hắn
già nửa cuộc đời, đẩy hắn vào kiếp sống thú vật tăm tối.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Âm thanh ấy cũng đánh thức hiện tại đầy cay đắng. Hắn không nhớ mình
năm nay bao nhiêu tuổi; chỉ biết đã qua bên kia con dốc của cuộc đời. Hắn nhận ra
hiện tại đã già mà vẫn cịn cơ độc. Nghĩ đến tương lai, hắn chạnh lịng vì phải đối


mặt với một “đói rét, ốm đau và cơ độc, cơ độc, cịn sợ hơn cả đói rét và ốm đau”.
Khi ý thức được hiện tại, đốn biết được tương lai, Chí khơng còn là quỷ dữ nữa
mà đã trở lại năng lực làm người.


Khi thấy bát cháo hành của Thị Nở, Chí Phèo ngạc nhiên và thấy “mắt
mình như ươn ướt”. Hắn xúc động vì lần đầu tiên được chăm sóc, lại là sự chăm
sóc của một người đàn bà. Và cũng bởi vì đây là lần đầu Chí được bàn tay của một
người đàn bà cho. Hắn nhận ra bát cháo hành mà hắn đón lấy là “cái cho” đầu tiên
của cuộc đời, vì xưa nay muốn có cái ăn, hắn phải rạch mặt ăn vạ. Điều ấy khiến
Chí chạnh lịng nhận ra bi kịch của đời mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Nếu lúc trước Chí say và ngã vào Thị vì Chí khơng biết rằng người đàn bà
ấy vừa dở hơi vừa xấu xí, xấu đến mức ma chê quỷ hờn. Nhưng lúc này, khi hoàn
toàn tỉnh táo, Chí khơng những chấp nhận thị mà cịn u thị. Bởi chỉ có tình u
mới khiến con người ta thấy xấu cũng thành đẹp. Và Chí say thị thật. Đàn bà khơng
có men như rượu nhưng cũng có thể làm người ta say. Chí thấy thị có dun lắm.
Vậy là Chí tỉnh, hắn đâu có say. Chính vì Chí tỉnh nên hắn mới cảm nhận được
những hương vị của cuộc sống, của tình yêu. Những chi tiết này cho ta khám phá ra
thêm một đức tính nữa của Chí. Đó là tính thiện – Nam Cao tin rằng: lương thiện là
thứ không bao giờ mất đi ở người nơng dân. Đó là tấm lịng nhân đạo cao cả của
nhà văn dành cho nhân vật.


Đã có lúc, Chí hồn nhiên, hắn thấy lòng thành trẻ con, muốn làm nũng với
Thị như làm nũng với mẹ. Ý nghĩ hồn nhiên ấy khiến Chí như trẻ lại. Còn người
đọc nhận ra một điều chua chát: Chí khơng có mẹ, hắn chưa bao giờ được nhận sự
yêu thương từ mẹ. Bởi thế thị đối với hắn như người ban ơn vậy. Rồi hắn khao khát
hạnh phúc. Tình yêu với Thị Nở khiến hắn đủ hi vọng và mong ước có một gia
đình: “Giá cứ như thế này mãi thì thích nhỉ”; “Hay là mình sang ở với tớ một nhà
cho vui”. Thầy Phan Danh Hiếu. Rồi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với
mọi người. Chí khơng cịn là kẻ rạch mặt ăn vạ nữa, khơng cịn là con quỷ dữ nữa.


