TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC
----------------------
BÁO CÁO
MÔN TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG
Đề tài: “Nghiên cứu cơ sở tâm lý của tổ chức q trình lao
động tại Cơng ty khách sạn Kim Liên”
Giáo viên hướng dẫn: Đinh Thị Hương
Nhóm thảo luận:
Nhóm 1
Mã LHP:
2061TMKT2311
Hà Nội, tháng 11 năm 2020
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 1
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
STT
Mã sinh viên
Họ và tên
1
19D210071
Nguyễn Thanh An
2
19D210001
Lê Thị Lan Anh
3
19D210142
Nguyễn Mai Anh
4
19D210074
Trần Thị Quỳnh Anh
5
19D210214
Dương Thị Ánh
6
19D210284
Hoàng Ngọc Ánh
7
19D210004
Phạm Thị Ngọc Ánh
8
19D210074
Dương Minh Châu
9
19D210285
Lê Linh Chi
10
19D210005
Nguyễn Thủy Chi
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Ngày nay cùng với sự phát triển của các thành tựu khoa học kỹ thuật, xu hướng
của phân công lao động ngày càng chun mơn hóa hẹp người lao động với sự ra đời
của nhiều ngành sản xuất mới với công nghệ hiện đại và phức tạp. Nguyên tắc của
phân công và hiệp tác lao động hiện nay phải xét trên hai giác độ: con người phải phù
hợp với máy móc thiết bị, máy móc thiết bị phải phù hợp với con người. Thực hiện
phân công và hiệp tác lao động ngày nay không chỉ chú ý đến mặt kĩ thuật của lao
động mà phải quan tâm đầy đủ đến mặt tâm lý xã hội của người lao động để thực hiện
hai mục tiêu là năng suất lao động và sự phồn vinh, hạnh phúc cho người lao động.
Đối với bất kì tổ chức nào về kinh tế, chính trị hay xã hội thì việc tổ chức bộ máy
lao động là vơ cùng quan trọng, nó là yếu tố quyết định sự thành công trong kinh
doanh tổ chức. Cùng với những xu hướng hiện nay, tổ chức lao động ngày càng đặt ra
những yêu cầu tâm lý đối với con người cao hơn.
Từ sự cần thiết và tầm quan trọng của tổ chức quá trình lao động, chúng em đã
quyết định đi nghiên cứu cơ sở tâm lý của tổ chức q trình lao động và đi sâu hơn tại
Cơng ty khách sạn Kim Liên.
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
PHẦN 1: CƠ SỞ TÂM LÝ CỦA TỔ CHỨC QUÁ
TRÌNH LAO ĐỘNG
1.1.
Một số khái niệm liên quan đến tổ chức lao động
Tổ chức lao động là quá trình sắp xếp một cách hợp lí giữa 3 yếu tố của sản xuất
nhằm tạo ra một khối lượng sản phẩm nhất định và chất lượng sản phẩm theo ý muốn.
1.2.
Cơ sở tâm lý của quá trình phân cơng và hiệp tác lao động
1.2.1. Ý nghĩa của tâm lý học với phân công và hiệp tác lao động
∗ Xu hướng của tổ chức lao động đang diễn ra theo chiều hướng sau
− Hao phí thể lực ngày càng giảm do q trình cơ khí hóa và tự động hóa diễn ra
nhanh chóng.
− Hao phí về trí lực ngày càng gia tăng do công nghệ và máy móc thiết bị, trình độ
quản lý ngày càng phát triển mạnh.
− Sự căng thẳng thần kinh ngày càng cao do sự tiếp xúc với tốc độ làm việc ngày
càng lớn và độ chính xác ngày càng cao.
∗ Vai trị của tâm lý học lao động với phân công và hiệp tác lao động
− Chỉ ra những phát triển của khoa học kỹ thuật đã tác động xấu đến con người là
những gì và đưa ra các giải pháp khắc phục nó.
− Chỉ ra các giới hạn tâm lý của con người trong lao động để giúp cho tổ chức quá
trình lao động đạt được những tối ưu trong hoạt động.
− Cho thấy những vấn đề về kích thích lao động tạo nên động lực thúc đẩy hành động
con người.
− Chỉ ra những đòi hỏi về giá trị lao động, giá trị tinh thần của cuộc sống giúp cho
công tác tổ chức lao động và quản lý sản xuất đạt được hiệu quả cao.
− Chỉ ra tác động xấu của môi trường lao động, môi trường tập thể đến con người để
giúp cho hoàn thiện chúng, thỏa mãn những yêu cầu của người lao động.
− Chỉ ra cho tổ chức lao động thấy được các yếu tố tâm lý của sự phát triển năng lực,
kỹ năng, kỹ xảo lao động và chỉ ra các giải pháp sử dụng họ có hiệu quả hơn.
→ Tóm lại, tâm lý học lao động hiện nay thực sự trở thành cơ sở hết sức quan trọng
cho tổ chức lao động khoa học nói chung và phân cơng và hiệp tác lao động nói riêng.
1.2.2. Giới hạn tâm lý của phân công và hiệp tác lao động
Quá trình phát triển của kỹ thuật một mặt đã nâng cao những đòi hỏi của hoạt
động tư duy của con người, nó thúc đẩy sự phát triển các năng lực, trí tuệ, sự sáng tạo
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
của lao động, nó đã làm phong phú thêm nội dung lao động, mở rộng diện nghề
nghiệp, chun mơn hóa người lao động làm cho năng suất lao động cao; mặt khác sự
phát triển của kỹ thuật đã dẫn đến những hậu quả xấu đối với lao động như xuất hiện
tính đơn điệu trong sản xuất và sự căng thẳng thần kinh ngày càng cao.
∗ Những tác động xấu của sự đơn điệu đối với người lao động về mặt tâm lý
− Dẫn đến sự mệt mỏi sớm do các hoạt động cứ lặp đi lặp lại đến mức nhàm chán. Sự
lặp đi lặp lại của hoạt động ở tốc độ và nhịp độ lớn sẽ làm giảm sự kích thích tính
hưng phấn thần kinh và chuyển nó sang dạng ức chế làm cho năng lực làm việc
giảm, mệt mỏi tăng, đặc biệt là làm cho chất lượng sản phẩm không cao.
− Làm giảm sự hứng thú lao động, mất đi sự kích thích tính sáng tạo trong lao động.
Con người làm việc như cái máy, không cần đến suy nghĩ, sáng tạo.
− Làm xuất hiện sự căng thẳng thần kinh rất lớn.
− Dẫn đến thái độ thù địch với lao động làm cho động cơ lao động bị suy giảm, sự
thỏa mãn với lao động bị tiêu tan và dẫn đến giảm hạnh phúc của mỗi người.
∗ Những bất lợi của tính đơn điệu đối với người quản lý về sản xuất
− Sự chun mơn hóa hẹp khơng thể khai thác để tăng năng suất lao động.
− Những công nhân đã phản ứng lại các nhà quản lý ngày càng mạnh.
→ Do vậy, chúng ta thực sự phải quan tâm đến người lao động, coi họ là yếu tố tiềm
năng để nâng cao năng suất lao động.
∗ Những chủ trương tạo ra động lực thúc đẩy năng lực làm việc của người lao
động
− Sử dụng quan hệ con người nhằm tạo ra sự đồng cảm giữa những người lao động
để nâng cao khả năng làm việc của họ.
− Tạo ra cảm giác về vai trị và vị trí cao trong lao động đồng thời từng bước xây
dựng người lao động là người làm chủ quá trình lao động.
− Làm phong phú lao động về chống lại tính đơn điệu.
− Thực hiện củng cố lợi ích và quan điểm đến đời sống tinh thần của người lao động.
∗ Những yêu cầu cơ bản về tâm lý đối với công tác phân công và hiệp tác lao
động
− Thứ nhất, phải đảm bảo tính độc lập trong hoạt động. Tính độc lập trong hoạt động
lao động là cơ sở cho sự tự đo lường thành tích của người lao động, cho tự giám sát
lao động. Đảm bảo tính độc lập này phải xem xét đến hai dạng sau:
+ Tính độc lập trong hoạt động cá nhân, tức là mỗi người có cơng việc cụ thể và
hồn tồn chịu trách nhiệm với cơng việc đó.
