Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Hãy làm rõ tác động của đầu tư đến tăng trưởng và dịch chuyển cơ cấu kinh tế của các quốc gia. Liên hệ với thực tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.45 KB, 25 trang )

BÀI TẬP TIỂU LUẬN

MÔN KINH TẾ ĐẦU TƯ
Đề bài:
Hãy làm rõ tác động của đầu tư đến tăng trưởng và dịch chuyển cơ
cấu kinh tế của các quốc gia. Liên hệ với thực tế Việt Nam.


LỜI MỞ ĐẦU
Đầu tư là yếu tố quyết định đến sự phát triển và là chìa khóa của sự
tăng trưởng của mọi quốc gia.
Kết quả hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà
nước đã mang lại cho VN nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế, giảm đói
nghèo, nâng cao mức sống cho người dân. Chính sách đổi mới cũng đã đưa
nền kinh tế VN ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Trong bối
cảnh VN là thành viên của khối ASEAN, tham gia AFTA và APEC, thực hiện
có hiệu quả Hiệp định thương mại với Mỹ, trở thành thành viên của tổ chức
thương mại thế giới (WTO), thị trường xuất khẩu của VN ngày càng mở rộng,
xu hướng các nguồn vốn từ bên ngoài đổ vào VN ngày càng tăng qua các
kênh đầu tư trực tiếp và gián tiếp…
Tất cả những nhân tố trên đã tạo điều kiện cho kinh tế VN phát triển.
Đây cũng là cơ hội tốt để VN thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển đất
nước là đến năm 2020 về cơ bản, trở thành một nước công nghiệp. Tuy nhiên,
quá trình hội nhập, nền kinh tế VN cũng gặp nhiều khó khăn và thách thức đó
là hiệu quả đầu tư thấp, nhiều chỉ số chất lượng tăng trưởng còn thấp so với
yêu cầu, tình hình khủng hoảng tài chính Mỹ và thế giới cũng có tác động tiêu
cực đến nền kinh tế VN.
Với tính cấp bách cả về mặt lý luận và thực tiễn tác động của đầu tư
đến tăng trưởng và dịch chuyển cơ cấu kinh tế em chọn đề tài:
"Hãy làm rõ tác động của đầu tư đến tăng trưởng và dịch chuyển cơ
cấu kinh tế của các quốc gia. Liên hệ với thực tế Việt Nam"


Trong giới hạn của bài viết này em xin được trình bày 3 vấn đề chính
đó là: Thứ nhất, tổng quan về tác động của đầu tư phát triển đến tăng trưởng
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thứ hai, Tác động của đầu tư đến tăng trưởng
kinh tế các nước và Việt Nam. Thứ ba, Đổi mới cơ cấu đầu tư của nền kinh tế
Việt Nam thời kỳ sau khủng hoảng.
Phương pháp phân tích gồm cả định tính mô tả thống kê và định lượng
qua các công thức tính toán. Số liệu sử dụng trong phân tích chủ yếu lấy từ số
liệu thứ cấp-số liệu thống kê qua các nguồn như Niên giám thống kê VN, số
liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới (World Bank), Quỹ tiền tệ Quốc tế
(IMF), Tổ chức Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP), và Tổ chức Thương mại
Quốc tế (WTO).

2


Chương I
TỔNG QUAN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN
TĂNG TRƯỞNG VÀ DỊCH CHUYỂN CƠ CẤU KINH TẾ
Đầu tư là sự hy sinh tiêu dùng của ngày hôm nay để kỳ vọng tiêu dùng
trong tương lai; Là việc bỏ vốn ở thời điểm hiện tại để mong đạt được hiệu
quả cao hơn trong tương lai (cả về kinh tế và xã hội) nhằm tạo ra lợi nhuận và
tiềm lực lớn hơn.
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn
trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra
những tài sản vật chất và tài sản trí tuệ, gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm
việc làm và vì mục tiêu phát triển.
Đầu tư phát triển đòi hỏi rất lớn nhiều loại nguồn lực: Vốn, nhân lực,
đất đai, máy móc, thiết bị, nguyên vật liêu…Đối tượng của đầu tư hát triển là
tập hợp các các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện nhằm đạt được
những mục tiêu nhất định. Kết quả của đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài

sản vật chất, tài sản trí tuệ và tài sản vô hình. Hoạt động của đầu tư là một quá
trình, diễn ra trong trong thời kỳ dài và tồn tại vấn đề về độ trễ thời gian. Mục
đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích của quốc gia
cộng đồng và nhà đầu tư.
Nguồn vốn đầu tư phát triển là nguồn tích lũy tập trung và phân phối
cho đàu tư. Nguồn hình thành vốn đầu tư phát triển chính là phần tiết kiệm
hay tích lũy mà nền kinh tế có thể huy động để đưa vào quá trình tái sản xuất
xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước
ngoại. Nguồn vốn trong nước gồm vốn nhà nước, vốn dân doanh và vốn trên
thi trường vốn. Nguồn vốn ngoài nước gồm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI), vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay thương mại nước
ngoài và nguồn vốn trên thị trường vốn quốc tế.
I- Tác động của đầu tư đến tăng trưởng kinh tế.
1- Tác động của đầu tư đến tốc độ tăng trưởng kinh tế
Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng kinh
tế thể hiện ở công thức tính hệ số ICOR. Cần nhận thức rõ vai trò của hệ số
ICOR trong phân tích, dự báo tăng trưởng và hiệu quả đầu tư.
Hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio - Tỷ số gia tăng của
vốn so với sản lượng) là tỷ số giữa qui mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng
sản lượng, hay là suất đầu tư cần thiết để tạo ra đơn vị sản lượng (GDP) tăng
thêm.
Tỷ lệ vốn đầu tư /GDP
ICOR =
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Hệ số ICOR của nền kinh tế cao hay thấp chịu ảnh hưởng của rất nhiều
nhân tố:
Do thay đổi cơ cấu đầu tư ngành: Cơ cấu đầu tư ngành thay đổi ảnh
hưởng đến hệ số ICOR từng ngành do đó tác dụng đến hệ số ICOR chung.
3



Do sự phát triển của khoa học công nghệ: Sự phát triển của khoa học
công nghệ có ảnh hưởng cả 2 mặt đến hệ số ICOR. Gia tăng đầu tư cho khoa
học công nghệ một mặt làm tăng tử số của công thức, mặt khác sẽ tạo ra
nhiều ngành mới, công nghệ mới làm máy móc hoạt động có hiệu quả hơn,
tạo ra năng suất cao hơn, kết quả đầu tư tăng lên làm tăng mẫu số của công
thức. Như vậy hệ số ICOR tăng hay giảm phụ thuộc vào xu hướng nào chiếm
ưu thế.
Do cơ chế chính sách và phương pháp tổ chức quản lý: Cơ chế chính
sách và phương pháp quản lý phù hợp thì đầu tư có hiệu quả hơn.
Về ưu điểm, hệ số ICOR là chỉ tiêu quan trọng để dự báo tốc độ tăng
trưởng kinh tế hoặc dự báo quy mô vốn đầu tư cần thiết để đạt một tốc độ
tăng trưởng kinh tế nhất định trong tương lai. Kết quả dự báo là cơ sở quan
trọng để xây dựng các chính sách kinh tế xã hội và lập các kế hoạch liên
quan. Trong những trường hợp nhất định, hệ số ICOR được xem là một trong
những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư. ICOR giảm cho thấy để tạo ra một
đơn vị GDP tăng thêm, nền kinh tế phải bỏ ra một số lượng vốn ít hơn, nếu
các điều kiện khác ít thay đổi
Tuy nhiên hệ số ICOR có nhược điểm: mới chỉ phẩn ánh ảnh hưởng
của các yếu tố vốn đầu tư mà chưa tính đến ảnh hưởng của các yếu tố sản
xuất khác trong việc tạo ra GDP tăng thêm. ICOR cũng bỏ qua sự tác động
của các ngoại ứng như điều kiện tự nhiên, xã hội, cơ chế chính sách. Hệ số
ICOR không tính đến độ trễ thời gian của kết quả và chi phí (tử số và mẫu số
của công thức), vấn đề tái đầu tư.
ICOR mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ
phát triển và cơ chế chính sách trong nước. Ở các nước phát triển, ICOR
thường lớn từ 6-10 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để
thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Ở các nước
chậm phát triển, ICOR thấp từ 3-5 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và
cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém

hiện đại, giá rẻ. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công
nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng
lực.
2- Tác động của đầu tư tới chất lượng tăng trưởng kinh tế
Đầu tư có ảnh hưởng quan trọng không chỉ đến tốc độ tăng trưởng cao
hay thấp mà còn ảnh hưởng đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Tăng quy mô
đầu tư vốn, sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố rất quan trọng góp
phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác động đến
dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HDDH, nâng cao sức cạnh tranh
của nền kinh tế…do đó nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Trên góc độ phân tích đa nhân tố, vai trò của đầu tư đối với tăng
trưởng kinh tế thường được phân tích theo biểu thức sau:
G=Di + Dl + TFP
Trong đó: - g là tốc độ tăng trưởng GDP
- Di là phần đóng góp của vốn đầu tư vào tăng trưởng GDP
- Dl là phần đóng góp của lao động vào tăng trưởng GDP
4


