Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Pháp luật Việt Nam hiện hành về nhượng quyền thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.24 KB, 19 trang )

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

BÀI TẬP LỚN HỌC KÌ
MƠN LUẬT THƯƠNG MẠI
Đề số 10: Pháp luật Việt Nam hiện hành về nhượng quyền
thương mại

Tên sinh viên: Đoàn Thái Phong
Lớp: K2B
Mã số sinh viên:
1453801010189


Hà Nội - 2016

LỜI MỞ ĐẦU
Nhượng quyền thương mại - Franchising - đã ra đời và phát triển trong
hơn sáu thập kỷ qua tại nhiều nước Âu - Mỹ. Còn tại Việt Nam, dù đã bước đầu
hình thành cách đây gần chục năm, nhưng hiện nay nhượng quyền thương mại
vẫn là phương thức kinh doanh khá mới mẻ. Với việc chúng ta gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO thì vấn đề này càng phải được quan tâm nhiều hơn, nó
địi hỏi Nhà nước và các cơ quan quản lý phải đưa ra được những quy định,
chính sách để cho loại hình này phát triển phù hợp với thơng lệ của quốc tế và
phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam. Để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi đó
pháp luật Việt Nam đã có một số quy định về vấn đề nhượng quyền thương mại,
qua bài niên luận này em xin đi sâu vào việc tìm hiểu những quy định của pháp
luật Việt Nam về vấn đề nhượng quyền thương mại (NQTM).

NỘI DUNG
I – KHÁI QUÁT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI


1. Khái niệm nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại, hiểu theo nghĩa chung nhất, là việc một bên (bên
nhượng quyền) trao cho bên kia (bên nhận quyền) một số quyền nhất định để đổi
lấy một khoản tiền. Tuy nhiên, việc trao quyền này khơng có nghĩa là bên
nhượng quyền trở thành chủ sở hữu của những quyền này, mà chỉ được phép
khai thác những quyền này trong một khoảng thời gian xác định. Quyền này có
thể bao gồm tên thương mại, nhãn hiệu hàng hóa dịch vụ, phương thức kinh
doanh… Bên nhận quyền được khai thác những quyền này dưới sự hướng dẫn
và kiểm soát của bên nhượng quyền. Để đổi lại, bên nhận quyền thường phải trả
cho bên nhượng quyền tiền phí tham gia hệ thống nhượng quyền ban đầu và tiếp


tục trả tiền phí nhượng quyền trong suốt q trình khai thác quyền thương mại
theo hợp đồng.
Dưới góc độ pháp lý, Theo Điều 284 Luật Thương mại 2005 định nghĩa về
nhượng quyền thương mại như sau: “Nhượng quyền thương mại là hoạt động
thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự
mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau
đây:
1.Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ
chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu
hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu
tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
2.Bên nhượng quyền có quyền kiểm sốt và trợ giúp cho bên nhận quyền
trong việc điều hành công việc kinh doanh.”
2. Đặc điểm của nhượng quyền thương mại
Các hoạt động NQTM diễn ra rất phong phú và đa dạng trong thực tiễn,
nhưng nhìn chung, chúng đều thể hiện một số đặc điểm cơ bản sau:
- Về chủ thể, Tham gia vào quan hệ NQTM gồm có bên nhượng quyền và
bên nhận quyền. Các chủ thể này có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, là công dân

trong nước hoặc người nước ngoài. Trên thực tế, đa số các bên tham gia quan hệ
NQTM là thương nhân. Tuy nhiên, cũng có khi họ khơng phải là thương nhân,
đặc biệt là khi NQTM diễn ra trong các lĩnh vực như nơng nghiệp, thủ cơng và
hành nghề tự do (ví dụ: hoạt động của nhà tư vấn về hôn nhân được thực hiện
bởi một bên nhận quyền). Bên nhượng quyền và bên nhậnquyền có tư cách pháp
lý độc lập với nhau và tự chịu trách nhiệm đối với những rủi ro trong hoạt động
kinh doanh của mình.
- Về đối tượng, đối tượng của NQTM là “quyền thương mại”. NQTM là
một hoạt động thương mại có sự chuyển giao quyền thương mại gắn liền với
quyền sở hữu trí tuệ đó là “cách thức tổ chức kinh doanh, nhãn hiệu hàng hóa,
tên thương mại, bí mật kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh
doanh, quảng cáo…” của bên nhượng quyền cho bên nhận quyền.