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
+ Tính độc lập tương đối trong lao động tổ, nhóm, tức là trong các dạng hoạt
động lao động tổ nhóm thì phải có sự phân cơng lao động đầy đủ và quy kết
trách nhiệm của mỗi cá nhân trong phạm vi của phân cơng đó.
− Thứ hai là phải đảm bảo tính chủ động trong lao động. Tính chủ động lao động
được hiểu là người lao động có quyền trong việc lựa chọn các phương pháp làm
việc tốt nhất để hoàn thành cơng việc.
− Thứ ba là phải đảm bảo tính sáng tạo trong lao động. Tính sáng tạo được thể hiện ở
hai cấp độ:
+ Sự tìm tịi cái mới, tạo ra cái mới có chất lượng cao và hiệu quả lớn.
+ Tìm ra cách làm việc mới, cải tiến các cơng cụ để tạo ra năng suất lao động cao,
chất lượng sản phẩm tốt.
− Thứ tư là phải đảm bảo sự hứng thú với lao động. Sự hứng thú ở đây là phải tạo ra
sự kích thích hưng phấn liên tục với hoạt động thần kinh. Cơ sở tạo ra sự kích thích
hưng phấn của hoạt động thần kinh trong lao động thể hiện ở các điểm cơ bản sau:
+ Sự luân chuyển hợp lý của các thao tác lao động trong quá trình lao động.
+ Giới hạn của thời gian lặp đi lặp lại các thao tác lao động hợp lý.
+ Cơng việc ln gợi mở ra sự tìm tịi sáng tạo.
+ Công việc luôn gắn trách nhiệm cá nhân cao.
+ Cơng việc ln thể hiện vai trị và vị trí cao trong hoạt động lao động.
+ Cơng việc ln mang lại ý nghĩa cao đối với cuộc sống cá nhân và xã hội, có ý
nghĩa là cơng việc phải thỏa mãn động cơ lao động của người lao động.
− Thứ năm là phải đảm bảo sự thăng tiến đối với người lao động. Để đảm bảo sự
thăng tiến đối với người lao động, công tác phân công và hiệp tác lao động ln
phải gợi mở ra nhưng địi hỏi ngày càng cao đối với trình độ lành nghề và kinh
nghiệm trong lao động, luôn hướng người lao động đến nấc thang của trình độ lành
nghề và cần phải tạo điều kiện để cho họ nâng cao trình độ lành nghề.
∗ Các giới hạn hợp lý các thao tác lao động của công việc
Các nhà nghiên cứu tâm lý ở nhiều nước đã chỉ ra rằng tính đơn điệu trong lao
động xảy ra khi mà thời gian hao phí cho một thao tác là quá nhỏ và số lượng thao tác
lao động là q ít trong một cơng việc, do đó dẫn đến mức độ lặp lại của các thao tác
lao động ở tần suất rất lớn. Các nhà tâm lý học tiến hành đo thời gian hao phí của thao
tác lao động và số lượng các thao tác lao động trong công việc cuối cùng đã đưa ra kết
luận sau:
− Nếu một thao tác lao động nào đó có hao phí thời gian là dưới 30 giây thì sẽ dẫn
đến những chuyển biến các chức năng tâm sinh lý của người lao động vượt hơn
mức bình thường. Cịn những thao tác lao động có hao phí lớn hơn 30 giây thì đảm
bảo sự hoạt động của các chức năng tâm sinh lý bình thường. Do đó các nhà tâm lý
học đã thống nhất lấy thời gian hao phí cho một thao tác lao động là 30 giây làm
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
giới hạn của sự đơn điệu trong lao động. Do vậy để loại bỏ tính đơn điệu trong lao
động chúng ta cần phải thiết kế các thao tác lao động sao cho chúng có thời gian
hao phí lớn hoặc bằng hơn 30 giây.
− Nếu một cơng việc nào đó có ít hơn 5 thành phần (5 thao tác lao động) thì sẽ dẫn
đến mất cảm giác về sự luân chuyển các hoạt động địi hỏi những hao phí về thể
lực và trí lực khác nhau, do đó dẫn đến mất nguồn gây cảm giác hưng phấn trong
lao động. Do vậy để gây nên được cảm giác hưng phấn trong lao động thì cơng
việc phải có từ 5 thành phần trở lên.
∗ Các giải pháp chống lại tính đơn điệu
− Kết hợp nhiều thao tác có nội dung đơn giản kém súc tích thành những thao tác có
nội dung phong phú hơn, súc tích hơn. Thực hiện biện pháp này đã làm cho năng
suất lao động tăng lên rõ rệt, chất lượng sản phẩm đảm bảo tốt hơn. Khi kết hợp
phải lưu ý là các thành phần của chúng phải khác nhau về đặc điểm tâm sinh lý,
phân bố chức năng phải chú ý đến sự đồng đều của các cơ quan cảm giác như sự
căng thẳng về thị giác, thần kinh, … đồng thời đảm bảo không được trái với
nguyên tắc kỹ thuật và sinh học.
− Thay đổi vị trí các cơng nhân trong dây chuyền công nghệ theo chu kỳ hoặc không
theo chu kỳ.
− Thay đổi nhịp độ làm việc trong dây chuyền.
− Thực hiện chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý.
− Sử dụng các phương pháp thẩm mỹ tác động vào sản xuất như: âm nhạc, màu
sắc, ...
− Sử dụng các khuyến khích vật chất và tinh thần thích đáng bao gồm: tiền lương,
tiền thưởng, các phúc lợi khác, ...
→ Tóm lại khi tiến hành phân cơng và hiệp tác lao động, chúng ta cần phải đáp ứng
các yêu cầu về tâm lý của người lao động, chống lại và loại bỏ tính đơn điệu trong lao
động.
1.2.3. Chú ý trong lao động
∗ Khái niệm
Chú ý là sự định hướng tích cực của ý thức con người vào một số đối tượng, hiện
tượng nhất định, nó biểu hiện là xu hướng và sự tập trung hoạt động tâm lý vào một
đối tượng nào đó.
∗ Phân loại: có 4 loại chú ý
− Chú ý có chủ định là sự tập trung chú ý một cách có ý thức của con người vào một
đối tượng nào đó.
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
− Chú ý sau chủ định là chú ý xuất hiện tiếp theo chú ý có chủ định, nó phụ thuộc
vào sự hứng thú của con người đối với đối tượng lao động.
− Chú ý không chủ định là chú ý xuất hiện khơng có định trước, xuất hiện bất ngờ
ngẫu nhiên, do các yếu tố khác biệt về màu sắc, âm thanh, hình thù tạo ra.
− Chú ý cảm xúc là chú ý do các yếu tố cảm xúc bên trong gây nên.
∗ Một số đặc điểm cơ bản của chú ý
− Tính tập trung – là mức độ tập trung chú ý vào một đối tượng nào đó.
− Tính bền vững, được xác định bởi thời gian tập trung sự chú ý vào đối tượng đã
chọn.
− Sự phân phối chú ý là sự đảm bảo khả năng thực hiện cùng một lúc những động tác
khác nhau trên những đối tượng khác nhau.
− Sự di chuyển của chú ý thể hiện ở tốc độ chuyển sự chú ý từ đối tượng này sang
đối tượng khác.
∗ Ý nghĩa của chú ý trong lao động
− Giúp cho công tác phân công và hiệp tác lao động có cơ sở để tạo ra sự chú ý cao
trong lao động để tăng nhanh năng suất lao động.
− Có biện pháp ngăn chặn sự xuất hiện của các chú ý không chủ định và chú ý cảm
xúc góp phần làm giảm các sai sót và tai nạn lao động.
∗ Các kết luận có liên quan đến chú ý và năng suất lao động
− Thứ nhất, trong hoạt động lao động, cùng một lúc con người có thể tập trung chú ý
vào được từ 4 – 6 đối tượng khác nhau.
− Thứ hai, cường độ chú ý là mức độ tập trung chú ý vào một đối tượng nhất định.
− Thứ ba, là sự phân bố chú ý muốn thực hiện được tốt phải biết bố trí các đối tượng
một cách phù hợp và sắp đặt các hoạt động theo một trình tự hợp lý, hợp logic của
tư duy và sinh học.
− Thứ tư, sự chuyển dời chú ý phụ thuộc lớn vào tính linh hoạt, kinh nghiệm cao của
người lao động.