- TFP là phần đóng góp của tổng các yếu tố năng suất vào tăng trưởng
GDP (gồm đóng góp của công nghệ, cơ chế chính sách)
Chất lượng tăng trưởng là một tập hợp các đặc trưng về kết quả và hiệu
quả của chính tăng trưởng kinh tế. Chất lượng tăng trưởng thể hiện nhất quán
và liên tục trong suốt quá trình tái sản xuất xã hội. Chất lượng tăng trưởng thể
hiện ở cả yếu tố đầu vào như việc quản lý và phân bổ các nguồn lực trong quá
trình tái sản xuất, đồng thời ở cả kết qủa đầu ra của quá trình sản xuất với
chất lượng cuộc sống được cải thiện, phân phối đầu ra đảm bảo tính công
bằng và góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Chất lượng tăng trưởng thể
hiện sự bền vững của tăng trưởng và và mục tiêu tăng trưởng dài hạn, mặc dù
tốc độ tăng trưởngcao trong ngắn hạn là những điều kiện rất cần thiết. Đồng

thời chất lượng tăng trưởng thể hiện ở tính hiệu quả, đặc biệt hiệu quả lan toả
giữa các ngành, các vùng, các khu vực kinh tế khác nhau.
II- Tác động của đầu tư đến dịch chuyển cơ cấu kinh tế
Đầu tư góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật
và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, tạo ra
sự cân đối trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng, phát
huy nội lực của nền kinh tế, trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực.
Khi đầu tư muốn tác động vào cơ cấu kinh tế nó phải tác động vào mặt
số lượng đó là tỷ trọng của các bộ phận trong nền kinh tế quốc dân và mặt
chất lượng đó là đầu tư phải tác động tới vị trí tầm quan trọng của từng bộ
phận kinh tế. Cụ thể hơn vị trí tầm quan trọng của nền kinh tế phải gắn liền
với hiệu quả đầu tư vào chính từng bộ phận đó nói riêng và chiến lược dài hạn
của toàn nền kinh tế nói chung. Sự tác động qua lại của các bộ phận trong nền
kinh tế có thể là ngành, vùng kinh tế và thậm chí trong chính nôi bộ của mỗi
bộ phận.
1- Một số chỉ tiêu đánh giá mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Nếu:
GDP (t )

NN
- Tỷ trọng của ngành nông nghiệp là: β NN (t ) = GDP(t )

GDP (t )

CN
- Tỷ trọng của ngành công nghiệp và xây dựng là: βCN = GDP (t )
CN

GDP (t )


- Tỷ trọng của ngành dịch vụ là: β DV (t ) = GDPDV(t )
- Tỷ trọng của ngành phi nông nghiệp là: β NN t ) = βCN (t ) + β DV (t )
- Tỷ trọng của ngành sản xuất vật chất là: β SXVC (t ) = β NN (t ) + βCN (t )
Thì:
- Hệ số chuyển dịch k của hai ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp
là:
cos θ 0 =

β NN (t ) × β NN (t1) + β PhiNN (t ) × β PhiNN (t1)


2
NN

(t ) + β 2 PhiNN (t )) × ( β 2 NN (t1) + β 2 PhiNN (t1))

θ 0 = arcsin θ 0

5


Góc này bằng 00 khi không có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và 900 khi
sự chuyển đổi cơ cấu là lớn nhất.
k=

00
900

và độ lệch tỷ trọng nông nghiệp là:
d NN = β NN (Tt1) − β NN (t )


- Hệ số chuyển dịch k của hai ngành dịch vụ và sản xuất vật chất là
β DV (t ) × β DV (t1) + βPhiDV (t ) × β PhiDV (t1)
cos θ 0 =
( β 2 DV (t ) + β 2 PhiDV (t )) × ( β 2 DV (t1) + β 2 PhiDV (t1))
θ 0 = arcsin θ 0
00
k= 0
90

và độ lệch tỷ trọng dịch vụ và sản xuất vật chất là:
d DV = β DV (Tt1) − β DV (t )

Có thể sử dụng các chỉ tiêu dưới đây để đánh giá vai trò của đầu tư tác
động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Hệ số co giãn giữa
việc thay đổi cơ cấu
đầu tư với thay đổi
cơ cấu kinh tế
ngành

=

% thay đổi tỷ trọng đầu tư của ngành/ tổng vốn
đầu tư xã hội giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước
% thay đổi tỷ trọng GDP của ngành trong tổng
GDP giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước

Chỉ tiêu này cho biết, để tăng 1% tỷ trọng GDP của ngành trong tổng
GDP (thay đổi cơ cấu kinh tế) thì phải đầu tư cho ngành tăng thêm bao nhiêu.

Hệ số co giãn giữa
việc thay đổi cơ cấu
đầu tư ngành với
thay đổi GDP

=

% thay đổi tỷ trọng vốn đầu tư của ngành nào
đó/ tổng vốn đầu tư xã hội giữa kỳ nghiên cứu
so với kỳ trước
% thay đổi tốc độ tăng trưởng GDP giữa kỳ
nghiên cứu so với kỳ trước

Chỉ tiêu này cho biết để góp phần đưa tăng trưởng kinh tế (GDP) lên
1% thì tỷ trọng đầu tư vào một ngành nào đó tăng bao nhiêu.
2- Đầu tư phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế.
Đầu tư làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng các
ngành kinh tế then chốt, các ngành có tiềm năng, thế mạnh.
Đầu tư vì mục tiêu lợi nhuận thì các ngành có tỉ suất lợi nhuận cao sẽ
được chú trọng đầu tư dẫn đến quy mô và trình độ của ngành đó gia tăng.
Đầu tư nghiên cứu và triển khai có xu hướng làm xuất hiện các ngành
mới, phát triển các ngành kinh tế ký thuậtt cao làm các ngành này lại là nơi
6


thu hút vốn đầu tư, dần dần nó chiếm được vị trí nào đó trong nền kinh tế dẫn
đến cơ cấu kinh tế thay đổi.
Đầu tư vốn vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư vào từng ngành nhiều
hay ít, việc sử dụng vốn có hiệu quả cao hay thấp... đều ảnh hướng đến tốc độ

phát triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo điều
kiện tiền đề vật chất cho sự phát triển các ngành mới...do đó làm dịch chuyển
cơ cấu kinh tế ngành.
Đầu tư gây nên sự chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ nhất là trong ngành
công nghiệp và dịch vụ. Chuyển dịch cơ cấu của khu vực công nghiệp được
thực hiện gắn liền với sự phát triển các ngành theo hướng da dạng hóa, từng
bước hình thành một số ngành trọng điểm và mũi nhọn, có tốc độ phát triển
cao, thuận lợi về thị trường, có khả năng xuất khẩu.
Tỷ trọng của khu vực công nghiệp trong GDP tăng dần thực sự trở
thành động lực cho phát triển kinh tế quốc dân. Chuyển dịch của khu vực
công nghiệp theo hướng hình thành, phát triển một số ngành và sản phẩm mới
thay thế nhập khẩu cung cấp cho thị trường nội địa, nhiều mặt hàng có chất
lượng cao đã chiếm lĩnh thị trường trong nước.
Đối với ngành dịch vụ, đầu tư giúp phát triển các ngành thương mại,
dịch vụ vận tải hàng hóa, mở rộng thị trường trong nước và hội nhập quốc tế.
Đầu tư còn tạo nhiều thuận lợi trong việc phát triển nhanh các ngành dịch vụ
bưu chính viễn thông, phát triển du lịch, mở rộng các dịch vụ tài chính tiền tệ.
Đối với các ngành nông lâm nghiệp, đầu tư tác động nhằm đẩy nhanh
công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn bằng cách xây dựng
kết cấu kinh tế xã hội nông nghiệp nông thôn, tăng cường khoa học công
nghệ...
3- Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ.
Đầu tư làm cơ cấu lãnh thổ chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng đóng
góp vào GDP của các vùng có nhiều lợi thế so sánh, các vùng có điều kiện
thuận lợi, Đầu tư vào vùng khó khăn của đất nước làm thu hẹp khoảng cách
phát triển giữa vùng có điều kiện thuận lợi và các vung có điều kiện kinh tế
khó khăn.
Đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các
vùng lãnh thổ, đưa vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát
huy tối đa lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị...của những

vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng
khác cùng phát triển. Đầu tư vào những vùng kinh tế trọng điểm nhằm phát
huy đươc thế mạnh và tiềm năng của vùng, bên cạnh đó chính phủ còn có
những hoạt động hỗ trợ đầu tư cho những vùng kém phát triển nhằm cải thiện
đời sống nhân dân và giảm chênh lệch kinh tế giữa các vùng.
Thống nhất quy hoạch phát triển trong cả nước, giữa các vùng, tỉnh,
thành phố, tạo sự liên kết trực tiếp về sản xuất, thương mại, đầu tư, giúp đỡ
kỹ thuật và nguồn nhân lực. Nâng cao trình độ dân trí và đào tạo nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng và khu vực.
7