- Bên nhượng quyền thương mại và bên nhận quyền thương mại ln
tồn tại sự kiểm sốt và trợ giúp. Đây được coi là một đặc điểm nổi bật của
nhượng quyền thương mại so với các hoạt động thương mại khác. Nhượng
quyền thương mại thực chất là việc mở rộng mơ hình kinh doanh đã thành cơng
trên thị trường bằng cách chia sẻ quyền kinh doanh thương mại cho các thương
nhân nhận quyền. Tuy nhiên việc mở rộng mơ hình kinh doanh, bên nhượng
quyền thương mại luôn phải đối mặt với nguy cơ giảm uy tín thương mại nếu
bên nhận quyền khơng thực hiện đúng cam kết. Điều này địi hỏi bên nhượng
quyền phải kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền, khiến bên nhận quyền
phải tuân thủ chặt chẽ mơ hình kinh doanh của bên nhượng quyền, qua đó bảo
vệ được thương hiệu của mình.
- Hoạt động của hệ thống nhượng quyền thương mại thường dẫn tới hệ
quả làm hạn chế cạnh tranh. Hợp đồng NQTM có thể có quy định về vấn đề
phân chia thị trường, bao gồm phân chia khu vực kinh doanh và phân chia khách
hàng. Quy định phân chia lãnh thổ cho phép bên nhận quyền được tiến hành
kinh doanh tại một khu vực địa lý nhất định và có nghĩa vụ chỉ được kinh doanh

trong phạm vi khu vực đó. Như vậy, bên nhận quyền không được cạnh tranh với
bên nhượng quyền và các bên nhận quyền khác trong hệ thống NQTM, không
được dịch chuyển hàng hoá được cung cấp từ địa điểm bán hàng này sang địa
điểm bán hàng khác. Quy định về phân chia khách hàng thường có các nội dung
như: cấm bên nhận quyền quảng cáo ngoài phạm vi kinh doanh của mình; cấm
bên nhận quyền bán lại hàng mang nhãn hiệu của bên nhượng quyền cho các
nhà bán lẻ không phải là thành viên của hệ thống NQTM; cấm bên nhận quyền
bán lại hàng không mang nhãn hiệu của bên nhượng quyền...
Ngồi ra, hợp đồng NQTM cịn thường có các quy định về việc ấn định giá
bán cho các thành viên của hệ thống NQTM, các quy định ràng buộc bên nhận
quyền đều nhằm duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống NQTM. Những
quy định này của hợp đồng NQTM thường dẫn đến hạn chế cạnh tranh và có thể
phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh.


- Cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ nhượng quyền thương mại
chính là hợp đồng nhượng quyền thương mại, chính hợp đồng thương mại
thể hiện việc thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoậc chấm dứt
quyền và nghĩa vụ trong quan hệ nhượng quyền thương mại. Theo Điều 285
Luật Thương mại 2005 thì “hợp đồng thương mại phải được lập thành văn bản
hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.”
3. Ý nghĩa của hoạt động nhượng quyền thương mại
Hoạt động NQTM ngày càng phát triển mạnh mẽ trên phạm vi tồn thế giới
là một thực tế cho thấy đó là mơ hình kinh doanh rất thành cơng và được các
thương nhân lựa chọn. Đây là phương thức kinh doanh không chỉ mang lại lợi
ích cho các bên tham gia mà cịn có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế quốc gia
cũng như thế giới.
3.1 Ý nghĩa đối với bên nhượng quyền
Có thể dễ dàng nhận ra lợi ích đầu tiên mà bên nhượng quyền nhận được khi
NQTM là việc nhân rộng mơ hình kinh doanh của mình mà khơng cần bỏ ra