− Thứ năm, sự bền vững của chú ý được xác định bằng cường độ và thời gian tập
trung vào đối tượng.
∗ 4 loại khuyết tật chú ý và các biện pháp khắc phục
− Thứ nhất, phân tán tư tưởng là hiện tượng không tạo ra được hưng phấn lao động
cho đối tượng lao động đang tiến hành, các loại hưng phấn khác cùng song song
tồn tại làm cản trở hưng phấn lao động chính. Để khắc phục tình trạng này chúng ta
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
cần nâng cao tinh thần trách nhiệm với công việc, gây hứng thú đối với lao động và
nâng cao kỷ luật lao động.
− Thứ hai là di chuyển chú ý chậm do kém linh hoạt trong hoạt động lao động. Hiện
tượng này do làm việc quá căng thẳng hoặc khuyết tật bẩm sinh trong hoạt động
thần kinh do chấn thương tinh thần gây nên. Đây là khuyết tật khó khắc phục, chủ
yếu tổ chức lao động có khoa học thì mới có thể khắc phục.
− Thứ ba, đãng trí do bệnh lý là hiện tượng mệt mỏi cơ thể và suy nhược lâu ngày
làm vỏ não bị ức chế quá mức, hưng phấn kém và làm cho chú ý kém. Để khắc
phục được trạng thái này chỉ còn biện pháp bồi dưỡng sức khỏe, phục hồi năng lực
làm việc của con người.
− Thứ tư, sự dao động chú ý là hiện tượng sử dụng phần rất nhỏ tế bào não vào một
đối tượng nào đó quá mức có thể gây ra hiện tượng ngưng trệ hoạt động do phản
ứng sinh lý. Khắc phục hiện tượng này là tổ chức nghỉ ngơi hợp lý và phân phối
chú ý hợp lý.
1.2.4. Đặc điểm tâm lý chung của những người lao động cấp dưới
∗ Người thành đạt
− Người thành đạt là người có ý thức bản thân cao và có khả năng tự quản lý tự điều
chỉnh hành vi, ít cần đến xung đột bên ngồi như lời khen hoặc tiền thưởng.
− Những người thành đạt là những người có bản lĩnh sống cao, có năng lực hành vi
cao và họ luôn đạt được kết quả hoạt động tốt.
− Các biện pháp tác động đối với người thành đạt:
+ Nên ít khiển trách hoặc khen thưởng, các nhận xét của lãnh đạo với họ cần thận
trọng, chính xác, khen, chê phải có cơ sở xác đáng đối với những việc đó.
+ Hãy tạo điều kiện để họ có thể tự do làm việc hoặc tự do phát huy sáng kiến, kể
cả những đề xuất các ý tưởng điên rồ mà chưa chứng minh được trong thực tế,
sử dụng họ như là ngưỡng người sáng tạo và có đầu óc đổi mới khơng ngừng.
∗ “Ngựa bất kham”
− Là người có tài, có sáng kiến, biểu hiện bất phục tùng và tính khí bất thường.
− Ngun nhân: Khơng được tạo điều kiện cải tiến hay sáng chế, không được tự do
tư tưởng phát biểu ý kiến của mình khác hoặc trái với đa số và với thủ trưởng…
− Cách quản lý “ngựa bất kham”:
+ Sẵn sàng thỏa mãn địi hỏi của họ, song ln đặt ra các u cầu cao, kiềm chế
hết sức khắt khe và đặt trách nhiệm hết sức nặng nề.
+ “Lấy cái tật, khống chế cái bất kham”, tức là sử dụng một khuyết điểm nào đó
để chế ngự cái ương bướng, bất hợp tác với tập thể hoặc người lãnh đạo.
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
∗ “Người khơng thay thế được”
− Là người lộng hành, người có khả năng trở thành “siêu thủ trưởng” tức là thủ
trưởng đứng trên thủ trưởng chính thức.
− Xuất hiện ở các bộ máy quan liêu cửa quyền.
− Kiểu người này lôi kéo thân quen thành “cánh hầu”, bè đảng làm rối, mất đoàn kết
nội bộ, sẵn sàng trù úm, chèn ép, tham quyền cố vị,… Nếu kiểu người này mà đề
bạt làm cán bộ lãnh đạo thì vơ cùng nguy hại cho tổ chức.
− Trong thực tế, để “người không thay thế” lợi dụng được, cần tiến hành phân cấp,
phân quyền rõ ràng, công khai và công bố rõ ràng các thông tin chính thống trong
doanh nghiệp.
∗ Nhân viên yếu kém
− Là người khơng có năng lực làm việc, khơng đáp ứng được yêu cầu của tổ chức.
− Nguyên nhân:
+
+
+
+
Do tuổi tác, do năng lực kém vì khơng được đào tạo.
Do phân cơng khơng đúng năng lực sở trường.
Do đầu óc cơng thần gây mất đoàn kết, do bè cánh đảng phái.
“Con ông cháu cha” cứ nhận bừa nhân viên vào làm việc bất kể có năng lực hay
khơng.
− Giải pháp:
+ Thay đổi vị trí làm việc của nhân viên cho phù hợp khả năng và sở trường của
họ.
+ Tạo cho họ cơ hội để lựa chọn một nghề mới thích hợp với mình và hỗ trợ cho
họ đào tạo lại nghề.
+ Động viên, khuyến khích, kèm cặp họ trong hoạt động lao động.
∗ “Cùn Chí Phèo”
− Là nhân viên mang tính cách ăn bám, chây lười, ăn vạ, cùn, lỳ, ...
− Xuất hiện ở các đơn vị mà thủ trưởng thiếu năng lực, khơng dám mạnh dạn làm
việc gì, lãnh đạo theo kiểu “dĩ hòa vi quý”.
− Thực tế, kiểu người này tồn tại song song với kiểu lãnh đạo “dĩ hịa vi q” nên khó
loại trừ được, chỉ khi nào thay bằng thủ trưởng kiểu khác.
→ Tóm lại: Sợi chỉ đỏ xuyên suốt cách ứng xử với cấp dưới hiện nay không phải là
đám đông vô danh gồm những con tốt có thể thí bất cứ lúc nào, mà là những con người
với quá khứ, hiện tại và tương lai phụ thuộc một phần đáng kể vào bản lĩnh và nghệ
thuật sử dụng người của nhà lãnh đạo.
1.3.
Cơ sở tâm lý của việc xây dựng chế độ làm việc nghỉ ngơi hợp lý
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
1.3.1. Mệt mỏi và các quan niệm về mệt mỏi
∗ Khái niệm
Mệt mỏi là một quá trình sinh lý xảy ra khi lao động kéo dài hoặc quá căng
thẳng, biểu hiện khách quan là giảm khối lượng và chất lượng lao động, biểu hiện chủ
quan là cảm giác mệt mỏi, cảm giác này mất đi khi được nghỉ ngơi, nếu không được
nghỉ ngơi sẽ bị kiệt quệ sức khỏe.
∗ Những lý thuyết về mệt mỏi
− Thuyết kiệt quệ năng lượng.
− Thuyết mệt mỏi do thiếu oxy.
− Thuyết tích tụ các chất chuyển trung gian.
− Thuyết mệt mỏi xinap thần kinh.
∗ Nguyên nhân
− Do gánh nặng thể lực, tức là người lao động làm việc trong trạng thái tiêu hao năng
lượng lớn.
− Do sự căng thẳng thần kinh, sự căng thẳng này do sự chú ý quá cao gây nên.
− Sự đơn điệu trong lao động dẫn đến hiện tượng căng thẳng thần kinh cảm giác.
− Sự tổ chức lao động không tốt, không có chế độ làm việc nghỉ ngơi hợp lý.
− Các yếu tố tác động của môi trường khắc nghiệt.
∗ Phân loại mệt mỏi
− Theo T. Tipphin, có 3 loại mệt mỏi: sinh lý, tâm lý, nơi sản xuất.
− Theo nguồn gốc, có 3 loại mệt mỏi: cơ bắp, trí óc, cảm xúc.
→ Mệt mỏi có tác hại vơ cùng to lớn như: giảm khả năng làm việc, gây ra các tai nạn
lao động, ảnh hưởng tới sức khỏe con người vì vậy chúng ta cần phải có giải pháp hữu
hiệu chống lại mệt mỏi.