Hắn thực sự đã trở lại làm người với hai chữ “con người” đúng nghĩa. Như vậy, thị
Nở chính là “thiên thần” của Chí. Thị khơng có đơi cánh tình u như trong thần
thoại nhưng lại ấm nóng như lửa và mạnh mẽ như gió. Nếu là gió, thị sẽ thổi tung
đám tàn tro nguội lạnh vây quanh cuộc đời của Chí. Nếu là lửa, lửa sẽ đốt bỏ lớp vỏ
quỷ dữ để trả lại cho anh hình hài của một con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ, Tràng có nhiều thay đổi. Tràng sung
sướng, hạnh phúc, hãnh diện: thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở
trong giấc mơ đi ra”, việc có vợ đối với hắn vẫn hết sức bất ngờ. Tràng nhận ra sự
thay đổi xung quanh khiến anh cảm động: “có cái gì vừa thay đổi mới lạ”: “Nhà
cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc
quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra
sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc cây ổi đã kín nước đầy ăm
ắp”, bà cụ Tứ lúi húi giẫy cỏ, nàng dâu quét tước, nấu nướng. Tất cả những cảnh
tượng đó thật bình thường nhưng đủ làm cho hắn cảm động vì chưa bao giờ Tràng
được trải qua niềm hạnh phúc giản dị như thế.


Tràng có sự thay đổi trong suy nghĩ: yêu thương, gắn bó với gia đình; thấy
có trách nhiệm phải lo lắng cho vợ con; và ngời lên niềm tin vào tương lai tươi
sáng. Tràng thấy cuộc đời mình bỗng nhiên thay đổi hẳn, hắn thấy mình trưởng
thành (“nên người”) và cần có trách nhiệm với gia đình của mình:


“Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn
đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm
che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lịng”.
Bởi vì Tràng đã có một gia đình, và trong cái buổi sáng đầu tiên ấy, hắn đã được
tắm mình trong khơng khí ấm áp, hạnh phúc của tổ ấm gia đình.


Tác giả đã đặt nhân vật vào tình huống độc đáo để nhân vật bộc lộ phẩm
chất, tính cách; Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đậm


chất nông thơn và có sự gia cơng sáng tạo của nhà văn. Cách kể chuyện tự nhiên,
hấp dẫn, dựng cảnh sinh động với nhiều chi tiết đặc sắc...


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Có khi các nhà văn khách quan kể lại diễn biến đó nhưng cũng có khi
Nam Cao và Kim Lân nhập thân vào nhân vật, trần thuật lại diễn biến tâm trạng
thông qua lời văn nửa trực tiếp. Tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của mỗi nhà văn
khơng chỉ giúp cho các nhân vật nổi hình nổi sắc mà cịn giúp các nhà văn thể hiện
sâu sắc tình cảm nhân đạo của mình.


Ngồi những yếu tố chi phối như đề tài, cảm hứng, phong cách, quan
niệm nghệ thuật, tư tưởng, khuynh hướng sáng tác của mỗi nhà văn có khác nhau
thì có lẽ bối cảnh ra đời của hai tác phẩm là yếu tố quyết định đến sự khác nhau
trong số phận của hai người nông dân này.


Qua diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau buổi sáng gặp Thị Nở, ta thấy
đó là tâm trạng của con người đang đứng trước bi kịch của đời mình; Chí Phèo “lần
đầu tiên thức tỉnh” sau một cơn say dài - nhận thức sự bần cùng hóa dẫn đến tha
hóa, lưu manh hóa của bản thân và khát khao muốn quay lại cuộc sống lương thiện;
qua đó nhà văn Nam Cao thể hiện tin tưởng vào sự thức tỉnh lương tâm của người
nông dân trước cách mạng.


Trong đoạn trích của “Vợ nhặt”, cùng tả tâm trạng nhân vật vào buổi
sáng, Kim Lân đã phát hiện ra sự thay đổi và trưởng thành trong nhận thức, tình
cảm và hành động của nhân vật Tràng. Nó khơng phải q đột ngột bất ngờ mà nó
là một lát cắt trong chuỗi diễn biến tâm trạng đầy ngạc nhiên, có sự thay đổi dần
dần của Tràng từ lúc “nhặt” được vợ cho đến cuối truyện.


Qua đó, tác giả có cái nhìn trân trọng, ca ngợi người nơng dân dù trong
hồn cảnh hết sức bi đát vẫn có ý thức xây dựng hạnh phúc gia đình. Nhân vật Chí
Phèo tuy thức tỉnh để khao khát hoàn lương như cuối cùng rơi vào bi kịch bị cự


tuyệt quyền làm người, còn nhân vật Tràng cuối cùng đã được đổi đời, tìm thấy
hạnh phúc đích thực của cuộc đời…


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

được tấm lịng nhân đạo cũng như sự nhìn nhận đa chiều để trân trọng vẻ đẹp con
người của hai nhà văn.


