Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

đường lối đổi mới được đưa ra tại đại hội VI thông qua quá trình đổi mới, hãy rút ra nhận xét

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.66 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

----

BÀI THẢO LUẬN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề bài:
Tìm hiểu đường lối đổi mới được đưa ra tại Đại hội VI (1986). Thông qua
q trình đổi mới (tính đến hiện nay) anh/chị rút ra nhận xét gì ?

Hà Nội, 2020


2


Mục lục
PHẦN 1 : CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI....................................6
1.1. Bối cảnh lịch sử nước ta trước Đại hội VI (1986)...............................................6
a. Bối cảnh thế giới.................................................................................................6
b. Bối cảnh trong nước...........................................................................................6
1.2. Cơ sở khoa học của Đường lối đổi mới..............................................................7
a. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ........................................7
b. Hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam.....................................................8
c. Hệ thống chủ nghĩa xã hội đã và đang diễn ra....................................................9
PHẦN 2 : NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI ĐƯỢC ĐỀ RA TẠI ĐẠI HỘI VI
(1986).......................................................................................................................... 12
PHẦN 3 : ỨNG DỤNG THÀNH TỰU SAU 30 NĂM ĐỔI MỚI..............................18
3.2. Kinh tế..............................................................................................................20
a. Tư duy kinh tế của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa


qua các kỳ Đại hội................................................................................................20
b. Những kết quả đạt được sau hơn 30 năm đổi mới tư duy kinh tế ở nước ta......21
3.3. Quốc phòng – Đối ngoại...................................................................................22
KẾT LUẬN................................................................................................................. 23

3


PHẦN 1 : CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐƯỜNG LỐI
ĐỔI MỚI
1.1. Bối cảnh lịch sử chung trước Đại hội VI (1986)
a. Bối cảnh thế giới
Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (đặc
biệt là công nghệ thông tin) tiếp tục phát triển mạnh mẽ, cùng với đó là xu thế
mở rộng sự phân cơng hợp tác giữa các nước, tạo nên những ảnh hưởng sâu sắc
đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc.
b. Bối cảnh trong nước
Tổng kết lại những kết quả đã thực hiện được trong đại hội V đề ra, đảng
nhận định: Năm năm qua là một đoạn đường đầy thử thách đối với đảng và
nhân dân ta. cách mạng nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có
những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có nhiều khó khăn phức tạp.
Về những kết quả tích cực nước ta đã đạt được, nước ta đã từng bước cải
thiện trình độ của lực lượng sản xuất và cơ sở vật chất kỹ thuật, các ngành kinh
tế về nền kinh tế có sự tăng trưởng và đã có sự cơ giới hóa trong nơng nghiệp;
giành thắng lợi to lớn trong công cuộc chiến đấu và bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa
vụ quốc tế.
Bên cạnh những kết quả trên, Đại hội cũng nhận định rõ những khó khăn
nước ta gặp phải: Tình hình kinh tế - xã hội có những khó khăn gay gắt; sản
xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối lưu thông có nhiều
rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ

sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân dân lao động cịn
nhiều khó khăn… Nhìn chung chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại
hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời
sống nhân dân.
Về nguyên nhân dẫn đến tình hình trên, Đại hội nhấn mạnh trong những
năm qua việc nhìn nhận, đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội cịn
nhiều thiếu sót. Do vậy đã dẫn đến sai lầm “trong việc xác định mục tiêu và
bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản
lý kinh tế”. Đại hội thẳng thắn cho rằng: “Những sai lầm nói trên là những sai
lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo
chiến lược và tổ chức thực hiện”, đặc biệt là bệnh chủ quan duy ý chí, lạc hậu
về nhận thức lý luận.
Từ những nhận định rõ ràng về tình hình trong nước, Đảng đã đưa ra
những thay đổi trong đường lối đổi mới tại Đại hội VI.
4


1.2. Cơ sở khoa học của Đường lối đổi mới
Đường lối đổi mới được đưa ra tại đại hội VI (1986) căn cứ dựa trên cơ
sở của lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về thời kỳ quá độ, hoàn cảnh và điều
kiện cụ thể của Việt Nam, và hệ thống chủ nghĩa xã hội đã và đang diễn ra.
a. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ
Trước hết, đường lối đổi mới được xác định trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ để có nhận thức đúng về chủ nghĩa xã hội
khoa học và vận dụng nó trong q trình đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản, phù hợp với đặc điểm tình hình của Việt Nam.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc
toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện sự chuyển biến từ xã
hội cũ sang xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân và chính đảng

của nó muốn xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ
ưu việt, tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản thì tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Bởi vì:
Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội không thể ra đời tự
phát trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa hay các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa.
Các xã hội trước chỉ chuẩn bị những điều kiện vật chất để giai cấp công nhân
thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cịn bản thân cơng cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội chỉ được thực hiện khi có cơ sở vật chất – kỹ thuật cũng như
với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa tương ứng.
Sau khi giành được chính quyền, giai cấp cơng nhân cũng không thể đem
áp dụng ngay tức khắc những nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vì,
những nguyên tắc xây dựng và bản chất của chủ nghĩa xã hội khác với các xã
hội trước; giai cấp thống trị cũ mới bị đánh bại về chính trị nhưng chưa bị tiêu
diệt hoàn toàn; những tàn dư của xã hội cũ cịn in vết trong xã hội mới. Do đó
cần có thời gian để tiến hành cải tạo những tàn dư của xã hội cũ, từng bước xây
dựng các nhân tố mới.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có hai kiểu: quá độ trực tiếp và quá
độ gián tiếp: Quá độ trực tiếp từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển lên chủ
5