1.3.2. Nghiên cứu khả năng làm việc
∗ Các khái niệm cơ bản
Sức làm việc là một khái niệm sinh học, nói lên khả năng làm việc dẻo dai, bền
bỉ, không mệt mỏi sớm.
Năng lực làm việc là một khái niệm tâm lý, xác định khả năng thực hiện một loại
hoạt động cụ thể mà khơng có hành động sai lầm và đạt được hiệu quả cao trong hoạt
động đó.
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
Khả năng lao động là một khái niệm xã hội học, thể hiện khả năng đóng góp của
một người cụ thể vào hoạt động lao động xã hội.
Khả năng làm việc là một phạm trù của tổ chức lao động khoa học, thể hiện số
lượng và chất lượng lao động hao phí cho một hoạt động cụ thể nào đó.
∗ Khả năng làm việc của con người phụ thuộc vào 2 nhóm yếu tố cơ bản sau
− Nhóm 1: Những yếu tố bên ngồi như: những u cầu của sản xuất, tính chất và
tầm quan trọng của sản xuất, trách nhiệm của người lao động, …
− Nhóm 2: Các yếu tố bên trong như: đặc tính các phản ứng của cơ thể trong lao
động, các quyết định về thao tác lao động, …
∗ Khả năng làm việc trong ngày
− Là sự thay đổi của năng suất lao động trong ngày của người lao động trong những
khoảng thời gian khác nhau.
− Chu kỳ gồm có 7 giai đoạn:
Giai đoạn 1 là giai đoạn trước lao động – là giai đoạn chuẩn bị cho quá trình lao
động. Đây là quá trình con người dựa vào điều kiện bên ngoài để xác định các phản
ứng lao động bên trong.
Giai đoạn 2 là giai đoạn bắt đầu lao động, khả năng làm việc tăng dần biểu hiện
qua tăng dần năng suất lao động.
Giai đoạn 3 là giai đoạn tăng bù trừ, khả năng làm việc tăng cao hơn so với yêu
cầu và sau đó trở về đến yêu cầu, biểu hiện qua năng suất tăng cao và giảm chút ít sau
đó.
Giai đoạn 4 là giai đoạn khả năng làm việc bù trừ hoàn toàn. Giai đoạn này người
lao động đã xác định được phương pháp làm việc và tốc độ lao động phù hợp, do vậy,
năng suất lao động ổn định một khoảng thời gian dài sau đó.
Giai đoạn 5 là giai đoạn bù trừ khơng hồn tồn. Trong giai đoạn này, năng suất
lao động có xu thế thất thường theo hướng giảm xuống do xuất hiện sự mệt mỏi hoặc
các yếu tố bất lợi về sinh lý.
Giai đoạn 6 là giai đoạn mất bù trừ. Trong giai đoạn này, khả năng lao động giảm
nhiều và xuất hiện sự sai sót trong lao động; biểu hiện là năng suất lao động giảm
mạnh và phế phẩm tăng. Giai đoạn này xảy ra một chút, phải cho người lao động nghỉ,
nếu không sẽ chuyển sang giai đoạn bảy.
Giai đoạn 7 là giai đoạn kiệt quệ. Trong giai đoạn này, khả năng làm việc giảm
mạnh và sai sót lao động thường xuyên xảy ra. Biểu hiện là năng suất lao động giảm,
phế phẩm tăng và nguy cơ tai nạn lao động xảy ra lớn. Nếu khơng được nghỉ thì trong
một thời gian ngắn sau người lao động không làm việc được hoàn toàn.
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
∗ Khả năng làm việc trong tháng
− Do nhiều yếu tố tác động nên người lao động không phục hồi được sức lao động đã
hao phí hồn tồn. Vì vậy, họ thường bị giảm khả năng lao động ở cuối tuần hoặc
cuối tuần.
→ Việc nghiên cứu giúp cho chúng ta thấy được tính tối ưu của chế độ làm việc nghỉ
ngơi trong ngày, các yếu tố ảnh hưởng khác tới sức khỏe người lao động như: cường
độ lao động, hồn cảnh gia đình,… Để đảm bảo sức khỏe cho người lao động, chúng ta
phải thường xuyên nghiên cứu khả năng làm việc tuần hoặc tháng của người lao động,
để giải pháp quản lý lao động có hiệu quả.
1.3.3. Xây dựng chế độ làm việc nghỉ ngơi hợp lý
∗ Mục đích
− Duy trì khả năng làm việc ổn định ở một mức độ nhất định để đảm bảo chỉ tiêu
năng suất lao động.
− Loại trừ mệt mỏi triệt để không để lại dư âm làm ảnh hưởng tới sức khỏe người lao
động.
∗ Giải pháp cơ bản
Giải pháp cơ bản để đạt được hai mục đích trên là xây dựng chế độ làm việc nghỉ
ngơi hợp lý. Chế độ làm việc nghỉ ngơi hợp lý là sự luân phiên giữa làm việc và nghỉ
ngơi sao cho khả năng làm việc ổn định ở mức độ nhất định và bảo vệ sức khỏe người
lao động.
∗ Nguyên tắc khi xây dựng chế độ làm việc và nghỉ ngơi
− Phải phù hợp với các dạng lao động nhất định.
− Phải phù hợp với các nguyên tắc của tổ chức lao động và tổ chức sản xuất.
− Phải đảm bảo tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
− Phải loại trừ triệt để dư âm của mệt mỏi đối với người lao động.
∗ Các bước xây dựng chế độ làm việc nghỉ ngơi
− Bước 1: Phân nhóm các loại lao động theo không gian và đặc điểm công việc.
− Bước 2: Khảo sát khả năng làm việc của một số cơng việc điển hình của nhóm.
u cầu: phải xác định rõ thời gian hao phí; xác định ngun nhân dẫn đến hao phí
đó và có nhận định về tính hợp lý của các hao phí thời gian cho các giai đoạn; vẽ
đồ thị khả năng làm việc của các công việc khảo sát được.
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
− Bước 3: Xây dựng chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý bằng cách xác định các loại
thời gian hao phí cho các giai đoạn khác nhau của khả năng làm việc, xác định thời
gian nghỉ ngơi cần thiết và số lần nghỉ ngơi trong ngày làm việc.
− Bước 4: Vẽ đồ thị thể hiện khả năng làm việc trong chế độ làm việc và nghỉ ngơi
hợp lý.
− Bước 5: Xác định các biện pháp kinh tế kỹ thuật để thực hiện chế độ làm việc và
nghỉ ngơi hợp lý.
∗ Kết luận
− Giải lao lần đầu mang tính chất dự phịng nên nghỉ khi bắt đầu làm việc được từ
1,5 – 2 giờ.
− Nửa ngày đầu làm việc nên bố trí giải lao 1 lần.
− Nửa ngày làm việc sau nên có số lần giải lao nhiều hơn nửa ngày làm việc đầu.
− Tùy theo mức độ nặng nhẹ, điều kiện làm việc tốt xấu mà xác định thời gian nghỉ
dài hay ngắn phù hợp với điều kiện cụ thể.
1.4.1 Tâm lý màu sắc trong sản xuất
Màu sắc đã tạo ra kích thích tâm lý con người về cả 2 phía là tích cực và tiêu cực.
Chúng ta phải hiểu rõ được tác động đó để có thể ứng dụng nó một cách hợp lý vào
sản xuất. Theo M. Deriberi thì tác dụng của tâm lý màu sắc đến con người như sau:
Màu đỏ chói là màu gây cảm giác nóng, có kích thích bức xạ mạnh làm tăng sức
căng của các bắp cơ, tăng huyết áp và nhịp thở. Màu đỏ là màu của sinh lực và hành
động do vậy ảnh hưởng lớn đến tâm lý theo hướng đó.
Màu da cam là màu rực rỡ dễ bị gây cảm giác hăng say vì màu này vừa có tác
dụng hun nóng vừa có tác dụng kích thích.
Màu vàng là màu của vui tươi, sảng khối. Màu này có độ sáng cao nhất trong
quang phổ, nó gây kích thích mạnh đối với thị giác, màu vàng có khả năng làm dịu bớt
trạng thái thần kinh quá căng thẳng.
Màu xanh lá cây làm màu dịu dàng nhất của tự nhiên. Đó là màu tươi mát làm
cho trí óc được thư giãn, làm tăng tính kiên nhẫn của con người.