<b>Bài tham khảo 4</b>


Nam Cao và Kim Lân là hai ngịi bút nổi tiếng và thành cơng nhất khi viết về
đề tài người nông dân trong xã hội cũ, với những nỗi khốn khổ và bất công cùng
cực diễn ra trong nhiều số phận con người những năm trước cách mạng. Trong đó
nếu như Nam Cao viết về những bi kịch và kết thúc đau thương tiêu biểu là cuộc
đời của Chí Phèo, thì Kim Lân lại có cái nhìn tươi sáng và dịu dàng hơn hẳn, ơng
khơng q chú trọng vào vấn đề phản ánh hiện thực mà thay vào đó ơng chú tâm đi
tìm những vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trong xã hội cũ, đồng thời gửi gắm
reo rắc hy vọng ngay cả trong những hoàn cảnh khốn nạn nhất của xã hội, điều đó
có thể nhìn thấy rõ trong tác phẩm Vợ nhặt với nhân vật Tràng. Tuy nhiên dù viết
theo xu hướng nào, thì ở cả hai tác phẩm, diễn biến tâm trạng của Chí Phèo và
Tràng đều rất đáng chú ý, thể hiện được tài năng riêng của mỗi tác giả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16></div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

người chồng người chủ gia đình khi mà "Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. Hắn
thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này", và ngay khi ý thức thức
được điều ấy Tràng đã ngay lập tức có những hành động rất thực tế "hắn chạy xăm
xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa căn nhà". Hơn
thế nữa, trong bữa cơm mừng dâu mới, việc thị nhắc đến chuyện người ta cướp kho
thóc ở Thái Nguyên, Bắc Giang dường như đã gợi ra trong lòng Tràng những
chuyển biến mới, Tràng cảm thấy tiếc nuối khi một dạo trước nhìn thấy người ta
kéo nhau đi cướp kho thóc, mà mình lại bỏ qua. Có lẽ rằng, từ giờ trở đi nếu thấy
chuyện ấy một lần nữa Tràng sẽ hòa vào đám người kia chăng, hoặc có thể trở
thành một trong những người dẫn đầu cho phong trào ấy cũng nên. Việc xây dựng


gia đình khơng chỉ đem đến cho Tràng niềm tin, niềm hy vọng và cuộc sống mà
còn cả sức mạnh tinh thần, sự liều lĩnh dám hướng tới một con đường mới tươi
sáng hơn khi hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới xuất hiện trong suy nghĩ của nhân vật
này. Có thể thấy rằng diễn biến tâm trạng của Tràng rất ổn định và ln diễn tiến
theo một xu hướng tích cực, mở ra một tương lai tươi sáng đầy hy vọng, vượt qua
mọi khó khăn trắc trở kinh hồng trong lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18></div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

vọng và khao khát hạnh phúc, nhưng rồi cuối cùng phải chịu cái kết tang thương
khi bị đạp rơi xuống hố sâu của tuyệt vọng rồi kết thúc cuộc đời trong đau đớn.


So với Chí Phèo nhân vật Tràng có một cái kết tốt đẹp và viên mãn hơn, bởi lẽ
tác giả đã mở ra cho nhân vật của mình những con đường sáng, đồng thời mục đích
chính là làm nổi bật những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý vượt lên trên mọi hồn cảnh.
Trái lại đối với Chí Phèo, Nam Cao muốn khắc sâu hiện thực xã hội thế nên cái kết
bi kịch của nhân vật là một điều tất yếu. Trong đó điểm chung đáng chú ý của hai
tác phẩm mà ta cần nhớ ấy là vẻ đẹp của sức sống tiềm tàng, niềm tin, niềm hy
vọng sống, khát khao hạnh phúc, tình yêu mãnh liệt trong cuộc đời của cả hai nhân
vật.


</div>

<!--links-->

×