4- Đầu tư tác động đến dịch chuyển cơ cấu thành phần kinh tế.
Đầu tư nước ngoài và đầu tư của khu vực tư nhân gia tăng làm cơ cấu
thành phần kinh tế chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế của từng thành
phần kinh tế, giảm tỉ trọng khu vực kinh tế nhà nước, tăng tỉ trọng của khu
vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài,
Đầu tư tác động nhằm tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong cơ cấu
thành phần kinh tế. Trong những năm qua, cơ cấu thành phần kinh tế của
nước ta đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, đa dạng về hình thức sở hữu. Đặc biệt
là sự đổi mới thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế. Bên cạnh đó còn có sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, sự liên
doanh liên kết giữa các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài ngày càng được chú trọng.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần có tác động về nhiều mặt: giải
phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; tạo ra
cạnh tranh - động lực của tăng trưởng; thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh
tế, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, huy động sức mạnh tổng hợp để phát triển
kinh tế - xã hội; là con đường xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất...

Thực tế để phát huy vai trò tích cực của đầu tư đến việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cần phải thực hiện tốt một số giải pháp sau:
- Các ngành, địa phương cần có qui hoạch tổng thể phát triển KTXH,
trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch đầu tư.
- Đầu tư và cơ cấu đầu tư phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế
xã hội của quốc gia.
- Cần điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng: căn cứ vào thị trường
chung cả nước và phát huy lợi thế so sánh của từng vùng.
- Các ngành, địa phương phải có kế hoạch đầu tư phù hợp khả năng tài
chính, tránh đầu tư phân tán, dàn trải.

8


Chương II
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN TĂNG TĂNG TRƯỞNG VÀ DỊCH
CHUYỂN CƠ CẤU KINH TẾ CÁC NƯỚC VÀ VIỆT NAM
I- Tác động của đầu tư đến tăng trưởng kinh tế
1- Tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế
Các nước Đông Nam Á theo đuổi chiến lược phát triển các ngành có hệ
số vốn thấp nhưng sử dụng nhiều lao động trong suốt 3 thập kỷ nên có được
những tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao, nhưng giữ được hệ số ICOR thấp, đồng
thời cũng thu hút được một lượng lớn lao động. Như vậy vốn đầu tư ở đây
không bị sử dụng lãng phí mà được tập trung vào đúng các ngành nghề phù
hợp với gia đoạn đầu của công nghiệp hoá, các ngành nghề sử dụng nhiều lao
động, đặc biệt là các ngành nghề làm hàng xuất khẩu.
Bảng 1
Số liệu thống kê hệ số ICOR của một số nước qua các giai đoạn
Quốc gia
Giai đoạn Tăng trưởng Tổng đầu ICOR

bình quân
tư/GDP
(% năm)
(%)
Hàn quốc
1961-1980
7,8
23,3
3,0
Đài Loan
1961-1980
9,7
26,2
2,7
Indonexia
1981-1995
6,9
25,7
3,7
Thái Lan
1981-1995
8,1
33,3
4,1
Trung Quốc
200-2008
9,7
38,8
4,0
Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê của IMF và World Bank

Chỉ số ICOR đo lường hiệu quả đầu tư, tính trên lượng vốn cần tăng
thêm để đạt mức gia tăng một đơn vị sản lượng, chính là thông số biểu hiện
cụ thể nhất của thể trạng sức khỏe nền kinh tế. Chỉ so ICOR cao đồng nghĩa
với hiệu suất kinh tế thấp, nói lên tính cách “tinh và gọn” của hệ thống.
Số liệu tính toán cho thấy, năng lực sản xuất của vốn đầu tư của Việt
Nam giảm thấp đến mức báo động với chỉ số ICOR tăng mạnh trong giai
đoạn 1991-2009 và thể hiện tính chu kỳ rõ rệt cùng với tăng trưởng GDP. Nếu
như năm 1991, hệ số ICOR tính được là 2,9 (nghĩa là đầu tư gần 3 đồng thì
GDP tăng lên 1 đồng), thì năm 2008, hệ số này là 6,66. Năm 2009 lên tới 8.
Đây là tín hiệu cảnh báo cho hiệu quả đầu tư sụt giảm nghiêm trọng. Trong
vòng 17 năm (1991-2008), hệ số ICOR tăng 2,3 lần. Ngay cả mức phổ biến từ
4-5,3 trong giai đoạn 2000-2007 cũng cao hơn nhiều so với khuyến cáo của
các định chế tài chính có uy tín như Ngân hàng Thế giới: Đối với một nước
đang phát triển, ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển
theo hướng bền vững. So sánh với các nước trong khu vực, ICOR của Việt
Nam gần gấp đôi, có nghĩa là hiệu suất đầu tư của nước ta chỉ bằng một nửa.
Điều đáng nói ở khu vực đầu tư công, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước,
thành phần chủ đạo của nền kinh tế, thì hệ số ICOR lại cao vọt. Nếu hệ số
9


ICOR chung của nền kinh tế năm 2009 là 8, thì ICOR của khu vực kinh tế
Nhà nước lên tới 12.
Bảng 2
Tốc độ tăng trưởng GDP và hệ số ICOR của Việt Nam, 1991-2009

Nguồn: Tính toán của PGS TS Trần Thọ Đạt (1991-2008)
và VnEconomy 2009)
Năng suất lao động gia tăng chậm chạp trong khi hiệu quả đầu tư giảm
sút trong giai đoạn 1991-2005 đã cho chúng ta một cái nhìn khá rõ về chất

lượng tăng trưởng dưới góc độ hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó, kết quả phân
tích mức độ đóng góp của các yếu tố vốn, lao động và năng suất tổng hợp đối
với tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam cho thấy, mặc dù chất lượng tăng
trưởng phần nào được cải thiện thể hiện qua sự tăng lên của năng suất các yếu
tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng GDP hàng năm (từ 14,28% thời kỳ 19921997 lên 22,6% thời kỳ 1998-2002 và 28,2% giai đoạn 2003 đến nay), tuy
nhiên, tăng trưởng do yếu tố vốn chiếm tới 52,73% và yếu tố lao động chiếm
19,07%; tức cả hai yếu tố này còn chiếm gần 3/4 tổng cả ba yếu tố tác động
đến tăng trưởng (Nguyễn Ngọc Sơn, 2008). So sánh với các nước trong khu
vực thì tỷ lệ đóng góp của TFP vào tăng trưởng hàng năm của Việt Nam còn
thấp hơn nhiều, tỷ lệ này của Thái Lan là 35%, của Philippin là 41%, của
Indonesia là 43%. Rõ ràng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nghiêng nhiều
về số lượng hơn là chất lượng, nghiêng về chiều rộng hơn là chiều sâu. Ngay
cả trong tăng trưởng chiều rộng thì sự tăng trưởng của nước ta cũng nghiêng
nhiều về yếu tố vốn hơn là yếu tố lao động (tỷ trọng đóng góp của vốn cao
gấp 3 lần tỷ trọng đóng góp của yếu tố lao động). Trong khi đó, vốn là yếu tố
mà nước ta còn thiếu, còn lao động là yếu tố mà nước ta rất dồi dào. Kéo dài
tình trạng này, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ không bền vững, chất
lượng tăng trưởng không được cải thiện, cuối cùng sẽ kìm hãm tốc độ tăng
trưởng kinh tế.

10


Tỷ lệ chi phí trung gian trong tổng giá trị sản xuất, nếu từ năm 1999 trở
về trước còn ở dưới mức 48%, thì năm 2000 trở lại đây đã vượt qua mốc
55%. Bình quân trong thời kỳ 1991-2008, trong nhóm ngành nông - lâm
nghiệp - thuỷ sản, nếu giá trị sản xuất tăng trên 6,1% thì giá trị gia tăng chỉ
đạt khoảng 4,2%, tức là thấp chỉ bằng 2/3; trong ngành công nghiệp, nếu giá
trị sản xuất tăng 24,5% thì giá trị tăng thêm chỉ tăng 14,9%. Điều đó chứng tỏ
tỷ lệ chi phí trung gian đã tăng lên.