Màu xám là màu của lạnh lẽo và cảm giác nặng nề, nó gây nên ức chế của sự
hoạt động thần kinh và có tâm trạng đề phịng, hồi nghi, hoang mang, dao động.
Màu đen là màu của sự lạnh lẽo và cảm giác nặng nề, nó có tác dụng như màu
xám. Khi sử dụng màu sắc cần tuân thủ nguyên tắc:
− Sử dụng màu sắc để gây ra cảm giác về nhiệt độ: Với nguyên tắc này, các khu làm
việc có nhiệt độ cao phải sơn màu xanh lá cây, màu xanh lơ, ngược lại các khu làm
việc lạnh thì phải sơn màu kích thích như đỏ, da cam, vàng.
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
− Sử dụng màu sắc để tạo cảm giác về trọng lượng: theo nguyên tắc này, các vật thể
phải di chuyển có trọng lượng lớn nên dùng màu xám sáng hoặc màu xám trắng
− Sử dụng màu sắc để tăng độ phản chiếu trong mơi trường lao động: theo ngun
tắc này thì chỗ có chiếu sáng kém thì dùng màu có độ phản chiếu cao và chỗ chiếu
sáng cao thì dùng màu có độ phản chiếu thấp. Chúng ta sử dụng tiêu chuẩn độ phản
chiếu
− Sử dụng màu sắc để kích thích hoạt động lao động: theo nguyên tắc này các hoạt
động lao động trí óc hoặc chân tay có sự chú ý cao thì thường dùng màu sắc lạnh
mát và thanh thản như xanh lá cây, xanh da trời, xanh da trời nhạt để làm dịu mát,
trong các điều kiện khác cần kích thích thì dùng vàng sáng, da cam sáng,..
− Sử dụng màu sắc làm nền: trong trường hợp này chúng ta cần sử dụng nền của môi
trường lao động, màu cho các loại dụng cụ lao động và các điều khiển thiết bị. Nền
của môi trường lao động cần phải đảm bảo tiêu chuẩn hệ số phản chiếu tối ưu là:
+
+
+
+
+
Trần nhà từ 70 – 80%
Tường phía trên 60 – 85%
Sơn nhà 30 – 50%
Tường nhà phía dưới 50 – 65%
Gỗ và các trang thiết bị 50 – 60%
− Sơn các nút bấm và các điều khiển phải theo tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế sau:
Nút bấm:
+
+
+
+
Màu đỏ chỉ sự dừng lại vì trục trặc máy
Màu vàng chỉ sự di chuyển hay để ngừng
Màu xanh cho động cơ chạy
Màu trắng và da trời để thực hiện các thao tác phụ
Đèn tín hiệu
+
+
+
+
Màu đỏ để đề phịng khả năng hỏng hóc, quá tải
Màu vàng báo trước đại lượng tới hạn
Màu xanh lá cây chỉ trạng thái bình thường
Màu xanh nước biển chỉ các âm cực
Ngồi ra, màu sắc cịn dùng sơn các dụng cụ lao động phân biệt các loại khác
nhau
Dùng màu sắc để ngăn ngừa tai nạn: Người ta thường dùng màu sắc và các hình
vẽ để bảo hiệu cho người lao động các loại nguy hiểm để không được tới gần hay đề
phòng khi làm việc như: sơn màu đỏ đối với ống dẫn khí nóng và các nhiên liệu dễ
cháy,..
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
1.4.2 Tâm lý âm nhạc trong sản xuất
Ảnh hưởng của âm nhạc đến trạng thái hưng phấn và hoạt động lao động của con
người đã được nhận biết từ rất lâu. Những người Ai Cập, Hy Lạp cổ đại đã biết sử
dụng âm nhạc như một phương tiện chữa bệnh và gây trương lực để nâng cao tinh thần
và tâm trạng của bệnh nhân.
Ngày nay nghệ thuật âm nhạc thế giới có vai trị quan trọng của nhân dân tồn
thế giới nói chung. Với những bài ca trữ tình, các bài hát ngợi ca cuộc sống hịa bình,
tình u và hạnh phúc, âm nhạc đã mang lại hạnh phúc lớn lao cho nhân loại. Ngay
những năm đầu của thế kỷ 20 này nhiều nhà nghiên cứu về tâm lý và âm nhạc đã sử
dụng âm nhạc trong thi đấu thể thao và trong hoạt động nhằm kích thích hoạt động của
các cầu thủ và người lao động.
Âm nhạc có tác dụng rất lớn đối với người lao động ở 2 mặt là: Tạo ra một tâm
trạng hưng phấn trong lao động, tạo ra nhịp độ lao động cao, ổn định trong 1 thời gian
dài. Điều có đã chống lại mệt mỏi và tăng khả năng làm việc. Những nhà nghiên cứu
tâm lý học lao động đã sử dụng âm nhạc trong sản xuất và thấy rằng âm nhạc nếu sử
dụng đúng sẽ làm tăng năng suất từ 7 – 20%. Khi sử dụng âm nhạc cần chú trọng:
Thứ nhất về loại nhạc và thời điểm phát: Các nhà nghiên cứu thống nhất thời
điểm và âm tiết của nhạc trong các giai đoạn sau:
− Giai đoạn người lao động mới đến nơi làm việc và chuẩn bị làm việc, chúng ta nên
sử dụng loại nhạc cụ có âm tiết vui, nhẹ nhàng, hoan hỉ, nhịp điệu khẩn trương để
tạo nên tâm lý vui vẻ khẩn trương cho một ngày làm việc
− Giai đoạn bắt đầu lao động sử dụng loại nhạc nhẹ, vui tươi nhịp điệu chậm ban đầu
và tăng dần đến mức phù hợp với nhịp điệu cao của sản xuất để kích thích người
lao động tăng dần nhịp điệu làm việc
− Giai đoạn làm việc ổn định nên dùng loại nhạc êm ái, mềm mại, uyển chuyển và
nhẹ nhàng với nhịp điệu phù hợp với điệu cao của sản xuất để duy trì khả năng làm
việc cao.
− Giai đoạn xuất hiện mệt mỏi chúng ta nên dùng loại nhạc êm dịu, nhẹ nhàng với
nhịp điệu có xu thế giảm dần theo xu thế giảm của nhịp điệu lao động song phải
cao hơn một chút so với nhịp điệu lao động giảm dần đó.
− Giai đoạn cuối giờ làm việc nên dùng loại nhạc mạnh, hào hứng, sôi động, yêu đời,
thư thái để tạo ra tâm lý vui vẻ, tự hào và thư thái sau 1 ngày làm việc.
− Giai đoạn nghỉ giải lao nên dùng loại nhạc êm dịu, vui tươi, thư thái, nhẹ nhàng để
giúp người lao động nhanh chóng phục hồi các chức năng sinh lý đã hao phí trong
sản xuất.
Thứ hai về số lượng thời gian mở nhạc trong ngày làm việc:
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
Theo các nhà nghiên cứu của Mỹ thì mở nhạc một giờ trong ngày sẽ làm tăng
năng suất 11% nếu mở nhạc 5 giờ trong ngày năng suất lao động chỉ tăng 5%. Từ
những nghên cứu đó nhà tâm lý học lao động đã thống nhất về số lượng và mức độ
phát âm nhạc như sau:
− Số lượng thời gian âm nhạc phát ra trong một ngày làm việc từ 1 đến 2,5 giờ tùy
thuộc vào điều kiện cụ thể mà quyết định trong khoảng đó. Thời gian phát nhạc
mỗi lần tối ưu là 15 – 25 phút và không nên quá 30 phút mỗi lần phát.
Thứ ba những loại âm nhạc không nên sử dụng trong sản xuất.
Các nhà nghiên cứu tâm lý đã chỉ ra các loại nhạc không được dùng trong sản
xuất như sau:
− Loại nhạc có cảm giác mạnh và nhịp điệu cao như rock, jar,..
− Loại nhạc có lời và các bài hát đang được hâm mộ trong xã hội vì sẽ làm phân tán
tư tưởng người nghe.
− Các loại nhạc buồn, bi ai với nhịp điệu chậm chạp.