nhiều chi phí. Đây là điều mà bất kì thương nhân nào cũng mong muốn bởi lẽ
khi mơ hình kinh doanh được nhân rộng đồng nghĩa với thương hiệu sẽ trở nên
phổ biến, có chỗ đứng trên thị trường và tăng khả năng cạnh tranh với các
thương hiệu khác. Đối với một thương nhân không kinh doanh theo mơ hình
NQTM thì điều này rất khó khăn bởi chủ thương hiệu sẽ phải tự bỏ ra các khoản
chi phí để xây dựng hệ thống cửa hàng của mình, phải tìm hiểu phong tục tập
quán địa phương nơi mình định đặt cửa hàng để có hướng kinh doanh phù hợp,
phải tổ chức quản lí một cách đồng bộ hệ thống kinh doanh nhượng quyền.
Khi thực hiện NQTM bên nhượng quyền sẽ nhận được các khoản phí từ bên
nhận quyền, các khoản phí này bao gồm phí nhượng quyền ban đầu, phí hàng
tháng và các loại phí khác, đây là một nguồn thu rất lớn đối với bên nhượng
quyền, với những thương hiệu càng nổi tiếng thì các khoản phí này càng cao.
Như vậy, ngoài doanh thu từ hoạt động kinh doanh của mình bên nhượng quyền
cịn được hưởng một khoản tiền lớn mà chỉ khi kinh doanh NQTM mới có.


Lợi ích tiếp theo mà bên nhượng quyền nhận được chính là việc giảm thiểu
các chi phí như phí quảng cáo, tiếp thị, các khoản chi mua nguyên liệu đặc thù.
Đối với các nguyên liệu đặc thù cho việc kinh doanh bên nhượng quyền phải
mua với số lượng lớn để phân phối cho hệ thống các cửa hàng nhượng quyền
của mình, với số lượng lớn như vậy bên nhượng quyền sẽ mua được nguyên liệu
với giá thấp hơn so với giá bán lẻ thơng thường của hàng hóa đó. Các chi phí về
quảng cáo, tiếp thị cũng được tiết giảm nhờ ưu thế chia nhỏ ra cho nhiều đơn vị
cùng mang một nhãn hiệu chia sẻ với nhau thông qua phí hàng tháng của bên
nhận quyền.
3.2. Đối với bên nhận quyền
Theo con số thống kê ở Mỹ, trung bình chỉ có khoảng 23% doanh nghiệp nhỏ
kinh doanh độc lập có thể tồn tại sau 5 năm kinh doanh, trong khi đó con số này
là 92% đối với các danh nghiệp kinh doanh theo mơ hình NQTM . Điều đó cho
thấy tỷ lệ thành cơng của mơ hình kinh doanh này cao hơn nhiều so với các mơ

hình khác. Đây cũng là điều dễ hiểu bởi bên nhận quyền thường lựa chọn những
thương hiệu lớn và có sức cạnh tranh trên thị trường. Bên nhận quyền chỉ cần bỏ
ra một khoản tiền và đáp ứng các điều kiện của bên nhượng quyền là có thể kinh
doanh mà khơng phải tự xây dựng và phát triển thương hiệu. Đây có thể được
coi là khoản đầu tư an tồn và khơn ngoan của bên nhận quyền vì khi kinh
doanh dưới thương hiệu lớn thì vấn đề hồi vốn và thu lợi nhuận chỉ trong thời
gian ngắn.
Khi kinh doanh NQTM bên nhận quyền sẽ giảm thiểu được nhiều rủi ro
trong kinh doanh. Bên nhận quyền sẽ nhận được sự giúp đỡ từ bên nhượng
quyền không chỉ trước mà cả sau khi cửa hàng nhượng quyền được khai trương
về các vấn đề như quảng cáo, tiếp thị, đào tạo nhân viên. Mặt khác các thương
hiệu được chuyển nhượng thường đã được bảo hộ sẵn, như vậy bên nhận quyền
khơng phải mất phí bảo hộ và cũng không lo bị khiếu kiện liên quan đến vấn đề
bảo hộ. Khơng chỉ vậy, bên nhận quyền cịn được học hỏi kinh nghiệm quản lý,
được tiếp nhận các thiết bị khoa học kỹ thuật tiên tiến từ bên nhượng quyền. So


với các thương nhân kinh doanh độc lập thì đây là những nguồn lợi rất lớn của
thương nhân kinh doanh NQTM.
II - NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG
MẠI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
1. Những quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại
Để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động nhượng quyền thương mại, nhà nước ta
đã ban hành nhiều văn bản điều chỉnh quan hệ nhượng quyền thương mại. Năm
2006 đánh dấu mốc chính thức việc franchise được luật hố và cơng nhận. Luật
Thương mại 2005 (có hiệu lực từ 01/01/2006) đã dành nguyên Mục 8 Chương
VI để quy định về hoạt động nhượng quyền thương mại. Cùng với đó, ngày
31/3/2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định chi
tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại, đến ngày
25/5/2006 thì Bộ Thương mại ban hành Thơng tư 09/2006/TT-BTM hướng dẫn

đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại. Và gần đây nhất, là các văn bản
Nghị định số 120/2011/NĐ-CP ngày 16 /12/2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung
thủ tục hành chính tại nghị định 35 và Thơng tư 04/2016/TT-BCT ngày
06/6/2016 sửa đổi, bổ sung về thủ tục hành chính trong lĩnh vực nhượng quyền
thương mại ở thông tư 09/2006/TT-BTM. Đây chính là những căn cứ pháp lý cơ
bản nhất, tương đối đầy đủ để điều chỉnh và tạo điều kiện cho franchise phát
triển tại Việt Nam.
1.1. Quy định về hợp đồng nhượng quyền thương mại
a) Về chủ thể hợp đồng nhượng quyền thương mại
Theo các Điều 5, 6 và 7 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP, chủ thể tham gia hợp
đồng NQTM bao gồm bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Bên nhượng
quyền là thương nhân cấp quyền thương mại, bao gồm cả bên nhượng quyền thứ
nhất và bên nhượng lại quyền (bên nhượng quyền thứ cấp). Bên nhận quyền là
thương nhân nhận quyền thương mại để khai thác, kinh doanh, gồm cả bên nhận
quyền sơ cấp và bên nhận quyền thứ cấp. Pháp luật quy định rõ về điều kiện
tham gia hợp đồng nhượng quyền thương mại của các bên, từ đó góp phần hạn


chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các bên. Cụ thể, bên nhượng
quyềnđược phép cấp quyền thương mại khi đáp ứng các điều kiện:
- Hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã được hoạt động ít
nhất 01 năm. Trường hợp thương nhân Việt Nam là bên nhận quyền sơ cấp từ
bên nhượng quyền nước ngoài, thương nhân Việt Nam đó phải kinh doanh theo
phương thức NQTM ít nhất 01 năm ở Việt Nam trước khi tiến hành cấp lại
quyền thương mại.
- Đã đăng ký hoạt động NQTM với cơ quan có thẩm quyền.
- Hàng hố, dịch vụ kinh doanh thuộc đối tượng của quyền thương mại là
hàng hố, dịch vụ khơng thuộc Danh mục hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh.
Trường hợp hàng hoá, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hoá, dịch vụ hạn chế kinh
doanh, Danh mục hàng hố, dịch vụ kinh doanh có điều kiện, doanh nghiệp chỉ

được kinh doanh sau khi được cơ quan quản lý ngành cấp Giấy phép kinh
doanh, giấy tờ có giá trị tương đương hoặc có đủ điều kiện kinh doanh.
Đối với bên nhận quyền, pháp luật cũng yêu cầu phải là thương nhân có đủ
khả năng tiến hành các hoạt động kinh doanh sau khi nhận quyền kinh doanh
của bên nhượng quyền. Cụ thể là bên nhận quyền phải có đăng ký kinh doanh
ngành nghề phù hợp với đối tượng của quyền thương mại.
b) Về hình thức hợp đồng nhượng quyền thương mại
Theo quy định tại Điều 285 Luật Thương mại, hợp đồng NQTM phải được
lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, bao
gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định
của pháp luật. Việc quy định như vậy đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng của hợp
đồng NQTM, tạo căn cứ vững chắc cho các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình theo hợp đồng, và tạo thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp.
c) Về nội dung hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng
Theo quy định tại các Điều 286, 287, 288, 289 Luật Thương mại 2005, các
bên sẽ có những quyền và nghĩa vụ cơ bản sau:
Bên nhượng quyền có ba quyền cơ bản là: Nhận tiền nhượng quyền; Tổ chức
quảng cáo cho hệ thống NQTM; Kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất hoạt động của