Trong khi sự thay đổi cơ cấu kinh tế phản ánh chất lượng tăng trưởng
kinh tế dài hạn, thì các thước đo hiệu quả kinh tế thể hiện phần nào chất
lượng tăng trưởng của nền kinh tế trong ngắn hạn và trung hạn. Hiệu quả kinh
tế được thể hiện thông qua hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của tăng
trưởng như vốn (hiệu quả đầu tư), lao động (năng suất lao động), trình độ
khoa học-công nghệ (đóng góp của TFP vào tăng trưởng) và tỷ lệ chi phí
trung gian trong sản xuất.
Năng suất lao động xã hội (được tính bằng GDP theo giá thực tế chia
cho tổng số lao động đang làm việc) của Việt Nam còn rất thấp: năm 2007 đạt
khoảng 25,9 triệu đồng/người/năm, hoặc 1.608 USD/người/năm. Đó là những
con số rất thấp so với các nước khác, chẳng hạn thấp hơn so với các nước
ASEAN nhiều lần (nếu Việt Nam = 1 thì Indonesia = 2,5; Thái Lan = 4,1;
Malaysia = 10,7). Nếu tính bằng giá so sánh thì tốc độ tăng năng suất lao
động trong thời kỳ 1991-2008 chỉ đạt 5,2%/năm và mức tăng tuyệt đối mỗi
năm là 0,37 triệu VND trên một lao động làm việc. Khi năng suất lao động
thấp và tăng chậm, thì chẳng những tác động không tốt tới tăng trưởng GDP
mà còn chứng tỏ giá trị thặng dư tạo ra thấp, ảnh hưởng đến tích lũy tái đầu tư
để tái sản xuất mở rộng cũng như nâng cao mức sống.
2- Tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế
Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, thể hiện ở các vấn đề xã
hội và môi trường ngày càng bức xúc.
Dưới góc độ xã hội – môi trường, cùng với quá trình tăng trưởng kinh
tế, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét và có chiều hướng gia tăng; chất
lượng nguồn nhân lực cũng chưa theo kịp yêu cầu tăng trưởng và phát triển
của nền kinh tế; tỷ lệ thời gian lao động không được sử dụng ở nông thôn vẫn
còn cao; tốc độ xoá đói giảm nghèo bắt đầu chững lại trong những năm gần
đây; tốc độ suy thoái và ô nhiễm môi trường diễn ra nhanh chóng... Đây là
những biểu hiện đáng báo động về chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam.
Lao động và việc làm lợi thế về nguồn lao động dồi dào của Việt Nam

không được sử dụng hết, thậm chí vẫn đang bị lãng phí nghiêm trọng, bởi cho
đến nay, vẫn có tới 4,7% lao động ở thành thị thất nghiệp và gần 20% lao
động ở nông thôn chưa được sử dụng. Theo ước tính, số thất thoát thời gian
lao động trên tương đương với trên 10 triệu lao động thất nghiệp hoàn toàn.
Đặc biệt, thực tế cho thấy, so sánh giữa tỉnh, thành phố, nơi nào có trình độ
phát triển kinh tế càng cao thì tỷ lệ thất nghiệp càng cao, tiêu biểu là Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh.
11


Có thể nói, nguồn lao động lớn chưa sử dụng hoặc sử dụng chưa hiệu
quả đang trở thành vấn đề xã hội. Thất nghiệp, thiếu việc làm, không chỉ
khiến người lao động không có thu nhập để trang trải cuộc sống, không đủ để
tái sản xuất sức lao động, khó thoát được nghèo đói, mà còn dẫn đến nhiều
vấn đề xã hội như gây phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã
hội và tội phạm tăng… Sức ép về dân số tiếp tục gia tăng cũng sẽ làm cho
tình trạng thiếu việc làm căng thẳng hơn trong thời gian tới.
Nguyên nhân trực tiếp, dễ thấy nhất của tình trạng trên chính là sự
chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ còn chậm. Tỷ trọng đóng góp vào tốc độ tăng trưởng do yếu
tố vốn đóng góp còn chiếm tới gần 60%, còn do yếu tố lao động chỉ chiếm
khoảng 20% (và do yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp chỉ chiếm trên
20%).
Xóa đói giảm nghèo: mặc dù Việt Nam đã hoàn thành sớm kế hoạch
toàn cầu “giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015” mà Liên hợp quốc đề ra,
nhưng thành tựu xoá đói giảm nghèo vẫn chưa vững chắc. Số hộ có mức thu
nhập bình quân đầu người nằm ngay cận trên của chuẩn nghèo còn khá nhiều
và nguy cơ bị tổn thương của các hộ này trước những đột biến bất lợi còn lớn
và khả năng tái nghèo còn cao. Điều này thể hiện ở việc nếu so với mức
“chuẩn” cũ của Việt Nam, năm 2008 người nghèo chiếm khoảng 13,5%; còn

nếu theo chuẩn mới, tỷ lệ người nghèo sẽ tăng lên 20%. Nhưng, nếu tính theo
cách của thế giới thì tỷ lệ này còn cao gấp 2-3 lần.
Bảng 3
Tỷ lệ nghèo của VN giai đoạn (1993-2006)

Nguồn: Tổng Cục Thống Kê
Điều dễ nhận thấy là người nghèo đang gặp nhiều hạn chế trong việc
tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản. Khả năng tiếp cận các dịch
vụ, lợi ích của tăng trưởng và thành quả do sự phát triển mang lại cho mọi
công dân một cách khách quan và công bằng chưa cao. Chẳng hạn, trong lĩnh
vực y tế và giáo dục, báo cáo của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc về
an sinh xã hội cho biết nhóm 20% giàu nhất hưởng 45% các trợ cấp y tế,
12


nhóm 20% nghèo nhất chỉ nhận được 7%; nhóm 20% giàu nhất hưởng 35%
các trợ cấp giáo dục, trong khi nhóm 20% nghèo nhất chỉ nhận có 15% (Trần
Hải Hạc, 2008). Bởi vậy, chỉ số đói nghèo HPI (tỷ lệ người sống dưới ngưỡng
các phương diện phát triển con người) của Việt Nam rất cao, xếp thứ 36/177
quốc gia trong năm 2008. Những người thiếu thốn nhất tại Việt Nam phải
chịu cảnh đói nghèo ở nhiều phương diện nhất.
Chất lượng nguồn nhân lực và các vấn đề giáo dục và y tế: Sự phát
triển toàn diện con người Việt Nam đã được khẳng định thông qua sự gia tăng
vững chắc của chỉ số HDI trong 15 năm qua, và trong báo cáo về phát triển
con người của Liên hợp quốc năm 2005, Việt Nam đã được chú ý như một ví
dụ thành công tiêu biểu cho nhóm nước đang phát triển cân bằng phát triển
kinh tế và phát triển con người. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy chất lượng
giáo dục - đào tạo nói chung ở Việt Nam còn thấp, cơ cấu còn bất hợp lý,
chưa đáp ứng tốt nhu cầu đào tạo nhân lực, nhân tài. Điều này không chỉ ảnh
hưởng đến việc tăng cơ hội việc làm và thu nhập, mà còn là yếu tố hạn chế

sức cạnh tranh của nền kinh tế và việc nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Theo kết quả điều tra lao động và việc làm của Tổng cục Thống kê,
năm 2007 số người được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng (có trình độ sơ cấp
hoặc có chứng chỉ hành nghề trở lên) chỉ chiếm 24%, rất thấp so với các nước
trong khu vực. Hơn thế nữa, cơ cấu đào tạo của lực lượng lao động còn nhiều
bất hợp lý, số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ
thuật còn quá thiếu so với yêu cầu. Đội ngũ lao động trí thức của Việt Nam
cũng yếu kém cả về số lượng và chất lượng so với khu vực và thế giới, chưa
đáp ứng được yêu cầu triển khai công nghệ mới theo những mục tiêu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống giáo dục đào tạo, nhưng chất lượng giáo dục - đào tạo của cả hệ thống giáo dục quốc
dân nói chung, vẫn là một vấn đề nhức nhối của cả đất nước trong nhiều năm
trở lại đây. Chi cho giáo dục bình quân đầu người ở Việt Nam hiện nay cũng
vào loại thấp nhất trong khu vực, và lại tập trung quá nhiều vào giáo dục tiểu
học, trong khi cần ưu tiên cho giáo dục đại học để nâng cao nguồn lực con
người, hỗ trợ cho nền kinh tế và đảm bảo tốc độ tăng trưởng trong nước. Việc
cải cách hệ thống giáo dục được xem như một khâu nền tảng của một chiến
lược phát triển nguồn nhân lực, chưa được triển khai một cách hiệu quả.
Bên cạnh đó, trong lĩnh vực y tế, hiện vẫn còn một số khó khăn và
đứng trước nhiều thách thức. Tình trạng quá tải của các cơ sở khám chữa
bệnh, đặc biệt là ở các trung tâm, các thành phố lớn, ở các tuyến trên còn ở
mức rất cao và kéo dài. Việc chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo còn hạn
chế, chi phí cho y tế còn cao, quản lý nhà nước đối với một số lĩnh vực y tế
còn buông lỏng, dẫn đến thị trường thuốc chữa bệnh chưa được kiểm soát
chặt chẽ, an toàn thực phẩm còn thấp…
Công bằng xã hội và sự phân hóa giàu nghèo: Báo cáo Phát triển con
người năm 2005 của UNDP đã ca ngợi Việt Nam đạt được tăng trưởng và vẫn
đảm bảo sự công bằng. Theo nhiều nhận xét chuyên gia, hệ số Gini của Việt
Nam tương đối ổn định trong giai đoạn 2002-2006 và vào loại trung bình của
13