nghĩa xã hội và quá độ gián tiếp từ các nước tiền tư bản chủ nghĩa hay các nước
tư bản trung bình lên chủ nghĩa xã hội.
b. Hồn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam
Trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam là cơ chế kế hoạch hoá
tập trung với những đặc điểm sau:
Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh
nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất,

nguồn vật tư, tiền vốn; định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương...
đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch cấp
phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà
nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp nhưng lại khơng chịu trách nhiệm gì về vật chất và
pháp lý đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết
định của cơ quan hành chính gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các
doanh nghiệp khơng có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, cũng không bị ràng
buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất, kinh doanh.
Quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là
chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ "cấp phát - giao nộp". Vì
vậy, rất nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư
liệu sản xuất quan trọng khơng được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.
Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động, vừa
sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng
lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động.
Chính sách của Đảng và Nhà nước về cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng
chủ nghĩa xã hội theo một mơ hình cũ đã lỗi thời, cho nên chỉ mấy năm sau khi
hoàn thành thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thì đất nước đã lâm vào cuộc khủng hoảng kinh
tế - xã hội trầm trọng.
Sản xuất nơng - cơng nghiệp đình đốn. Lưu thơng, phân phối ách tắc. Lạm
phát ở mức ba con số. Đời sống của các tầng lớp nhân dân sa sút chưa từng
6


thấy. Ở thành thị, lương tháng của công nhân, viên chức chỉ đủ sống 10 - 15
ngày. Ở nông thôn, vào lúc giáp hạt có tới hàng triệu gia đình nơng dân thiếu ăn.
Tiêu cực xã hội lan rộng. Lịng dân khơng n.

Tình hình diễn biến đến mức, vào khoảng từ cuối năm 1985 đến cuối năm
1986, nghĩa là sau thất bại của cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền (9-1985),
đại đa số quần chúng nhân dân cảm thấy không thể tiếp tục sống như cũ được
nữa; đồng thời các cơ quan lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước cũng thấy
rõ không thể tiếp tục duy trì những chủ trương, chính sách đã lỗi thời, hoặc chỉ
thay đổi có tính chất chắp vá, nửa vời một số chính sách riêng lẻ nào đó thơi.
Trước tình hình đó địi hỏi nước ta phải đảm bảo giữ vững ổn định chính trị xã hội cho cơng cuộc đổi mới, phát huy dân chủ, đảm bảo quyền lực thuộc về
nhân dân, mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế
c. Hệ thống chủ nghĩa xã hội đã và đang diễn ra
Khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu bắt đầu trầm
trọng. Sự khủng hoảng này khơng mang tính bản chất của chủ nghĩa xã hội nói
chung mà chỉ là sự thất bại của một mơ hình xã hội chủ nghĩa cụ thể khơng phù
hợp. Chính sự khủng hoảng này cũng đã có những tác động mạnh mẽ tới việc
hình thành đường lối của Đảng cộng sản tại các nước nói chung và Việt Nam
nói riêng. Nhiệm vụ của Đảng Cộng sản tại các nước là phải đẩy nhanh tiến
trình đổi mới, cải cách, tìm ra mơ hình phù hợp với thực tiễn mỗi nước. Đối với
Việt Nam, sau khi thống nhất đất nước, trước những yêu cầu đặt ra của tình hình
kinh tế- xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối lãnh đạo cơng cuộc
đổi mới một cách tồn diện. Hơn nữa, những kinh nghiệm thành công của các
nước công nghiệp mới (NIC) ở Đông Á cũng đã cung cấp cho Việt Nam những
bài học sâu sắc về con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là những bài
học về hội nhập quốc tế, hướng về xuất khẩu, phát huy cao nhất nội lực của đất
nước,...
Tình hình kinh tế - xã hội ở nước ta cũng như ở nhiều nước xã hội chủ
nghĩa đang gặp nhiều khó khăn do những khiếm khuyết của mơ hình xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta chưa phát hiện để khắc phục, những biến động phức tạp xảy
ra tại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông u gây ra nhiều bất lợi cho
cách mạng Việt Nam. Công cuộc cải tổ ở Liên Xô không sửa chữa được những
sai lầm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, trái lại đất nước
càng lún sâu vào khủng hoảng kinh tế, chính trị.