bên nhận quyền nhằm bảo đảm sự thống nhất của hệ thống NQTM và sự ổn định
về chất lượng hàng hố, dịch vụ.
Cùng với đó, bên nhượng quyền cũng có những nghĩa vụ nhất định. Đó là:
Cung cấp tài liệu hướng dẫn về hệ thống NQTM cho bên nhận quyền; Đào tạo
ban đầu và cung cấp trợ giúp kỹ thuật thường xuyên cho bên nhận quyền để điều
hành hoạt động theo đúng hệ thống NQTM; Thiết kế và sắp xếp địa điểm bán
hàng, cung ứng dịch vụ bằng chi phí của bên nhận quyền; bảo đảm quyền sở
hữu trí tuệ đối với đối tượng được ghi trong hợp đồng NQTM; Đối xử bình đẳng
với các bên nhận quyền trong hệ thống NQTM.
Bên nhận quyền có quyền: Yêu cầu bên nhượng quyền cung cấp đầy đủ sự

trợ giúp kỹ thuật có liên quan đến hệ thống NQTM; Yêu cầu bên nhượng quyền
đối xử bình đẳng giữa các bên nhận quyền trong hệ thống NQTM.
Bên nhận quyền được sử dụng, khai thác quyền thương mại thuộc sở hữu của
bên nhượng quyền, do đó phải chịu nhiều ràng buộc từ phía bên nhượng quyền
và các nghĩa vụ đặt ra đối với bên nhận quyền cũng nhiều hơn, bao gồm: Trả
tiền nhượng quyền và các khoản thanh toán khác theo hợp đồng NQTM; Đầu tư
đủ cơ sở vật chất, nguồn tài chính và nhân lực để tiếp nhận các quyền mà bên
nhượng quyền chuyển giao; Chấp nhận sự kiểm soát, giám sát và hướng dẫn của
bên nhượng quyền, tuân thủ các yêu cầu về thiết kế, sắp xếp địa điểm bán hàng,
cung ứng dịch vụ của bên nhượng quyền; Giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã
được nhượng quyền, kể cả sau khi hợp đồng NQTM kết thúc hoặc chấm dứt;
Ngừng sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu
tượng kinh doanh và các quyền sở hữu trí tuệ khác (nếu có) hoặc hệ thống của
bên nhượng quyền khi kết thúc hoặc chấm dứt hợp đồng NQTM; Điều hành
hoạt động phù hợp với hệ thống NQTM; Không được nhượng quyền lại trong
trường hợp khơng có sự chấp thuận của bên nhượng quyền.
Một điểm cần chú ý, đó là theo quy định tại Khoản 4 Điều 289 Luật Thương
mại “bên nhận quyền phải giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã được nhượng
quyền sau khi hợp đồng nhượng quyền thương mại kết thúc hoặc chấm dứt”,
quy định này cho thấy sự ràng buộc giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền


vẫn tiếp tục ngay cả sau khi hợp đồng đã chấm dứt. Khi tham gia vào hợp đồng
nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền phải chuyển giao cho bên nhận
quyền cơng nghệ, bí quyết kinh doanh, là điều kiện tiên quyết để làm nên thành
công cho bên nhượng quyền. Khi hợp đồng NQTM kết thúc, công việc kinh
doanh của bên nhượng quyền có thể gặp rủi ro nếu có một bên khơng có lợi ích
liên quan (bên nhận quyền cũ) biết được bí quyết kinh doanh của mình. Do đó,
đây là quy định cần thiết để bảo vệ lợi ích chính đáng cho bên nhượng quyền,
đem lại sự an tồn cho bên nhượng quyền khi tham gia vào hoạt động NQTM.