thế giới. Tuy nhiên, xu hướng bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo
vẫn đang ngày càng rõ rệt tại Việt Nam, thể hiện qua hệ số Gini tăng dần theo
thời gian: từ 0,35 năm 1993 lên 0,43 năm 2006. Thực tế cho thấy tác động
của tăng trưởng kinh tế tới giảm nghèo đang có xu hướng giảm và bất bình
đẳng lại tăng lên tương ứng. Năm 1990, sự cách biệt của 20% số hộ giàu nhất
và 20% số hộ nghèo nhất chỉ là 4,1 lần; nhưng con số đã tăng lên 8,37 vào
năm 2006. Khoảng cách nông thôn – thành thị, sự chênh lệch về trình độ phát
triển giữa các vùng trong cả nước ngày càng lớn.
Thực trạng trên trước hết cho thấy sự tồn tại của hai vấn đề: một là
chênh lệch chính của một bộ phận người giàu và tình trạng nghèo khó của
một bộ phận người nghèo; hai là sự điều tiết của Nhà nước bằng nhiều biện
pháp như thuế thu nhập, chính sách phân phối, chính sách xã hội cần làm tốt
hơn.
Theo một kết quả nghiên cứu, người nghèo không được hưởng đầy đủ
các kết quả của quá trình tăng trưởng. Kết quả là, trong khi tăng trưởng kinh
tế góp phần to lớn vào xóa đói giảm nghèo, thì chính nó lại gia tăng thêm
khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, do thành quả tăng trưởng không được
chia sẻ một cách đồng đều mà theo hướng có lợi cho nhóm người vốn đã có
cuộc sống dư dật, khá giả hơn. ở đây có sự đánh đổi giữa mục tiêu tăng
trưởng và công bằng xã hội. Sở dĩ có tình trạng trên là do tốc độ tăng trưởng
kinh tế ngày càng tập trung vào các ngành đòi hỏi vốn cao, ít lao động và lao
động có trình độ cao, điều này chắc chắn tác động trực tiếp đến người nghèo,
những người mà bản thân ít vốn liếng, tri thức và trình độ cao để tham gia vào
các ngành sản xuất đó. Các chính sách bảo hộ, thay thế nhập khẩu sẽ làm tăng
chi phí sản xuất và giá cả sản xuất đối với hàng triệu người nghèo. Cơ hội
việc làm, thu nhập, tiếp cận thông tin, tri thức của người nghèo vì thế ngày
càng thấp – điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội trong những năm tiếp theo

Qua gần 25 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tích đầy
ấn tượng trong tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Điều này không
chỉ góp phần giúp đất nước khắc phục tình trạng kém phát triển, mà còn làm
tiền đề để thực hiện nhiều mục tiêu kinh tế - xã hội khác như giảm thất
nghiệp, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách, phát triển giáo dục, y
tế, văn hoá, xóa đói giảm nghèo...Về cơ bản, những thành tựu tăng trưởng đã
đến được với đại bộ phận người dân, thể hiện ở mức tăng rõ rệt về thu nhập
và tiêu dùng của tất cả các nhóm dân cư trong thời gian qua. Tuy nhiên, nền
kinh tế cũng đang bọc lộ ngày càng rõ những lo ngại về chất lượng và sự bền
vững của quá trình tăng trưởng, xét cả về trung hạn và dài hạn.
II- Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1- Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu đầu tư đã góp phần tác động tích cực đến chuyển
dịch cơ cấu kinh tế tương ứng theo hướng CNH- HĐH nhưng chưa có sự
chuyển dịch mạnh mẽ: sự thay đổi của cơ cấu ĐT dẫn tới sự thay đổi tỷ trọng
đóng góp của các ngành vào GDP theo đúng xu hướng: tỷ trọng đóng góp của
14


NN vào GDP tuy còn ở mức cao so sánh với các nước CN phát triển nhưng tỷ
trọng đã giảm theo hướng tích cực từ 24,53 năm 2000 giảm xuống còn 21,8
% năm 2009, tỷ trọng công nghiệp tăng dần năm 2000 là 36,73 % tăng lên
đến 39,97 % năm 2009, tỷ trọng ngành dịch vụ thay đổi chậm, đạt 38,23%
năm 2009.
Trong bản thân nhóm ngành cũng có sự chuyển dịch. Trong nội bộ cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng đã có sự chuyển dịch ngày càng tích
cực hơn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng giá trị sản xuất
công nghiệp khu vực nông thôn đã tăng từ 17,3% năm 2001 lên 19,3% năm
2007. Trên cơ sở đó, đã tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu lao động xã
hội nông thôn mà biểu hiện rõ nhất là thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu hộ

nông thôn theo hướng ngày càng tăng thêm các hộ làm công nghiệp, thương
mại và dịch vụ; trong khi số hộ làm nông nghiệp thuần tuý giảm dần. Tỷ lệ hộ
nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp) đã giảm 9,87%; tỷ lệ hộ
công nghiệp tăng lên 8,78%. Năm 2007, số hộ công nghiệp và dịch vụ trên
địa bàn nông thôn có 3,6 triệu hộ, tăng 62% so với năm 2000.
Sử dụng số liệu kinh tế Việt Nam và Hàn Quốc có thể tính được hệ số
cosφ tương ứng của nền kinh tế Việt Nam và Hàn Quốc trong giai đoạn 19852003 và 1970-1988. Hệ số cosφ nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1985-2003 là
0,924 và góc φ là 22o29'. Tương tự, hệ số cos của Hàn Quốc trong giai đoạn
1970-1988 là 0,9397403 và góc φ là 20o. Với kết quả này có thể thấy mức độ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam giai đoạn 1985-2003 cao hơn Hàn Quốc
giai đoạn 1970-1988. Điều đó có thể do chính sách Việt Nam giai đoạn 19852003 có tác động lớn hơn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế so với Hàn Quốc
giai đoạn 1970-1988.
Bảng 4
Cơ cấu kinh tế Việt Nam phân theo nhóm ngành, 1991-2008

Nguồn: Tính toán của PGS TS Trần Thọ Đạt (1991-2008)
và VnEconomy 2009)
Trong nhiều năm qua, xét theo tỷ trọng giá trị tăng thêm trong GDP, cơ
cấu kinh tế chủ yếu biến đổi theo sự chuyển dịch của hai nhóm ngành nônglâm - thủy sản và công nghiệp- xây dựng. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP trồi sụt
15


theo từng năm và chưa thể hiện một xu thế chuyển dịch rõ ràng hướng tới một
cơ cấu hiện đại, trong khi đây là khu vực có rất nhiều cơ hội và tiềm năng
phát triển. Mục tiêu đặt ra cho chuyển dịch cơ cấu ngành trong GDP năm
2010 (khu vực nông nghiệp 15-16%; công nghiệp và xây dựng 43- 44%; dịch
vụ 40- 41%) rất khó đạt được.
Sự chuyển dịch cơ cấu ngành có liên quan chặt chẽ đến cơ cấu lao động
và cơ cấu đầu tư. Cơ cấu lao động chưa có sự chuyển dịch rõ rệt theo hướng
tiến bộ, lao động chưa có việc làm còn lớn, đang bị “tắc nghẽn” trong lĩnh