7


Do những hạn chế về lý luận, ngay sau khi thống nhất đất nước Đảng ta
đã khơng nhìn nhận chính xác hồn tồn “điểm xuất phát” mà từ đó cả nước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, hậu quả là phải đương đầu với những trở ngại to lớn do
đặc thù vốn có của một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu. Khơng nhìn nhận chính xác
vai trị của kinh tế thị trường trong mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; khơng
thấy được những tích cực khách quan của sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa
ở miền Nam trong điều kiện chiến tranh, cũng như tính khơng thích hợp của cơ
chế tập trung bao cấp đã tồn tại ở miền Bắc thời chiến Bắc thời chiến tranh đối
với q trình xây dựng kinh tế trong hịa bình và thống nhất đất nước. Hậu quả
là:
Cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội ở nước ta vẫn diễn ra nghiêm trọng
sang năm 1978- 1989 lương thực thiếu, nạn đói xảy ra ở nhiều tỉnh, lạm phát
cao, đời sống nhân dân rất khó khăn, các hiện tượng gian lận và tệ nạn xã hội
gia tăng.
Các thế lực thù địch lấy cớ quân tình nguyện Việt Nam chưa rút hết khỏi
Campuchia để tiếp tục cô lập Việt Nam. Mỹ vẫn cấm vận về kinh tế đối với
nước ta. Quan hệ về kinh tế giữa Liên Xô và các nước Đông Âu với nước ta bị
thu hẹp
Trước tình hình đó địi hỏi Đảng ta phải đổi mới trước hết là đổi mới tư
duy, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật của đất nước đổi mới toàn
diện và sâu sắc trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ quá độ ở
nước ta do đó đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là tất yếu lịch sử.

8


PHẦN 2 : NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI

ĐƯỢC ĐỀ RA TẠI ĐẠI HỘI VI (1986)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam họp
tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986. Dự Đại hội có 1.129 đại
biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên cả nước, 35 đoàn đại biểu các đảng
anh em, các tổ chức cách mạng và bầu bạn khắp năm châu. Đại hội đã nghe
đồng chí Nguyễn Văn Linh, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá V đọc Diễn văn khai mạc Đại hội, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí
thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khố V đọc Báo cáo chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Võ Văn Kiệt, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá V đọc Báo cáo phương hướng, mục tiêu chủ
yếu phát triển kinh tế, xã hội trong 5 năm (1986-1990).
Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ V. Báo cáo chính trị khẳng định những thành tựu các mặt đã đạt được, với
tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật. Báo cáo chính trị nêu rõ
tình hình kinh tế - xã hội nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn: sản xuất tăng
chậm, khơng đáp ứng được yêu cầu nhanh chóng ổn định đời sống nhân dân:
nhiều chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm 1981 - 1985 không đạt: hiệu quả đầu tư và
sản xuất thấp; tài nguyên chưa được khai thác tốt, bị sử dụng lãng phí; phân
phối lưu thơng rối ren, căng thẳng, vật giá tăng nhanh, ngân sách thiếu hụt; sự
mất cân đối trong nền kinh tế giữa cung và cầu, giữa thu và chi, xuất khẩu và
nhập khẩu chậm được thu hẹp, thậm chí có mặt cịn gay gắt hơn trước; quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc
doanh suy yếu; đời sống nhân dân, nhất là công nhân, viên chức và lực lượng vũ
trang gặp nhiều khó khăn; những hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển,
công bằng xã hội bị vi phạm, pháp luật kỷ cương không nghiêm, quần chúng
giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và điều hành của Nhà nước. Chúng
ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu, nước đi về xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế,... Do tư tưởng chỉ
đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên chúng ta đã
chủ chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, trong khi chưa có đủ các tiền đề cần

thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Trong việc bố trí cơ cấu
kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường xuất phát từ lòng mong
muốn đi nhanh, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp và nông
nghiệp thành một cơ cấu hợp lý, thiên về xây dựng cơng nghiệp nặng và những
cơng trình quy mô lớn, không tập trung sức để giải quyết vấn đề cơ bản là lương
thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều
nhưng hiệu quả thấp. Không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết Đại hội V của
Đảng, như: vẫn chưa thật sự coi trọng nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, công
nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
9


Tóm lại. "chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu do Đại hội lần thứ V đề
ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống của nhân
dân". Đại hội thẳng thắn cho rằng: "Những sai lầm nói trên là những sai lầm
nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến
lược và tổ chức thực hiện"' Đại hội chỉ rõ "Những sai lầm và khuyết điểm trong
lãnh đạo kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư
tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi
nguyên nhân". Từ thực tiễn cách mạng, Đại hội nêu lên những bài học kinh
nghiệm quan trọng.
Trải qua nhiều tìm tịi, khảo nghiệm từ thực tiễn và đối mới tư duy lý luận
nhận thức rõ hơn về thời kỳ quá độ và về chủ nghĩa xã hội, những quy luật
khách quan đảng vận dụng trong thời kỳ quá độ, Đại hội đã đề ra đường lối đổi
mới toàn diện với những nội dung cơ bản sau:
Đổi mới về tư duy lý luận, nhận thức rõ về chủ nghĩa xã hội, về các quy luật
khách quan những đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong nhiều năm qua, những
quan niệm lạc hậu về chủ nghĩa xã hội, nhất là về cơng nghiệp hóa, về cải tạo xã
hội chủ nghĩa, về cơ chế quản lý kinh tế, về phân phối lưu thơng chính là
ngun nhân chậm phát triển và cụ thể hoá đường lối chung và đường lối kinh

tế trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Vì vậy, phải đổi mới, trước hết là
đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy khơng có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý
luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại chính
là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy.
Đổi mới quan điểm chính sách kinh tế:
Về đổi mới cơ cấu kinh tế, dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo
cơ cấu hợp lý, có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh
tế, chính sách đó cho phép sử dụng nhiều hình thức kinh tế với quy mơ và trình
độ kỹ thuật thích hợp trong từng khâu của q trình sản xuất và lưu thơng nhằm
khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế liên kết với nhau, trong đó
kinh tế quốc doanh giữ vai trị chủ đạo. Đại hội xác định rõ các thành phần kinh
tế ở nước ta là:
 Kinh tế xã hội chủ nghĩa (bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập
thể):
 Kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ cơng, nông dân cá thể, những
người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể);
 Kinh tế tư bản tư nhân;
 Kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức mà hình thức cao là cơng
tư hợp doanh:
10


 Kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu
số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác.
Cùng với chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đại hội VI còn chủ trương bố
trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện cho
được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu. Các chương trình đó là sự cụ thể hố nội dung chính của cơng
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu. Ba chương trình này liên

quan chặt chẽ với nhau. Phát triển lương thực thực phẩm và hàng tiêu dùng là
nhằm bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho đời sống nhân dân sau mấy chục năm
chiến tranh ác liệt và trong bối cảnh của nền kinh tế cịn đang trong tình trạng
thiếu hụt hàng hóa nghiêm trọng, góp phần ổn định kinh tế - xã hội; phát triển
hàng xuất khẩu là yếu tố quyết định để khuyến khích sản xuất và đầu tư trong
nước, tạo nguồn thu ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ sản xuất.
Xác định thứ tự ưu tiên đó đã cho phép phát huy sức mạnh nội lực và tranh thủ
sức mạnh từ bên ngoài để phát triển kinh tế xã hội.
Thực chất, đây là sự thay đổi trong lựa chọn mơ hình chiến lược CNH,
chuyển từ mơ hình hướng nội (thay thế nhập khẩu) trước đây bằng mơ hình hỗn
hợp (hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu) đang được áp dụng phổ
biến và khá thành công tại các nước Châu Á lúc bấy giờ. Như vậy, chính sách
CNH của Đại hội VI đã đưa ra một thứ tự ưu tiên mới: nông nghiệp – công
nghiệp hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu – công nghiệp nặng; tạo một sự chuyển
biến quan trọng cả về quan điểm nhận thức cũng như tổ chức chỉ đạo thực hiện
cơng nghiệp hóa đất nước. Đó là sự chuyển biến hướng chiến lược CNH từ:
+ Cơ chế KHHTT sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mơ của Nhà nước.
+ Cơ chế khép kín sang cơ chế mở cửa kinh tế.
+ Từ xây dựng ngay từ đầu một cơ cấu kinh tế đầy đủ, tự cấp tự túc sang cơ cấu
bổ sung kinh tế và hội nhập
+Mục tiêu “ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” đã chuyển sang “ lấy nông
nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm”. Từ đó
dẫn đến sự đổi mới trong cơ cấu đầu tư: “Đầu tư có trọng điểm và tập trung vào
những mục tiêu và các ngành quan trọng, trước hết đầu tư cho sản xuất nông
nghiệp, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, cho chế biến nông sản và một số ngành
công nghiệp nặng trực tiếp phục vụ 3 chương trình kinh tế lớn”
+ Phát huy nguồn lực của nhiều thành phần kinh tế.
Về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI cho rằng, việc bố trí lại cơ
cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Đảng đã thẳng thắn
chỉ ra rằng: Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay đã

không tạo được động lực phát triển làm suy yếu nền kinh tế, kìm hãm sản xuất,
11


làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu
thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Phong cách quản lý quan
liêu, cửa quyền tư duy mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí. Vì vậy,
"Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã được khẳng định là xóa bỏ
tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách
quan: và với trình độ phát triển của nền kinh tế". Việc đổi mới kế hoạch hoá
phải nhằm bảo đảm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI về sắp xếp lại nền kinh tế,
bố trí lại cơ cấu sản xuất và điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư. Kế hoạch phải được
xây dựng từ cơ sở và tổng hợp từ dưới lên với sự hướng dẫn và điều hoà của
trung ương, bảo đảm cân đối tích cực và hiện thực. Kết hợp chặt chẽ kế hoạch
hoá theo ngành và kế hoạch hoá trên địa bàn lãnh thổ. Hợp đồng kinh tế giữa
các đơn vị sản xuất, kinh doanh phải được bảo đảm hiệu lực bằng chế độ trọng
tài kinh tế nhà nước Sử dụng đầy đủ và đúng đắn các đòn bẩy kinh tế trong kế
hoạch hoá và quản lý kinh tế, trên cơ sở kết hợp hài hồ lợi ích của xã hội, lợi
ích của tập thể và lợi ích của người lao động. Mức thu nhập của tập thể và của
người lao động tuỳ thuộc vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Các chính
sách và chế độ quản lý vật tư, lao động, tiêu thụ sản phẩm, giá cả, tài chính, tín
dụng, tiền lương, v.v. phải hướng các hoạt động kinh tế vào việc thực hiện các
mục tiêu của kế hoạch kinh tế quốc dân, tạo điều kiện và đòi hỏi mọi đơn vị
kinh tế thực hiện tốt hạch toán kinh doanh, mọi tổ chức và cá nhân ra sức tiết
kiệm trong sản xuất và tiêu dùng.
Tiến hành phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ; chống tập
trung quan liêu đồng thời chống tự do vô tổ chức, cục bộ, bản vị. Bảo đảm
quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, tự chủ tài chính của các đơn vị kinh tế cơ sở,
quyền làm chủ của các tập thể lao động. Các cơ quan quản lý nhà nước từ trung
ương đến xã, phường phải làm đúng chức năng quản lý hành chính - kinh tế,