Thứ tư sự luân phiên nhạc trong sản xuất:
Các nhà nghiên cứu cho rằng chúng ta cần luân phiên phát các loại nhạc khác
nhau trong các giai đoạn nhất định. Chúng ta không nên phát đi phát lại bản nhạc nào
đó quá nhiều lần sẽ gây nhàm chán. Mối bản nhạc chỉ nên phát 2 – 3 lần trong tuần và
khoảng thời gian dài sau mới nên dùng lại.
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
PHẦN 2: NGHIÊN CỨU CƠ SỞ TÂM LÍ CỦA TỔ
CHỨC Q TRÌNH LAO ĐỘNG TẠI CÔNG TY
KHÁCH SẠN KIM LIÊN
2.1. Giới thiệu sơ lược về công ty khách sạn Kim Liên
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Cơng ty khách sạn Kim Liên là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực khách sạn và du lịch. Công ty nằm trên đường Đào Duy Anh –
Quận Đống Đa – Hà Nội với diện tích 36.331 mét vng. Cơng ty có 2 khách sạn lớn,
4 nhà hàng, hội nghị phòng họp và một hệ thống các kiốt bán hàng may mặc và thủ
công mỹ nghệ. Khách sạn Kim Liên được bắt đầu từ khách sạn Bạch Mai trước đây.
Đây là một cơ sở phục vụ chuyên gia lớn nhất miền Bắc hồi đó (bao gồm 10 ngơi nhà
4 tầng, có tất cả 600 phòng) đáp ứng được cho trên 1000 chuyên gia và gia đình
chuyên gia. Trong suốt trên 30 năm phục vụ chun gia nước ngồi, khách sạn Kim
Liên ln giữ vị trí con chim đầu đàn của cục chuyên gia, là đơn vị nịng cốt ln đi
đầu trong mọi nhiệm vụ với ý niệm “việc gì khó có Kim Liên”. Từ năm 1994 đến nay:
công ty du lịch Kim Liên thuộc quyền quản lý của Tổng cục du lịch.
2.1.2 Cơ cấu bộ máy tổ chức của công ty
Công ty áp dụng mơ hình quản lý trực tuyến kết hợp cùng quản lý chức năng
trong hoạt động quản lý kinh doanh. Một Giám đốc phụ trách quản lý hai công ty như:
Khách sạn Kim Liên I và Khách sạn Kim Liên II. Ngồi ra cịn có hai phó Giám Đốc
điều hành cơng việc và phụ trách các phịng ban chức năng cũng như các tổ đội sản
xuất trong Công ty, chịu trách nhiệm trước tồn bộ Cơng ty và Giám Đốc, theo dõi,
giám sát các hoạt động của cấp dưới, kịp thời báo cáo cho Giám Đốc quyết định kinh
doanh và giải quyết các khiếu nại, các vấn đề trong Công ty.
∗ Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận Cơng ty
Bộ phận đón tiếp: Giám Đốc bộ phận đón tiếp, trưởng nhóm đại sảnh ,trưởng
nhóm tiếp tân, nhân viên điện thoại, nhân viên tạp vụ, nhân viên bảo vệ, nhân viên chỉ
dẫn, nhân viên hành lý, nhân viên phục vụ phòng, nhân viên tiếp khách.
Chức năng của bộ phận đón tiếp khách sạn: Làm trung tâm vận hành nghiệp vụ
của toàn khách sạn, theo dõi, phục vụ khách trong suốt q trình đặt phịng, là cầu nối
với các dịch vụ khác trong và ngoài khách sạn (ăn uống, vui chơi, giải trí…).
Nhiệm vụ: Thực hiện các cơng việc về tiếp khách như đưa đón khách, nhận và
chuyển bưu điện báo, hành lý, chuyển giao yêu cầu dịch vụ của khách với nhà hàng ăn
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
uống, giải trí. điều phối phòng ở thuê dài và ngắn hạn, kịp thời phản ánh với lãnh đạo
về nguồn khách, tình hình tiêu thụ sản phẩm, về doanh thu, về nhu cầu của khách.
Bộ phận nhà hàng: gồm tổ bàn ba và tổ nấu ăn. Tổ bàn ba là tổ bàn chuyên làm
nhiệm vụ đón tiếp, hướng dẫn sắp xếp khách vào bàn ăn và nhận được đơn yêu cầu
của khách; chịu trách nhiệm thỏa mãn tối đa mọi yêu cầu ăn uống của khách ở tại
khách sạn cũng như khách ở bên ngồi. Tổ nấu ăn (bếp) có quan hệ trực tiếp với tổ
bàn; nhận thực đơn do nhà bàn chuyển đến.
Bộ phận các dịch vụ bổ trợ: gồm tổ giặt là; tổ tạp vụ; tổ dịch vụ và tổ dịch vụ
tham quan, giải trí.
Tổ giặt là: Tổ chức giặt là quần áo và các đồ vải cho khách lưu trú, ăn ở tại
khách sạn và các dịch vụ bổ trợ, phục vụ yêu cầu các hoạt động phát sinh của các tổ
trong khách sạn như: buồng, bàn bar, lễ tân nhằm đáp ứng mọi nhu cầu đảm bảo kinh
doanh phục vụ khách tốt nhất.
Tổ tạp vụ: Thực hiện vệ sinh sạch sẽ tại các khu vực công cộng của khách sạn.
Tổ dịch vụ (Massage): Tổ chức dịch vụ xông hơi, vật lý trị liệu đúng theo quy
định 87/CP của Thủ Tướng Chính Phủ, kết hợp chặt chẽ với các bộ phận liên quan
trong khách sạn để đáp ứng nhu cầu kinh doanh phục vụ khách.
Tổ dịch vụ tham quan, giải trí: Tổ chức các cuộc tham quan vui chơi, giải trí cho
khách.
Bộ phận tu sửa: Bao gồm tồn bộ những cơng việc kỹ thuật, điện nước máy
móc, thiết bị sửa chữa… Ngồi ra cịn các bộ phận khác như bảo vệ thường trực, vườn
hoa cây cảnh, thợ may, tiếp liệu, cắt tóc, nhà trẻ…Trong đó bộ phận bảo vệ có nhiệm
vụ bảo vệ tài sản của khách sạn, giám sát ra vào của nhân viên và những người ngoài
khách sạn, đảm bảo an toàn yên tâm cho khách…
Như vậy, mỗi bộ phận có nhiệm vụ chịu trách nhiệm trước ban Giám Đốc về
con người, tồn bộ cơng việc của tổ, hồn thành kế hoạch được giao, lập kế hoạch
phân cơng lao động, quản lý lao động, điều hành phân phối công việc giữa các khâu
trong tổ hợp lý, đảm bảo phục vụ khách tốt nhất, khi đông khách cũng như khi vắng
khách.
2.1.3 Đặc điểm lao động
Khách sạn có 465 lao động trực tiếp chiếm 85,3 % bao gồm bộ phận giặt là, tu
sửa, bảo vệ, ăn uống, buồng, dịch vụ bổ xung, trung tâm cơng nghệ thơng tin ,đội xe...
Tồn khách sạn có 73 người là lao động gián tiếp gồm bộ phận kế tốn, thị trường, kế
hoạch, hành chính tổ chức chiếm 14,7 % toàn lao động trong khách sạn.
∗ Trình độ học vấn và trình độ ngoại ngữ
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
Trình độ ngoại ngữ: Trong khách sạn Kim Liên số công nhân viên biết ngoại ngữ
chiếm tới 70 % với ba ngoại ngữ phổ biến là tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Pháp. Tuy
nhiên trình độ ngoại ngữ chưa đồng đều. Bộ phận lễ tân 100 % biết ngoại ngữ và có
trình độ đại học.
Trình độ văn hố: Khách sạn Kim Liên hiện nay có 183 người tốt nghiệp đại học
chiếm 33,6% tổng số lao động số lao động còn lại đều đã tốt nghiệp trung học hoặc có
bằng cấp.
Trình độ chun mơn: Nhìn chung trình độ chun mơn của cán bộ cơng nhân
viên công ty khá đồng đều. Hàng năm công ty đều cử 1 số cán bộ công nhân viên đi
bồi dưỡng về nghiệp vụ cũng như học hỏi những kiến thực tế từ đơn vị bạn.