vực nông nghiệp và nông thôn. Trong khi đó, cơ cấu đầu tư thể hiện sự mất
cân đối lớn giữa nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản và tình trạng đầu tư tràn
lan ở các địa phương.
Nhìn từ góc độ dài hạn, quá trình chuyển dịch cơ cấu chưa diễn ra theo
một quy hoạch chiến lược tổng thể có tầm nhìn dài hạn, với một lộ trình hợp
lý và được bảo đảm thực hiện nghiêm ngặt. Những năm qua là giai đoạn hình
thành cơ cấu được định hướng bởi các quy hoạch mang tính cục bộ ngành và
địa phương, nhằm phục vụ cho các lợi ích cục bộ và ngắn hạn. Chính vì thế,
quy hoạch tổng thể thường bị điều chỉnh, phá vỡ, hiệu quả đầu tư thấp, cơ cấu
chuyển dịch không đúng yêu cầu thúc đẩy tăng trưởng cao, bền vững, nâng
cao sức cạnh tranh. Tất cả những điều nói trên phản ánh tầm nhìn cơ cấu hạn
chế, nặng về hiện vật và tư duy “chính sách ngành”, chưa theo kịp các xu
hướng công nghệ và nguyên lý phát triển hiện đại.
2- Đầu tư tác động đến dịch chuyển cơ cấu vùng kinh tế
Trong những năm vừa qua dịch chuyển cơ cấu kinh tế vùng đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế.
Trên bình diện quốc gia, đã hình thành 7 vùng kinh tế: vùng trung du miền
núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải
miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam bộ và vùng đồng bằng sông
Cửu Long. Trong đó, hình thành các khu công nghiệp tập trung, các vùng
kinh tế trọng điểm là vùng động lực cho tăng trưởng kinh tế cả nước: Vùng
kinh tế trọng điểm phía Bắc,Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Vùng kinh
tế trọng điểm miền Nam. Giai đoạn 2003- 2006 Tỷ trọng đóng góp vào GDP
tương ứng là 21, 5, 36%.
Các địa phương cũng đẩy mạnh việc phát triển sản xuất trên cơ sở xây
dựng các khu công nghiệp tập trung, hình thành các vùng chuyên canh cho
sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản, hình thành
các vùng sản xuất hàng hoá trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của
từng vùng. Điều này tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp chế biến, góp
phần tạo nên xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng

sản xuất hàng hoá, hướng về xuất khẩu.
Hạn chế: Sự phát triển chênh lệch không cân bằng và làm tăng khoảng
cách giữa các vùng. Mối liên hệ giữa các địa phương,vùng còn chưa cao, mỗi
địa phương đều có chính sách riêng nhưng nhìn tổng thể mâu thuẫn,cạnh
tranh nhau.
16


Bảng 5
Cơ cấu đầu tư theo vùng 1996-2000
Khu vực
1- Các tỉnh miền núi phía Bắc
2- Vùng đồng bằng sông Hồng
3- Vùng Bắc Trung bộ
4- Vùng duyên hải miền Trung
5- Vùng Tây Nguyên
6Vùng Đông Nam bộ
7- Vùng đồng bằng sông Cửu long

Tỷ trọng/tổng
vốn đầu tư (%)
7,6
25,5
7,7
11,6
4,9
28
14

Nguồn: Tổng cục Thống Kê

3- Đầu tư tác động đến cơ cấu thành phần kinh tế
Giai đoạn 2001- 2005: cơ cấu đầu tư bắt đầu có những chuyển biến tích
cực. Tỷ trọng của đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước bắt đầu giảm, từ
59.14% (1995) xuống 47.11% (2005). Tỷ trọng của khu vực ngoài nhà nước
tăng 15.41% trong 5 năm. Mặc dù vậy, chuyển dịch cơ cấu GDP theo thành
phần kinh tế diễn ra chậm. Sự chuyển đổi chủ yếu diễn ra giữa khu vực ngoài
nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực nhà nước vẫn chiếm
tỷ trọng cao và tương đối ổn định trong GDP. Năm 2005 tỉ trọng GDP của
khu vực nhà nước rất ít thay đổi, chỉ giảm 0.1% so với năm 2000. Trong khi
đó khu vực ngoài nhà nước giảm từ 49.03% năm 2000 xuống còn 45.61%
năm 2005(giảm 3.42%). Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục vị thế,vai
trò trong nền kinh tế khi tỉ trọng liên tục tăng qua từng năm. Kết quả là sau 5
năm tỉ trọng của khu vực này đã tăng 2.71%. Một nét tích cực nữa là trong
bản thân khu vực kinh tế ngoài nhà nước cũng có sự thay đổi. Kinh tế tư nhân
bắt đầu có xu hướng tăng dần tỉ trọng trong khi 2 thành phần còn lại tiếp tục
giảm mạnh. Kinh tế cá thể vẫn là khu vực có mức giảm mạnh nhất(2.4%).
- Giai đoạn 2006-2010
Nhận diện cơ cấu đầu tư hiện tại của nền kinh tế Việt Nam sẽ cho phép
có đánh giá rõ ràng về các vấn đề liên quan tới tính hiệu quả và phân bổ vốn
đầu tư phục vụ phát triển. Trước hết, có thể xem xét cơ cấu vốn đầu tư phát
triển toàn xã hội theo nguồn huy động minh họa trong bảng (bảng 5):
Số liệu thống kê cho thấy tỷ trọng vốn đầu tư của nhà nước tuy có xu
hướng giảm dần nhưng vẫn còn ở mức rất cao. Xem xét trong trường hợp cụ
thể là vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước thì tỷ trọng chỉ giảm nhẹ từ
13,6% năm 2006 xuống còn 8,2% năm 2010.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư giai đoạn 2006 – 2010 của các
doanh nghiệp tư nhân và dân cư hầu như không có tiến triển nào đáng kể xét
về tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Đây được coi là một hạn chế

17



của cơ cấu đầu tư do nguồn vốn tư nhân thường có hiệu quả đầu tư cao hơn
nhưng tỷ trọng lại không được cải thiện.
Bảng 6
Cơ cấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 2006 – 2010
(Đơn vị: ngàn tỷ VND)
2006

2007

2008

2009

2010
(dự kiến)

Tổng vốn đầu tư
404,7
1.Vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước 100,2
- Tỷ trọng
24,8%
2. Vốn trái phiếu Chính phủ
7,6
- Tỷ trọng
1,9%
3. Vốn đầu tư theo kế hoạch nhà nước
34,9
- Tỷ trọng

8,6%
4. Vốn đầu tư của DN Nhà nước
55,1
- Tỷ trọng
13,6%
5. Vốn đầu tư của dân cư và DN tư
154
nhân
38,1%
- Tỷ trọng
6. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
52,5
- Tỷ trọng
13%
7. Các loại vốn khác
0,4
- Tỷ trọng
0,1%

532,1
107,3
20,2%
7,0
1,3%
35,1
6,6%
60
11,3%
204,7
38,5%


616,7
119,5
19,4%
20
3,2%
35
5,7%
56
9,1%
217
35,2%

714,8
180
25,2%
46
6,4%
35,7
5,0%
54,1
7,6%
235
32,9%

805,5
140
17,4%
56
7,0%

55
6,8%
66
8,2%
281,5
34,9%

110
20,7%
8,0
1,5%

160
25,9%
9,2
1,5%

154
21,5%
10
1,4%

182
22,6%
25
3,1%

Nguồn: Số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Trong các thành phần kinh tế, tỷ suất lợi nhuận của khu vực doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cao nhất và liên tục tăng (từ 9% năm 2000

lên 13% năm 2004). Đáng lo ngại là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước
(chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ), với tỷ suất lợi nhuận trên vốn giảm từ
2,3% năm 2001 xuống còn 1,6% năm 2004. Rõ ràng là các doanh nghiệp
càng nhỏ, trình độ công nghệ càng yếu, thì tỷ suất lợi nhuận đạt được càng
thấp. Khi so sánh tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, chúng ta cũng có một kết
luận tương tự. Tính chung tỷ suất lợi nhuận trên vốn và trên doanh thu của
các doanh nghiệp đầu tư trong nước đều thấp hơn tỷ lệ lãi suất vay ngân hàng.
Ngoài ra, có một số diễn biến đáng chú ý về các lĩnh vực, ngành nghề
tiếp nhận đầu tư tại Việt Nam trong thời gian 2006 – 2010 bao gồm:
- Khoảng 72% tổng đầu tư xã hội tập trung vào 20 ngành nghề chính
nhưng trong nhóm ngành này lại không có công nghiệp chế tạo, công nghệ
cao, nông nghiệp và chế biến nông lâm thủy sản.
- Xét riêng đầu tư của nhà nước thì 65% nguồn vốn được dành cho 10
ngành là vận tải đường bộ, cung cấp nước, vận tải đường thủy, sản xuất điện
và khí đốt, khai thác dầu khí, quản lý nhà nước, y tế và trợ cấp xã hội, dịch vụ
viễn thông, văn hóa - thể thao và thủy lợi.
18


- Đối với khu vực tư nhân, 10 ngành thu hút tới 65% vốn đầu tư là
thương mại, khách sạn, các loại dịch vụ khác, xây dựng dân dụng, vận tải
đường bộ, vận tải đường thủy, dịch vụ viễn thông, khai thác than, khai thác
hải sản, điện và khí đốt.
- Trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài: Nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI đã và đang đóng một vai trò quan trọng đối với tăng
trưởng kinh tế của các nước đang phát triển trên thế giới. Tại các quốc gia có
chính sách đầu tư nước ngoài hợp lý, FDI không chỉ làm tăng cung về vốn
đầu tư mà còn có vai trò thúc đẩy chuyển giao công nghệ đặc biệt là thúc đẩy
quá trình tích tụ vốn con người - một nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
trong dài hạn.