d) Về Thời hạn hợp đồng nhượng quyền thương mại
Thời hạn của hợp đồng do các bên thỏa thuận,hết thời hạn các bên có thể
thỏa thuận gia hạn hợp đồng. Đồng thời các bên cũng có thể thỏa thuận chấm
dứt hợp đông trước thời hạn hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng. Khoản 2
Điều 13 và Điều 16 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định những điều kiện để
bên nhượng quyền và bên nhận quyền được đơn phương chấm dứt hợp đồng
trước thời hạn. Theo đó, các bên chỉ được phép chấm dứt khi có những lý do
chính đáng, đồng thời cho phép bên nhận quyền được sửa chữa những sai phạm
khi vi phạm nghĩa vụ không cơ bản trong hợp đồng. Các quy định này đã tương
đối bao quát các trường hợp có thể xảy ra, nhằm đảm bảo quyền và lợi chính
đáng cho các bên khi tham gia hợp đồng NQTM.
1.2. Cung cấp thông tin về hệ thống nhượng quyền thương mại
Tại Điều 8 Nghị định số 35 quy định tri tiết về cơ chế cung cấp thông tin,
theo đó ít nhất 15 ngày làm việc trước khi ký kết hợp đồng, bên nhượng quyền
có trách nhiệm cung cấp bản sao hợp đồng NQTM mẫu và bản giới thiệu về
NQTM của mình cho bên dự kiến nhận quyền, nếu các bên khơng có thoả thuận
khác. Đây là thời gian được quy định khá phù hợp để bên dự kiến nhận quyền có
thể xem xét và cân nhắc về việc có tham gia vào hệ thống nhượng quyền hay
khơng. Nghĩa vụ cung cấp thơng tin của bên nhượng quyền cịn được đặt ra sau
khi hợp đồng đã được ký kết, trong suốt quá trình kinh doanh, nếu như bên
nhượng quyền có những thay đổi quan trọng trong hệ thống NQTM mà có thể
làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh theo phương thức NQTM của bên


nhận quyền thì Bên nhượng quyền có trách nhiệm thơng báo ngay cho tất cả các
Bên nhận quyền.
Bên cạnh trách nhiệm cung cấp thơng tin của bên nhượng quyền thì theo
Điều 9 Nghị định 35 Bên dự kiến nhận quyền cũng phải cung cấp cho Bên
nhượng quyền các thông tin mà Bên nhượng quyền yêu cầu một cách hợp lý để
quyết định việc trao quyền thương mại cho Bên dự kiến nhận quyền.

Nội dung bản giới thiệu về NQTM là một yếu tố rất quan trọng đối với bên
dự kiến nhận quyền trong việc đi đến quyết định có tham gia vào hệ thống
NQTM của bên nhượng quyền hay không. Chính vì thế mà nội dung này được
pháp luật quan tâm điều chỉnh và được quy định khá chi tiết trong Thông tư 09.
Bản giới thiệu về NQTM phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và theo mẫu tại Phụ lục III ban hành kèm theo Thông tư 09, bao gồm các
nội dung chi tiết về:
- Thông tin chung về bên nhượng quyền, nhãn hiệu hàng hố, dịch vụ và
quyền sở hữu trí tuệ;
- Thơng tin cụ thể về bên nhượng quyền có liên quan đến hoạt động
NQTM; các loại phí và nghĩa vụ tài chính khác của bên nhận quyền; đầu tư ban
đầu của bên nhận quyền, nghĩa vụ của bên nhượng quyền và bên nhận quyền;
mơ tả thị trường của hàng hố, dịch vụ được kinh doanh theo phương thức
NQTM; hợp đồng NQTM mẫu; báo cáo tài chính của bên nhượng quyền; phần
thưởng, sự công nhận sẽ nhận được hoặc tổ chức cần phải tham gia.
Tại Khoản 3 Điều 8 Nghị định số 35 cịn bổ sung thêm về nghĩa vụ cung cấp
thơng tin của bên nhượng quyền thứ cấp cho bên dự kiến nhận quyền thứ cấp
trong trường hợp quyền thương mại đã cấp là quyền thương mại chung. Theo
đó, ngồi những thơng tin trên, bên nhượng quyền thứ cấp còn phải cung cấp
thêm thông tin về bên nhượng quyền đã cấp quyền thương mại cho mình; nội
dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại chung; và cách xử lý các hợp
đồng nhượng quyền thương mại thứ cấp trong trường hợp chấm dứt hợp đồng
nhượng quyền thương mại chung.