khơng can thiệp vào công việc sản xuất - kinh doanh của các đơn vị cơ sở. Bảo
đảm hiệu lực quản lý tập trung thống nhất của trung ương trong những vấn đề
có tầm quan trọng đối với cả nước; đồng thời bảo đảm quyền chủ động của các
cấp địa phương trong việc quản lý kinh tế, xã hội trên địa bàn lãnh thổ.
Đổi mới chính sách đối ngoại, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Nhận thức rõ nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu.
Đại hội VI nhấn mạnh sự cần thiết phải “Cơng bố chính sách khuyến khích
nước ngồi đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành
và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đôi với việc công bố luật
đầu tư, cần có các chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người
nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh”. Đại hội VI của
Đảng (12 /1986) trên cơ sở nhận thức đặc điểm nổi bật của thế giới là cuộc cách
mạng khoa - học kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, đẩy nhanh q trình quốc tế
hố lực lượng sản xuất, Đảng ta nhận định: “xu thế mở rộng phân công, hợp tác
giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế – xã hội khác nhau,cũng là
12


những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta”. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, vì sự nghiệp dân tộc
và nghĩa vụ quốc tế. Đấu tranh giữ vững hịa bình ở Đơng Dương, góp phần gìn
giữ hịa bình ở Đơng - Nam á, ở châu á Thái Bình Dương và trên thế giới, chống
chính sách của các giới đế quốc chạy đua vũ trang và gây nguy cơ chiến tranh
hạt nhân, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Phát triển và củng cố quan hệ đặc biệt giữa ba
nước Việt Nam, Lào và Campuchia; đồn kết và tơn trọng độc lập, chủ quyền
của mỗi nước, hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đoàn kết và hợp tác tồn diện với Liên Xơ là trọng điểm trong chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta; phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước xã hội chủ nghĩa anh em khác; góp phần tăng cường sức mạnh và phát huy

ảnh hưởng của cộng đồng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường đoàn kết của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ
nghĩa quốc tế vô sản; củng cố sự hợp tác giữa các đảng anh em trong cuộc đấu
tranh cho hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Mở rộng quan
hệ với các tổ chức quốc tế. ủng hộ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng và
độc lập dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa phân
biệt chủng tộc. Mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại
hồ bình. Trên tinh thần bình đẳng, bảo đảm độc lập, chủ quyền và tôn trọng lẫn
nhau, sẵn sàng đàm phán để giải quyết những vấn đề thuộc quan hệ giữa Việt
Nam với Trung Quốc, bình thường hóa quan hệ và khơi phục tình hữu nghị giữa
hai nước, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hịa bình ở Đông - Nam á và trên
thế giới.
Đổi mới về vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước: Để thiết lập cơ chế
quản lý mới, cần thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy nhà nước.
Tăng cường bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, có sự phân biệt rõ
chức năng quản lý hành chính kinh tế với chức năng quản lý sản xuất kinh
doanh, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh
thổ. Nhà nước có nhiệm vụ thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành
pháp luật, chính sách cụ thể. Xây dựng chiến lược kinh tế xã hội và cụ thể hoá
chiến lược đó thành những kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Đổi mới nội dung và phong cách lãnh đạo của Đảng, tăng cường sức chiến
đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng. Đại hội nêu rõ: "... Đảng phải đổi
mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế: đổi mới tổ chức;
đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác". Đảng nhấn
mạnh đổi mới tư duy, nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên và
nhân dân là nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng. Đổi mới đội ngũ cán bộ,
kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và quản lý. Đổi mới phong cách làm việc, trong
13



đó tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng nhất. Đại hội đề ra yêu cầu nâng
cao chất lượng đảng viên, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, nâng cao sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở, tăng cường đồn kết nhất trí trong Đảng.
Đại hội VI của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt
để. Đó là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và cũng thể hiện tinh thần
trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và dân tộc . Đường lối do Đại hội đề ra
thể hiện sự phát triển tư duy lý luận, khả năng tổng kết và tổ chức thực tiễn của
Đảng, mở ra thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng nước ta trên con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội. Ðổi mới tồn diện thật sự là ý Ðảng, lịng dân. Nghị quyết
Ðại hội VI vào cuộc sống là quá trình thể nghiệm, tìm tịi, từng bước cụ thể hóa,
phát triển và tổ chức thực hiện những định hướng lớn. Ðảng và Nhà nước vừa
tập trung giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội cấp bách, giữ vững ổn định
chính trị, vừa thực hiện đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các chủ
trương, chính sách đổi mới bắt đầu mang lại kết quả rõ rệt, tình hình kinh tế và
đời sống nhân dân dần được cải thiện, sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng
được phát huy, lịng tin của nhân dân vào cơng cuộc đổi mới tăng lên.