Một trong những mục tiêu của chính sách đổi mới của Việt Nam năm
1986 là thu hút vốn đầu tư FDI nhằm mục tiêu tăng cung về đầu tư và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó, đầu tư FDI phân bổ không
đồng đều trong cả nước, do vậy Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1996
khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các tỉnh vùng sâu vùng
xa, nơi điều kiện kinh tế còn tương đối hạn chế như Tây Bắc, Bắc trung bộ,
Nam Trung bộ và Tây Nguyên.
Bảng 6
Nguồn vốn FDI, ODA, kiều hối, FPI vào VN giai đoạn 1992-2007

Nguồn: Tổng cục Thống kê, IMF, WB
Mặc dù FDI và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ 2 chiều tích cực:
FDI tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng kinh tế cao của
Việt Nam là dấu hiệu tích cực để thu hút các nhà đầu tư vào Việt Nam. Tuy
19


nhiên tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế lại phụ thuộc vào khả năng
hấp thụ các điểm đến, nơi hội tụ cơ bản các yếu tố đầu tư con người, công
nghệ, đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, và một thị trường tài chính phát
triển. Bên cạnh đó mối quan hệ 2 chiều giữa FDI và tăng trưởng chỉ giới hạn
trong các vùng Đồng bằng bắc bộ, Đông bắc, Đông Nam bộ và đồng bằng
sông Mê Kông.
Nguồn vố FDI phân bổ không cân đối vào các ngành. Có tới 47% vốn
đầu tư được giải ngân cho khai thác dầu khí, điện và khí đốt, kinh doanh bất
động sản, cung cấp nước, sản phẩm da, thương mại, các loại máy móc đa
dụng khác, vận tải đường bộ, sản xuất xi măng, sản xuất thép. Lĩnh vực lâm
nghiệp và thuỷ sản chỉ chiếm 3% nguồn vốn FDI. Khoảng 3% nữa đi vào chế
biến nông, hải sản và thực phẩm khác, sản xuất phân bón và thức ăn gia súc
chiếm khoảng 2%, trong khi khu vực nông nghiệp là 0,5%.

Điều này có thể phá vỡ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của chính
phủ, phản ánh các chính sách và mục tiêu của Chính phủ nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế thông qua FDI tại các vùng sâu vùng xa như Bắc Trung bộ,
Tây Bắc và Tây Nguyên, được thể hiện trong Luật Đầu tư chưa thực sự mang
lại hiệu quả. Mục tiêu của doanh nghiệp có vốn FDI là lợi nhuận chứ không
nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam, do vậy đòi hỏi chính phủ phải
có các chính sách kinh tế kịp thời và phù hợp để ứng phó diễn biến của FDI
trong những năm tiếp theo.
Như vậy, cơ cấu đầu tư tính theo nguồn vốn và theo lĩnh vực tiếp nhận
đầu tư vẫn còn rất nhiều bất cập. Quá trình chuyển dịch vốn đầu tư nhà nước
vào dịch vụ tài chính, tiền tệ và các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo,
công nghệ cao tuy đã diễn ra nhưng vẫn chưa đạt được như mong muốn.
Ngoài ra, đầu tư của nhà nước vẫn còn tập trung đáng kể ở một số ngành nghề
mà khu vực tư nhân hoàn toàn có thể đảm nhiệm được như thương mại, khách
sạn, xây dựng dân dụng, du lịch, dệt may…vv. Đầu tư đã có tác động rất lớn
trong việc chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế tuy nhiên kinh tế nhà nước
vẫn còn chiếm tỷ trọng cao, mặc dù đầu tư cho khu vực này lớn nhưng đóng
góp vào GDP vẫn chưa tương xứng.

20


Chương III
CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CẤU ĐẦU TƯ CỦA
NỀN KINH TẾ VIỆT NAM SAU KHỦNG HOẢNG
Để phát triển đất nước theo mục tiêu về cơ bản trở thành nước công
nghiệp vào năm 2020, một số chỉ tiêu phát triển VN phải đạt được đó là
GDP/người phải > 3.000 USD, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP phải <15%,
lao động làm việc trong các ngành phi nông nghiệp phải lớn hơn 75%, đô thị
hóa có tỷ lệ dân số đô thị >50%…. Với những chỉ tiêu phát triển trên của một

nước công nghiệp, đòi hỏi VN phải có một chiến lược phát triển phù hợp.
Trong 11 năm tới chúng ta phải đạt được mức GDP/người gấp ba lần hiện
nay, tốc độ tăng bình quân mỗi năm phải 9,6%. Đây là mức phấn đấu vô cùng
khó khăn, do qui mô nền kinh tế và thu nhập đã cao nhiều so với thời kỳ trước
(mốc thu nhập đầu người của năm 1990 chỉ là hơn 100 USD, hiện nay trên
1,000 USD), đạt được tốc độ tăng bình quân cao là rất khó so với khi qui mô
nền kinh tế nhỏ. Mặc dù dân số đô thị của VN hiện chiếm khoảng 30%,
nhưng dân số làm nông nghiệp của VN còn cao khoảng 70%, và lao động
nông nghiệp trên 54%, trong khi đó GDP nông nghiệp chỉ khoảng 18%, điều
này cho thấy năng suất lao động nông nghiệp rất thấp.
Từ những nhận định trên, để đạt được mục tiêu chiến lược phát triển
đất nước, VN cần có các chiến lược tổng thể và chiến lược bộ phận đặc biệt là
trong chiến lược đầu tư.
Tính đến giữa năm 2010, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới được nhận
định là đã thực sự qua đi và nỗ lực của hầu hết các quốc gia lúc này đã
chuyển sang một định hướng hoàn toàn khác: rút ra các bài học trong ứng phó
khủng hoảng và thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế thời hậu khủng hoảng.
Với quan điểm cho rằng khủng hoảng kinh tế toàn cầu và các tác động
của cuộc khủng hoảng tới nền kinh tế Việt Nam đã tạo động lực cho việc tái
cơ cấu nền kinh tế, vấn đề cơ cấu đầu tư sẽ được coi là một hợp phần không
thể thiếu của chiến lược tái cơ cấu mang tính tổng thể giúp nâng cao hiệu quả
hoạt động và khắc phục các vấn đề còn tồn tại của nền kinh tế sau khi cuộc
khủng hoảng đã qua đi.
Cơ cấu đầu tư của một nền kinh tế chính là cơ cấu các yếu tố cấu thành
nguồn vốn đầu tư mà nền kinh tế đó sử dụng trong quá trình phát triển. Với
thực trạng của nền kinh tế Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng, vấn đề đổi mới
cơ cấu đầu tư đang được xem xét dưới góc độ phải điều chỉnh lại tương quan,
tỷ lệ giữa các yếu tố cấu thành nguồn vốn đầu tư, thay đổi các quan hệ tương
tác giữa các yếu tố đó để hướng tới tạo lập một cơ cấu mới, phù hợp hơn với
các điều kiện đã thay đổi của môi trường kinh tế sau khủng hoảng.