2.2. Thực trạng tổ chức quá trình lao động tại cơng ty khách sạn Kim
Liên
2.2.1. Thực trạng q trình phân cơng và hiệp tác lao động tại công ty
∗ Trong công tác tuyển dụng nhân lực:
Đối với vị trí quản đốc có một số u cầu: tốt nghiệp đại học (hoặc cao đẳng) và
đã có kinh nghiệm ở vị trí tương đương 2 năm trở lên, có khả năng giao tiếp tốt,….
Đối với nhân viên phục vụ phịng, do tính chất cơng việc nên cần có yêu cầu cơ bản
sau: là người trực tiếp sản xuất và chịu trách nhiệm cơng việc phục vụ địi hỏi sự cẩn
thận, tỉ mỉ nên phải chịu trách nhiệm trước giám đốc điều hành khách sạn khi có sự cố
xảy ra. Đối với phó quản đốc cũng có những tiêu chí tuyển dụng riêng: đa số các lao
động được tuyển là nữ tuy nhiên vẫn có một số cơng việc như sản xuất kinh doanh,…
có nhiệm vụ nhận một số công việc khi quản đốc vắng như trực đêm, mang vác, sắp
xếp đồ đạc,…
∗ Bố trí và sử dụng nhân lực:
Để tránh sự đơn điệu trong tổ chức lao động thì cơng ty khách sạn du lịch Kim
Liên đã tiến hành cơ cấu tổ chức bộ máy để mỗi nhân lực trong công ty từ giám đốc
trở xuống với sự chun mơn hóa sâu trong cơng việc.
∗ Tạo động lực cho người lao động:
Quản lý ở khách sạn Kim Liên ln quan tâm thơng cảm và biết động viên khích
lệ nhân viên của mình hợp tình hợp lý thơng qua các cử chỉ, lời nói và bằng hình thức
trả lương, thưởng cho nhân viên của mình theo nguyên tắc trả lương ngang nhau cho
người lao động. Điều này làm nhân viên cảm thấy được đối xử công bằng, cảm thấy
thoải mái hơn và đặc biệt gắn kết giữa các nhân viên trong công việc càng chặt chẽ,
mang lại hiệu quả cao trong cơng việc, khơng có hiện tượng người này ganh với người
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
kia do cùng làm công việc như nhau, năng lực như nhau, hiệu quả công việc như nhau
mà tiền lương lại chênh lệch nhau.
∗ Phân công hiệp tác với đào tạo và phát triển nhân lực
Tại bộ phận phục vụ phòng của khách sạn, mỗi nhân viên đều đảm nhận một
cơng việc chính như: bộ phận lễ tân, bộ phận lau dọn, bộ phận trực ban,…Tuy nhiên,
tất cả nhân viên đều được đào tạo và hướng dẫn một số cơng việc có liên quan khác
nhau nhằm nâng cao trình độ chun mơn và giúp họ phá triển thêm một số kĩ năng
nghề nghiệp: nhân viên lễ tân có nhiệm vụ đón tiếp khách hàng nhưng vẫn có thể đào
tạo và hướng dẫn họ cơng việc như: trang trí, sắp xếp phịng khách sạn phịng khi bộ
phận phục vụ thiếu người.
Vị trí phó quản đốc của khách sạn cũng đã có đủ kiến thức và kĩ năng nắm vai trò
quản lý nhân viên cấp dưới nhưng công ty vẫn đào tạo dưới sự hướng dẫn của quản
đốc khách sạn để khi quản đốc khách sạn vắng mặt thì phó quản đốc có thể đảm nhiệm
các cơng việc của quản đốc như báo cáo tình hình tại nơi mình quản lý và chịu trách
nhiệm trước ban giám đốc trong thời gian làm thay quản đốc.
∗ Hiệu quả của phân công và hiệp tác lao động trong Công ty
− Ưu điểm:
+ Tăng hiệu quả trong năng suất lao động, chất lượng hồn thành cơng việc của
từng thành viên cũng như góp phần hồn thành mục tiêu chung của doanh
nghiệp.
+ Góp phần tạo sự cố gắng gắn kết giữa các thành viên nói riêng và gắn bó lâu dài
giữa các nhân viên với các doanh nghiệp nói chung.
+ Ban lãnh đạo, cán bộ quản lý cũng đã sử dụng tốt yếu tố tâm lý để kích thích,
thúc đẩy hiệu quả làm việc bằng các phần thưởng vật chất lẫn tinh thần qua các
chương trình thi đua khen thưởng dựa trên mức độ hồn thành cơng việc.
− Hạn chế:
+ Mặc dù các cán bộ quản lý đã chú ý đến yếu tố tâm lý nhưng trong quá trình
phân công, hiệp tác lao động và mang lại những lợi ích không nhỏ, nhưng vẫn
chưa đi sâu, đi sát vào tâm lý, tinh thần của từng thành viên trong từng giai
đoạn, từng thời điểm.
+ Khách sạn vẫn chưa sử dụng đến các cơng cụ tâm lý để tìm hiểu, đánh giá tâm
lý của các nhân viên trong công ty.
∗ Tác động của q trình phân cơng và hiệp tác lao động đến tâm lý và quá
trình làm việc của nhân viên
− Cơng tác đào tạo của cơng ty có sự phân công và hiệp tác lao động hợp lý sẽ làm
cho lực lượng lao động cân bằng nên giúp nhân viên có tâm lý thoải mái, vui vẻ khi
làm việc ở công ty.
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
− Do có công tác tuyển dụng tốt nên nhân viên ở công ty đều đã được phân cơng
đúng khả năng mà mình có thể hồn thành tốt cơng việc, q trình làm việc diễn ra
một cách có hiệu quả hơn.
2.2.2. Thực trạng việc xây dựng chế độ làm việc nghỉ ngơi của cơng ty
Cơng ty du lịch khách sạn Kim Liên có chế độ làm việc khác nhau của từng bộ
phận, sau đây là chế độ làm việc nghỉ ngơi của 2 bộ phận chính:
∗ Bộ phận nhà phịng
Nhân viên làm việc theo giờ hành chính: Sáng: từ 7 giờ đến 11 giơ 30 phút và
chiều từ 14 giờ đến 17 giờ 30 phút. Nhân viên trực bố trí làm việc theo ca: Ca sáng từ
6 giờ đến 14 giờ, ca chiều từ 14 giờ đến 22 giờ, ca đêm từ 22 giờ đến 6 giờ sáng hơm
sau.
Cách bố trí thời gian làm việc của bộ phận nhà phòng hiện nay là tương đối phù
hợp với đặc thù công việc. Luôn phải có người để đón, bố trí khách đến, nhận phịng
trả của khách đi; giải quyết các vấn đề phát sinh. Vì vậy, giám đốc ln phải bố trí
người có mặt 24/24 giờ tại mỗi nhà phịng, đó là nhân viên trực phịng. Thơng thường
ca sáng và chiều mỗi ca bố trí 2 người trực phịng, ca đêm là nhân viên nam, trực quay
vòng đến hết lượt.
Hoạt động kinh doanh khách sạn trong ngành du lịch là nhiệm vụ liên tục 24/24
giờ, 365 ngày một năm, không phân biệt ngày nghỉ trong tuần hay ngày nghỉ lễ, tết khi
có khách hàng. Do đó số ngày làm việc của các bộ phận trực tiếp phục vụ khách nói
chung và bộ phận nhà phịng nói riêng khơng có ngày nghỉ chủ nhật và ngày nghỉ hàng
tuần cố định mà có thể nghỉ bù vào các ngày khá trong tuần, những ngày khách vắng.
Đối với giám đốc và phó giám đốc, những nhân viên vệ sinh phịng thì áp dụng
chế độ làm việc theo giờ hành chính. Do đối tượng khách chủ yếu là cán bộ công chức
đi họp, tham gia hội nghị thường đi vắng vào giờ hành chính để làm việc cơng tác,
khách du lịch thường đi chơi, tham quan ban ngày và nghỉ ngơi vào buổi tối. Ngoài ra
khách thường trả phịng vào buổi sáng hoặc buổi chiều. Chính vì vậy, giờ làm việc của
các nhân viên vệ sinh phòng thường được bố trí vào khoảng thời gian này để làm việc
khi khách khơng có ở trong phịng. Cơng việc vệ sinh phòng thường tập trung vào buổi
sáng, buổi chiều chủ yếu là trực và vệ sinh những phòng khách mới đi, đảm bảo ln
có phịng sạch để phục vụ. Trong quá trình làm việc người lao động được nghỉ ăn trưa
2,5 giờ. Như vậy, thời gian nghỉ ăn của lao động vệ sinh phòng tương đối dài.