14


PHẦN 3 : ỨNG DỤNG THÀNH TỰU SAU 30 NĂM
ĐỔI MỚI
3.1. Văn hóa – Xã hội
Văn hóa phát triển đa dạng, phong phú, xuất hiện nhiều loại hình, loại
thể, các hoạt động văn hóa mới, có khả năng chiếm lĩnh các mặt khác nhau của
đời sống xã hội. Một mặt, trong tư tưởng chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta luôn tơn
trọng tính đa dạng của văn hóa, quyền tự do sáng tạo của người hoạt động văn
hóa - văn nghệ.
Thứ nhất, nhận thức của Đảng và Nhà nước cũng như của người dân về
vai trị của văn hóa trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong xã hội đã được

nâng cao. Nhân tố văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội đã được coi trọng với
một số chính sách liên quan đến cơng nghiệp văn hóa, gắn văn hóa với phát
triển du lịch. Việt Nam đã bước đầu khai thác văn hóa như nguồn lực nội sinh
để phát triển kinh tế xã hội, giảm bớt những tiêu cực và tệ nạn xã hội do mặt trái
của cơ chế thị trường tạo nên. Vấn đề xây dựng và phát triển con người đã đạt
được một số thành tựu quan trọng. Chỉ số phát triển con người đã tăng đáng kể.
Báo cáo cho biết chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam liên tục tăng
trong 24 năm qua. Năm 2015, Việt Nam được xếp thứ 116/188 nước, tức là ở
thứ hạng trên của nhóm các nước có mức phát triển con người trung bình
Thứ hai, giá trị di sản văn hóa dân tộc được coi trọng. Nhiều di sản văn
hóa Việt Nam đã được UNESCO tơn vinh là di sản văn hóa đại diện của nhân
loại. Theo thống kê, đến năm 2013, cả nước có trên 40.000 di tích được kiểm
kê, trong đó có trên 36.000 di tích được xếp hạng di tích cấp tỉnh và trên 3.000
di tích được xếp hạng di tích cấp quốc gia, có trên 20 di tích được xếp hạng là di
tích quốc gia đặc biệt, có 08 Di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công
nhận đưa vào Di sản văn hóa của nhân loại như: Nhã nhạc cung đình Huế,
Khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Ngun, Dân ca Quan họ, ca trù, Hát
xoan, Đờn ca tài tử Nam bộ…, có hàng chục Di sản văn hóa vật thể được
UNESCO cơng nhận là di sản văn hóa của thế giới như: Vịnh Hạ Long, thành
Nhà Hồ, Hoàng Thành Thăng Long Hà Nội, Động Phong Nha Kẻ Bàng và một
số di tích khác
Thứ ba, tính tích cực, chủ động trong sáng tạo, bảo quản, truyền bá và
thưởng thức các giá trị văn hóa, nghệ thuật của nhân dân đã được nâng cao
Thứ tư, giáo dục - đào tạo, khoa học - cơng nghệ của Việt Nam đã có
bước phát triển đáng kể trên cơ sở tiếp thu những thành tựu văn minh của nhân
loại
Thứ năm, công tác nghiên cứu lý luận về văn hóa và phát triển đã được
coi trọng. Nhiều chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp nhà nước và
15



cấp bộ về văn hóa, con người và nguồn nhân lực được Nhà nước quan tâm đầu
tư. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý văn hóa, văn học - nghệ
thuật được chú trọng. Những thành tựu nghiên cứu lý luận về văn hóa, văn học nghệ thuật đã góp phần tích cực vào việc cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây
dựng đường lối, chủ trương, chính sách phát triển văn hóa của Đảng và Nhà
nước
Thứ sáu, hoạt động giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa với khu vực và
quốc tế được mở rộng, từng bước phát triển theo chiều sâu, mang tính ổn định,
bền vững, góp phần giới thiệu, quảng bá, tơn vinh văn hóa Việt Nam, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại. Các hoạt động văn hóa đối ngoại và thơng tin đối
ngoại có bước phát triển mới, nhất là các chương trình phát thanh và truyền hình
Việt Nam ở nước ngoài, tổ chức các tuần lễ văn hóa Việt Nam ở nước ngồi,
tuần lễ văn hóa nước ngồi tại Việt Nam
Thứ bảy, q trình xây dựng, hồn thiện hệ thống thể chế và thiết chế văn
hóa đã góp phần tạo hành lang pháp lý cũng như tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho
các hoạt động văn hóa của cộng đồng. Nhà nước đã sửa đổi và ban hành mới
các luật và pháp lệnh để điều chỉnh các hoạt động văn hóa như Luật Báo chí,
Luật Di sản văn hóa dân tộc, Luật Quảng cáo, Luật Xuất bản…
Thứ tám, công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa đã có những đổi mới theo
hướng tích cực. Đảng và Nhà nước đã bám sát vào thực tiễn đổi mới của đất
nước để kịp thời đề ra những chủ trương, giải pháp đúng đắn để giải phóng sức
sáng tạo của nhân dân, tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi cho nhân dân tham gia
vào quá trình xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc.
Mặt khác, chúng ta bước đầu chú trọng tập trung nhân lực, vật lực, tài lực
cho sự phát triển dịng mạch chính của văn hóa, mà nội dung chủ yếu là yêu
nước, thủy chung với lý tưởng xã hội chủ nghĩa (XHCN), khẳng định hai cuộc
kháng chiến vĩ đại của dân tộc, đồng thuận, đồng hành, góp phần có hiệu quả
vào cơng cuộc đổi mới. Phải nói rằng, văn hóa đã góp phần quan trọng tạo
khơng khí dân chủ, cởi mở hơn, dân trí được nâng cao, tính năng động sáng tạo,
tự chủ và tính tích cực xã hội của con người được phát huy, hình thành các nhân

tố mới, giá trị mới của con người Việt Nam.