Tiếp cận vấn đề đổi mới cơ cấu đầu tư tại Việt Nam được dựa trên cơ
sở phân loại cơ cấu đầu tư đó thành các nhóm chính bao gồm:
- Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn: thể hiện quan hệ tỷ lệ của từng loại
nguồn vốn trong tổng đầu tư xã hội. Cơ cấu đầu tư của Việt Nam xét theo
nguồn vốn đang trở nên ngày càng đa dạng, gắn với định hướng chính sách
21


chung là xóa bỏ bao cấp trong đầu tư, đa dạng hóa cơ cấu và huy động mọi
nguồn lực cho đầu tư phát triển. Tại Việt Nam, cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn
về cơ bản gồm có: (1) Nguồn vốn của nhà nước bao gồm vốn ngân sách, vốn
tín dụng đầu tư phát triển, vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước; (2) Vốn tư
nhân bao gồm tiết kiệm của dân cư và vốn của các doanh nghiệp tư nhân; (3)
Vốn nước ngoài gồm vốn viện trợ phát triển, FDI, vốn huy động qua thị
trường vốn quốc tế.
- Cơ cấu đầu tư theo ngành: thể hiện việc phân bổ vốn đầu tư và tỷ lệ
phân bổ cho các ngành (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ) và các tiểu ngành
của nền kinh tế. Cơ cấu đầu tư theo ngành cho phép nhận biết rõ ràng về
những ưu tiên đầu tư xét theo ngành, nghề trong mỗi thời kỳ phát triển.
- Cơ cấu đầu tư theo địa phương: thể hiện việc phân bổ vốn đầu tư
theo các địa phương, các vùng, miền khác nhau của đất nước. Cơ cấu đầu tư
theo địa phương cho nhận diện rõ ràng về tình hình sử dụng nguồn lực tại địa
phương và việc phát huy lợi thế cạnh tranh của từng vùng.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu thời gian qua đã có tác động tới hầu
hết các lĩnh vực kinh tế, xã hội của Việt Nam và làm bộc lộ nhiều vướng mắc
liên quan tới tính hợp lý và hiệu quả của cơ cấu đầu tư. Vấn đề đổi mới cơ
cấu đầu tư do vậy đã được đặt ra rất sớm và nhanh chóng trở thành vấn đề
thời sự đáng quan tâm trong thời kỳ hậu khủng hoảng.
Thực trạng cơ cấu đầu tư của Việt Nam cho thấy khi cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu diễn ra đã có sự lúng túng trong ứng phó vì chính sách

đầu tư không điều chỉnh kịp với các diễn biến mới.
Nền kinh tế Việt Nam trong nhiều năm đã đạt được tốc độ tăng trưởng
tương đối cao và kết quả tăng trưởng này có được chủ yếu là nhờ vào kênh
đầu tư. Trong giai đoạn 1993 – 2000, đóng góp của đầu tư cho tăng trưởng
kinh tế được xác định là ở mức rất cao – lên tới 69% và đến giai đoạn 2000 –
2010, tỷ lệ này tuy có giảm bớt nhưng vẫn giữ ở mức trên 50% . Khi cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới nổ ra trong các năm 2008, 2009, chính sách tăng
trưởng dựa vào đầu tư của Việt Nam đã bộc lộ nhiều bất cập với hàng loạt các
vấn đề phát sinh bao gồm: (1) tăng đầu tư chỉ giúp cho nền kinh tế tăng về
quy mô và tăng theo chiều rộng chứ không tăng được chất lượng tăng trưởng;
(2) thúc đẩy tăng trưởng dựa trên tăng mạnh đầu tư có thể dẫn tới hậu quả là
lạm phát cao và thâm hụt ngân sách nghiêm trọng; (3) nguy cơ gây bất ổn
kinh tế vĩ mô.
Từ nhìn nhận như vậy, quá trình đổi mới cơ cấu đầu tư được thực hiện
để điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn đầu tư, cơ cấu phân bổ theo lĩnh vực, theo địa
phương cho phù hợp với bối cảnh phát triển thời kỳ hậu khủng hoảng. Các
định hướng đổi mới chủ yếu bao gồm:
- Về ngắn hạn, đổi mới cơ cấu đầu tư để thích ứng với cú sốc khủng
hoảng và đảm bảo ứng phó mang tính tình huống đối với các vấn đề phát triển
tức thời.
- Về trung hạn, đổi mới cơ cấu đầu tư sẽ tập trung vào các vấn đề như
vai trò của nguồn vốn ngân sách, mức độ tập trung vào các ngành, lĩnh vực để
hướng tơi cân bằng cao hơn về cơ cấu
22


- Về dài hạn, chuyển dịch cơ cấu đầu tư để tạo ra thay đổi sâu rộng về
các yếu tố cấu thành như nguồn vốn, khối lượng vốn, vấn đề huy động và sử
dụng vốn đầu tư…vv.
Có thể rút ra một số bài học bước đầu về các cách thức thực hiện đổi

mới cơ cấu đầu tư bao gồm:
- Kinh tế Việt Nam cần từ bỏ cách thức phát triển dựa vào khai thác tài
nguyên và nhân công giá rẻ như hiện nay để chuyển sang một giai đoạn phát
triển cao hơn dựa vào nâng cao năng suất, chất lượng. Đây là căn cứ quan
trọng để chuyển dịch cơ cấu đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên trong thời gian
tới.
- Cần nâng cao năng lực quản lý đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư
của nhà nước. Việc này được thực hiện bằng cách ban hành tiêu chí thẩm
định, lựa chọn dự án đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước, hoàn thiện cơ chế
phân bổ vốn đầu tư nhà nước, đồng thời, rà soát lại tất cả dự án đang thực
hiện hay nằm trong quy hoạch và loại bỏ các dự án không đáp ứng yêu cầu.
- Phải mạnh dạn đổi mới cách thức khuyến khích đầu tư xã hội, cân
bằng hơn giữa đầu tư cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa, cải thiện hiệu quả
của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong nội dung này, cần xây dựng các tiêu
chí đánh giá chất lượng nhà đầu tư và dự án đầu tư nước ngoài, đặt ưu tiên
cao hơn cho các dự án đầu tư nước ngoài có hàm lượng khoa học, công nghệ
cao và sử dụng ít tài nguyên và lao động rẻ tiền.
- Đổi mới cơ cấu đầu tư có thể thực hiện được bằng cách đổi mới các
doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế, chuyển đổi tất cả
doanh nghiệp nhà nước sang công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ
phần, thay đổi cơ cấu sở hữu của nhà nước trong doanh nghiệp (theo hướng
giảm tỷ lệ sở hữu của nhà nước), bãi bỏ các hình thức bao cấp, đặc quyền,
độc quyền còn lại. Điều này khiến cho hiệu quả đầu tư vốn của nhà nước nói
riêng và vốn toàn xã hội nói chung được nâng cao và tạo ra chuyển dịch tích
cực trong cơ cấu đầu tư.

23


KẾT LUẬN

Nền kinh tế Việt Nam lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Vì vậy tăng trưởng kinh tế mà Đảng và Nhà nước đã xác định
là tăng trưởng có chất lượng, tăng trưởng bền vững, tăng trưởng vì con người,
vì một xã hội ngày càng công bằng hơn, dân chủ hơn, tăng trưởng gắn với bảo
vệ môi trường. Tuy nhiên, kinh nghiệm của chính nền kinh tế đổi mới của
nước ta trong những năm gần đây cho thấy rằng tốc độ tăng trưởng cao không
nhất thiết đi liền với xu hướng tạo ra một nền kinh tế mạnh. Bằng việc xác
định rõ định hướng phát triển trong dài hạn, Việt Nam cần có sự lựa chọn thứ
tự ưu tiên các mục tiêu phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, tài
nguyên, môi trường trong từng giai đoạn nhất định, từ đó thực sự có những
bước phát triển bền vững.
Nhằm nâng cao tính thực tiễn của vấn đề đầu tư đối với tăng trưởng và
dịch chuyển cơ cấu kinh tế, phát huy tốt mọi nguồn lực trong và ngoài nước,
đáp ứng yêu cầu tiếp tục đổi mới kinh tế. Đề tài tập trung chủ yếu nghiên cứu
thực trạng tác động của đầu tư đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam thông qua
phân tích chỉ số ICOR, các chỉ số chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam;
các tác động của đầu tư đến dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
Trên cơ sở những nhận xét, đánh giá về thực trạng đầu tư của Việt Nam
thời gian qua (1991- 2009), đề tài đã đề xuất các giải pháp nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả vốn đầu tư của Việt Nam trong thời kỳ hậu khủng hoảng và
những năm tiếp theo.
Do tính chất phức tạp của vấn đề nghiên cứu, bản thân chưa có nhiều
kinh nghiệm nên chắc chắn đề tài không tránh khỏi hạn chế. Vì vậy, Em rất
mong nhận được sự tham gia góp ý của các thầy cô giáo để bài viết được tốt
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

24



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình Kinh tế Đầu tư – Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội.
- GS TS Nguyễn Thị Cành - Kinh tế Việt Nam qua các chỉ số phát triển
và những tác động của quá trình hội nhập – Postet on 24/5/2009 by
Civillawinfor.
- PGS TS Trần Thọ Đạt – Một số đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh
tế Việt Nam trong thời gian qua – Tạp chí Kinh tế phát triển.
TS Bùi Nhật Quang – Đổi mới cơ cấu đầu tư của nền kinh tế Việt Nam
sau khủng hoảng- IAMES ngày 16/7/2010.
- GS TS Hossein Varamini - Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
và tác động của nó vào tăng trưởng kinh tế - Học viện Quốc tế Kinh doanh và
Kinh tế
- Một số báo điện tử, trang web: Cục đầu tư, Tổng cục Thống kê,

http://www. na.gov.vn
http://www. VnEconomy.vn

25


×