∗ Bộ phận nhà hàng
Thời gian làm việc của bộ phận nhà hàng được bố trí theo ca và khơng có ca
đêm. Ca sáng từ 6 giờ đến 14 giờ, ca chiều từ 14 giờ đến 22 giờ chế độ thời gian này
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
áp dụng cho tất cả các chức danh công việc từ cửa hàng trưởng đến đầu bếp, phục vụ
bàn, vệ sinh ...
Hàng ngày căn cứ theo khối lượng công việc, số khách phục vụ, số bàn, số món
u cầu mà bố trí lao động.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhân viên ở bộ phận nhà hàng thường không đi làm
theo thời gian làm quy định như trên. Thông thường nhân viên bếp thường đến sớm
hơn nhân viên phục vụ bàn khoảng 1h do công việc cần phải bắt đầu thời gian sớm
hơn để chuẩn bị. Các chức danh quản lí thường đi làm muộn hơn. Thời gian bắt đầu và
kết thúc công việc của nhân viên bộ phận nhà hàng thực tế rất khó thống kê bởi sự dễ
dãi trong công tác quản lý và thậm chí bản thân các cửa hàng trưởng và cửa hàng phó
cũng chưa phải là những tấm gương trong việc thực hiện giờ giấc lao động một cách
nghiêm túc. Chính vì vậy người lao động ở đây được “tự do” hơn so với lao động phục
vụ phòng. Thời gian làm việc của bộ phận nhà hàng cũng từ đó lỏng lẻo hơn vì có
những ngày phục vụ khách cả ngày, nhưng có ngày chỉ phục vụ khách một buổi. Thêm
vào đó khối lượng cơng việc của nhà hàng so với bộ phận nhà phịng là có kế hoạch từ
trước đó cũng dễ dàng, chủ động trong việc chuẩn bị, sắp xếp nhân lực hơn vì phục vụ
đám cưới hội nghị đều có đặt trước một khoảng thời gian từ vài ngày đến vài tháng.
Riêng đối với những ngày có khách hội nghị đặt ăn sáng thì nhà hàng bố trí lao động
làm việc sớm hơn, thường từ 4h đến 5h để đảm bảo hồn thành tốt cơng việc được
giao. Tóm lại, việc quy định thời gian làm việc của bộ phận nhà hàng thực sự chưa gắn
với công việc thực tế của người lao động. Nên việc không tuân thủ vừa xuất phát từ
chủ quan: ý thức thực hiện nội quy lao động chưa cao, và cũng do khách quan: u cầu
cơng việc có thể về sớm về muộn hơn so với quy định.
Tuy nhiên, thời gian làm việc quy định chưa thực sự hợp lý. Quản đốc, phó quản
đốc và những lao động làm vệ sinh phòng bắt đầu làm việc từ 7 giờ là sớm, lúc này
khách vẫn đang ngủ, chưa ra khỏi phịng thì nhân viên cũng không thể làm việc được
ngay. Buổi chiều lại bắt đầu làm việc từ 14 giờ, tức là có 2,5 giờ để nghỉ trưa là quá
nhiều. Người lao động có điều kiện để nghỉ ngơi hồi phục sức khỏe nhiều hơn nhưng
thay vào đó họ lại mất nhiều thời gian hơn để bắt nhịp lại với công việc. Những lao
động nhà gần thì có thể tranh thủ về, cịn nhân viên có nhà ở xa hơn khơng có điều
kiện về thì lại mệt hơn vì khơng có điều kiện nghỉ ngơi. Cơng việc làm vệ sinh phịng
bao giờ cũng bắt đầu bằng việc chuẩn bị các tài sản như nhận ga gối, tiêu chuẩn đặt
phịng…. Thơng thường bước này hết nhiều thời gian vì giờ làm việc của nhân viên tài
sản cũng bắt đầu từ 7 giờ, những nhân viên phục vụ phòng phải đợi lấy tài sản phát,
nên đến khoảng 7 giờ 45 phút người lao động mới thực sự cơng việc dọn phịng. Do đó
vào những ngày khách đi hết vào buổi sáng chị em phải làm đến 12 giờ mới xong thậm
chí có nhà phải làm đến 13 giờ hoặc 14 giờ. Làm quá giờ người lao động được chấm
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
thêm cơng khi mà thực tế khơng địi hỏi như vậy. Với cách phân cơng lao động theo
chức năng như đã phân tích ở trên của bộ phận nhà hàng thì thời gian làm việc hiện
nay chưa sát với thực tế. Tất cả các lao động trong ca đi cùng một giờ mà nhiệm vụ
của mỗi người lại có độ chênh lệch về thời điểm. Ví dụ như: nhân viên nấu bếp bận
hơn vào buổi sáng đến gần trưa, nhân viên phục vụ bàn lại bận vào lúc muộn hơn khi
trong lúc chuẩn bị, phục vụ khách ăn, thu dọn và vệ sinh đồ dùng phục vụ. Với thời
gian này, người lao động phục vụ bàn đến sớm trong khi không cần thiết, khách ăn
xong là lúc để thu dọn thì đã gần hết giờ làm việc. Nếu họ bắt tay vào rửa bát, đĩa…
thì có thể sẽ phải làm q giờ hoặc họ khơng làm ngày thì có thể sẽ thực hiện vào ca
khác, ngày khác. Như vậy dẫn đến lãng phí cơng lao động.
Vì vậy cần phải sắp xếp thời gian và phân cơng lao động hợp lí hơn để đạt hiệu
quả và chất lượng làm việc tốt nhất.
Nhóm 1 – Tâm lý học lao động
PHẦN 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
TỔ CHỨC QUÁ TRÌNH LAO ĐỘNG
3.1. Mục tiêu
Để phát huy tốt các thành tích đạt được trong năm 2018, căn cứ vào khả năng và
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của đơn vị, căn cứ vào phương hướng, mục tiêu của
Nghị quyết Đảng bộ Công ty Khách sạn Kim Liên – Năm 2019, công ty phấn đấu thực
hiện các chỉ tiêu sau:
− Tăng Tổng doanh thu.
− Tăng công suất buồng: 90%.
− Lãi và nộp ngân sách Nhà nước tăng 5% so với thực hiện năm 2018.
3.2. Phương hướng
Tập trung mọi biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm về trang thiết bị và đội
ngũ cán bộ công nhân viên phục vụ bằng các biện pháp cụ thể, đầu tư cơ bản hợp lý,
tham quan học tập trong và ngoài nước, đào tạo tại chỗ đội ngũ cán bộ cơng nhân viên,
đảm
bảo trình độ chuyên môn giỏi và phong cách phục vụ mới.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, xây dựng hệ thống báo cáo nội bộ với các đơn
vị giao khoán và các định mức trang thiết bị vật tư phù hợp với thực tế sản xuất kinh
doanh của đơn vị, tạo điều kiện cho công tác đầu tư đổi mới sản phẩm, cơ chế quản lý
tài chính đảm bảo đúng nguyên tắc, quy định của Nhà nước, tăng thu, giảm chi, bảo
toàn và phát triển vốn.
Đẩy mạnh các phong trào thi đua xây dựng đơn vị, tổ chức giáo dục chính trị tư
tưởng cho cán bộ công nhân viên, phát huy sức mạnh của các tổ chức đoàn thể, động
viên cán bộ công nhân viên học tập chuyên môn, ngoại ngữ, lao động giỏi để hoàn
thành nhiệm vụ được giao.
Lãnh đạo cơng tác an ninh, chính trị, trật tự an tồn, xây dựng lực lượng tự vệ
làm nòng cốt của lực lượng an ninh, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên ngành để
ngăn ngừa các hoạt động tiêu cực. Kiên quyết chống và xử lý nghiêm trọng biểu hiện
tiêu cực, tự do, vô kỷ luật và thiếu xây dựng nội bộ.
3.3. Giải pháp cụ thể
Thực hiện các hoạt động nghiên cứu, tìm hiểu sâu, đi sát vào tâm lý, tinh thần
của từng thành viên trong từng giai đoạn, từng thời điểm để hoạt động phân công và
hiệp tác lao động đạt kết quả tốt hơn.