16


3.2. Kinh tế
Qua 30 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết hài hòa
với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ
tài nguyên và môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Từ chỗ nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần
chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và
người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ khơng chấp nhận có sự phân
hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đơi
với tích cực xóa đói giảm nghèo. - Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, Việt Nam
đã trở thành nước thu nhập trung bình, một điểm đến hấp dẫn về đầu tư trong
khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển năng động, tốc độ tăng trưởng cao;
kinh tế vĩ mô ổn định, quốc phòng được giữ vững, an ninh, trật tự an toàn xã hội
được bảo đảm.
Ba mươi năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của
thị trường toàn cầu. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược
về kinh tế.
a. Tư duy kinh tế của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa qua các kỳ Đại hội
- Trước những hạn chế của cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung, làm "kìm
hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội, gây rối
loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã
hội"1 và trước những đòi hỏi của thực tiễn, Đảng ta đã đưa ra các quyết sách

nhằm biến đổi tình hình, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, cải
thiện đời sống nhân dân, mà trước hết phải đổi mới tư duy kinh tế, xóa bỏ tư
duy cũ lỗi thời, tháo gỡ các rào cản, ràng buộc để giải phóng sức sản xuất xã
hội. Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng ta đã "thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tiểu
sản xuất hàng hóa và kinh tế tư bản tư nhân".
- Một là, Đảng ta ln có nhận thức nhất quán về mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Do đó, đổi mới tư duy kinh
tế ln đi trước một bước và được kết hợp chặt chẽ với đổi mới tư duy chính trị.
17


- Hai là, Đảng ta chủ trương lấy đổi mới tư duy kinh tế làm trung tâm, đồng thời
từng bước đổi mới tư duy chính trị cho phù hợp. Đổi mới tư duy kinh tế và tư
duy chính trị đều cùng mục tiêu là tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững gắn với
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ mơi trường, mà mục đích cuối
cùng là dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Đổi mới kinh tế đi
đơi với đổi mới chính trị, khơng chỉ phù hợp với hồn cảnh, điều kiện nước ta,
mà còn phù hợp với quy luật về sự phù hợp giữa thượng tầng kiến trúc và hạ
tầng cơ sở.
b. Những kết quả đạt được sau hơn 30 năm đổi mới tư duy kinh tế ở nước ta
Thứ nhất, về tốc độ tăng trưởng kinh tế
- Trong hơn 30 năm qua (1986-2017), tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta, tuy có
sự dao động nhất định, song vẫn ở mức cao hơn trung bình khu vực và thế giới
với mức tăng bình quân cả thời kỳ gần 7%/năm. Nếu như giai đoạn 1986-1990,
tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta chỉ đạt 4,4%/năm, thì đến giai đoạn 19911995 là 8,2%/năm; giai đoạn 1996-2000 là 7,6%/năm; giai đoạn 2001-2005 là
7,34%; giai đoạn 2006-2010 là 6,32%/năm; năm 2016 là 6,21% và năm 2017 là
6,81%.
- Chất lượng tăng trưởng từng bước được cải thiện, trình độ cơng nghệ trong sản
xuất được nâng lên. Đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)
vào tăng trưởng GDP giai đoạn 2001-2005 đạt 21,4%, giai đoạn 2006-2010 đạt

17,2%, đến giai đoạn 2011-2015 tăng lên 28,94%.
Thứ hai, về kết quả huy động nguồn vốn đầu tư
- Giai đoạn 1986-2017, để tạo nguồn lực tài chính cho phát triển, Đảng và Nhà
nước ta đã khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức chính trị, xã hội, các thành phần
kinh tế bỏ vốn đầu tư phát triển kinh tế. Kết quả là tổng vốn đầu tư toàn xã hội
của nước ta ngày càng tăng. Nếu như giai đoạn 1998-2000, tổng vốn đầu tư toàn
xã hội đạt 117,9 nghìn tỷ đồng, đến năm 2017 đạt 1667,4 nghìn tỷ đồng, tăng
gấp hơn 14 lần so với giai đoạn 1998-2000.
Thứ ba, về tốc độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu
- Từ năm 1986, nước ta thực hiện mơ hình nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, mở cửa, hội nhập với khu vực và quốc tế, nhờ đó sức sản xuất trong
nước được giải phóng, các thành phần kinh tế phát triển, đầu tư trực tiếp nước
18


ngoài ngày càng tăng. Nhu cầu tiêu thụ, trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong nước
và quốc tế khơng ngừng mở rộng.
Thứ tư, về các vấn đề an sinh xã hội
- Với mục tiêu định hướng XHCN, Đảng ta luôn thống nhất quan điểm tăng
trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và cơng bằng xã hội. Do đó, các vấn đề về
an sinh xã hội cơ bản được đảm bảo, hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi cho
mọi người đều phát triển khá đồng bộ và ngày càng được cải thiện.
Vấn đề lao động việc làm, năng suất lao động và tỷ lệ thất nghiệp đều phát triển
theo hướng tích cực.
- Vấn đề xóa đói, giảm nghèo là một trong nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Nhà
nước, các cấp chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội và của toàn dân, được tổ
chức thực hiện nghiêm túc, chu đáo, từ khâu xác định chuẩn nghèo cho từng
giai đoạn phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và mức sống bình quân
của dân cư.


3.3. Quốc phịng – Đối ngoại
Tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường
trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Cho đến nay đã có 59 quốc gia cơng
nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác
thương mại lớn của Việt Nam.
Việt Nam đã ký kết 10 Hiệp định thương mại tự do khu vực và song
phương (gồm 06 FTA ký kết với tư cách là thành viên ASEAN; 4 FTA đàm
phán với tư cách là một bên độc lập); vừa hoàn tất đàm phán 2 FTA (Liên minh
châu Âu và TPP); đang tích cực đàm phán 3 FTA khác (ASEAN - Hồng Kông;
EFTA; RCEP). Việc tham gia ký kết và đàm phán tham gia các FTA có tác động
tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh
nghiệp và sản phẩm, nhất là đến nay Việt Nam đã tham gia vào ba chuỗi giá trị
có vai trị ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu đó là: Chuỗi giá trị
lương thực và an ninh lương thực; chuỗi giá trị năng lượng và an ninh năng
lượng (dầu mỏ, khí, than) và chuỗi giá trị hàng dệt may và da giầy.
Góp phần củng cố vành đai an ninh phía Tây, tăng cường quan hệ đồn
kết, hữu nghị, đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt – Lào, tiếp tục tăng cường vành
đai an ninh với các nước có biên giới phía Tây Nam. Xóa bỏ nghi kỵ giữa ba

19


nước Việt Nam-Lào-Campuchia và các nước khác trong ASEAN, tăng cường
hợp tác nội khối
Thiết lập quan hệ với các nước, các đối tác quan trọng: Thúc đẩy đối tác
hợp tác tồn diện với Hoa Kỳ và đổi mới tính chất quan hệ hợp tác song phương
Việt – Nga.

KẾT LUẬN
Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (đặc

biệt là công nghệ thông tin) tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến
mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc trên thế giới cùng với đó là xu thế
mở rộng phân cơng hợp tác giữa các nước. Do việc nhìn nhận, đánh giá tình
hình cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội của đất nước đã có nhiều thiếu sót, dẫn
đến nhiều sai lầm “trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế”.Nhìn chung chưa
thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra. Đây chính là yếu
tố quan trọng để đề ra những chính sách đổi mới tại Đại hội VI.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những
sai lầm khuyết điểm, đổi mới tư lý luận trải qua nhiều tìm tịi, khảo nghiệm từ
thực tiễn, Đại hội đề ra đường lối đổi mới. Đó là đổi mới tư duy lý luận, đổi mới
quan điểm chính sách kinh tế, đổi mới chính sách đối ngoại, đổi mới về vai trò
quản lý, điều hành của Nhà nước, đổi mới nội dung và phong cách lãnh đạo của
đảng. Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ xây dựng và củng cố quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa; thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tự
nhiên, tự cấp, tự túc. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chính sách xã hội, kế
hoạch hố dân số và giải quyết việc làm cho người lao động. Chăm lo đáp ứng
các nhu cầu giáo dục, văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân.
Trên lĩnh vực đối ngoại nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta là ra sức kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hồ bình ở Đơng
Dương, góp phần tích cực giữ vững hồ bình ở Đông Nam Á và trên thế giới,
tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác tồn diện với Liên Xơ và các nước
trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích
cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Sau 30 năm đổi mới, Đảng và nhân dân ta đạt được rất nhiều những thành
tựu đáng kể, đời sống nhân dân được cải thiên, đất nước ngày càng vững mạnh
trên trường Quốc tế. Tuy nhiên bên cạnh đó cịn rất nhiều những vấn đề tồn tại

20


xung quanh chưa đươc giải quyết. Để xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững
mạnh, cần thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau: tăng cường xây dựng Đảng
về chính trị; tăng cường cơng tác tư tưởng, đẩy mạnh nghiên cứu phát triển lý
luận làm sáng tỏ những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, nhất là vấn
đề đảng cầm quyền; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, “lợi ích nhóm” có hiệu quả; phòng ngừa, loại trừ
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ trong Đảng ra và từ trên
xuống; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược,
bảo đảm sự chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ cán bộ; đổi mới mạnh mẽ
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Ðảng lãnh đạo nhưng không
làm thay Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Nghiên cứu làm rõ
hơn phương thức cầm quyền của Đảng. Khắc phục cả hai nguy cơ: lạm quyền
và mất quyền.

21



×