Các quy định của pháp luật Việt Nam về thông tin NQTM có thể được coi là
một cơng cụ để tạo ra một mơi trường pháp luật an tồn cho tất cả các bên tham
gia hợp đồng NQTM, và cho mối quan hệ giữa họ với các cơ quan có thẩm
quyền.
1.3. Đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại

Đăng ký là một điều kiện bắt buộc đối với thương nhân để tiến hành hoạt
động NQTM. Thông qua việc đăng ký, Nhà nước có cơ sở để quản lý, kiểm tra,
giám sát hoạt động NQTM, đánh giá thương nhân có đủ điều kiện kinh doanh
NQTM hay không, quyền thương mại dự định chuyển giao có hợp pháp hay
khơng. Với mục đích đơn giản hố các thủ tục hành chính nhưng vẫn đảm bảo
sự quản lý của Nhà nước, Nghị định số 35 đưa ra cơ chế đăng ký hoạt động
nhượng quyền thương mại của thương nhân vào Sổ đăng ký hoạt động nhượng
quyền thương mại.“Cơ quan có thẩm quyền đăng ký hoạt động nhượng quyền
thương mại có trách nhiệm đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại của
thương nhân vào Sổ đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại và thông báo
bằng văn bản cho thương nhân về việc đăng ký đó” (khoản 2 Điều 17). Bên dự
kiến nhượng quyền, trước khi tiến hành hoạt động nhượng quyền, chỉ cần đăng
ký với cơ quan có thẩm quyền theo một trình tự thủ tục đơn giản, minh bạch.
Theo Nghị định, Bộ Thương mại là cơ quan đăng ký đối với các hoạt động
nhượng quyền từ nước ngoài vào Việt Nam, bao gồm cả hoạt động nhượng
quyền từ Khu chế xuất, Khu phi thuế quan hoặc khu vực hải quan riêng theo quy
định của pháp luật Việt Nam vào lãnh thổ Việt Nam. (Điều 18)
Quy định về thủ tục đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại được quy
định trong Nghị định số 35 và được cụ thể hóa trong Thơng tư 09. Theo đó
thương nhân dự kiến nhượng quyền thương mại phải lập hố sơ đề nghị nhượng
quyền thương mại bao gồm:
a) Đơn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại theo mẫu
b) Bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại theo mẫu
c) Bản sao có cơng chứng Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy
chứng nhận đầu tư trong trường hợp nhượng quyền thương mại từ Việt Nam ra


nước ngoài; bản sao Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy tờ có giá trị
tương đương của thương nhân nước ngồi được cơ quan có thẩm quyền nơi
thương nhân nước ngoài thành lập xác nhận trong trường hợp nhượng quyền

thương mại từ nước ngoài vào Việt nam; (sửa đổi bổ sung bới Thơng tư
04/2016/TT-BCT)
d) Bản sao có cơng chứng văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tại
Việt Nam hoặc tại nước ngồi trong trường hợp có chuyển giao quyền sử dụng
các đối tượng sở hữu công nghiệp đã được cấp văn bằng bảo hộ; (sửa đổi bổ
sung bới Thông tư 04/2016/TT-BCT)
đ) Giấy tờ chứng minh sự chấp thuận về việc cho phép nhượng quyền lại của
bên nhượng quyền ban đầu trong trường hợp thương nhân đăng ký hoạt động
nhượng quyền là bên nhượng quyền thứ cấp;
Nếu các giấy tờ nói trên được thể hiện bằng tiếng nước ngồi thì phải được
dịch ra tiếng Việt và được công chứng bởi cơ quan công chứng trong nước hoặc
phải được cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài chứng nhận
và thực hiện việc hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Sau khi lập xong hồ sơ đề nghị đăng ký nhượng quyền thương mại, thương nhân
dự kiến nhượng quyền thương mại phải gửi hồ sơ đố đến cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ khi nhận đầy đủ hồ sơ hợp
lệ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền nói trên thực hiện đăng ký hoạt động
nhượng quyền thương mại vào Sổ đăng ký hoạt động nhượng quyền thương
mạivà thông báo bằng văn bản cho thương nhân về việc đăng ký đó.
Trong trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ hoặc chưa hợp lệ, trong thời hạn 2 ngày
làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải có
văn bản thơng báo để bên dự kiến nhượng quyền thương mại bổ sung hoàn
chỉnh hồ sơ. Sau khi hết thời hạn nói trên mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền
từ chối việc đăng ký thì phải thông báo bằng văn bản cho bên dự kiến nhượng
quyền và nêu rõ lý do.
Nghị định số 35 và Thông tư số 09 còn quy định cụ thể thủ tục đăng ký lại
khi thương nhân chuyển địa chỉ trụ sở chính sang tỉnh khác, thủ tục thay đổi


thông tin đăng ký trong hoạt động NQTM, thủ tục xố đăng ký hoạt động

NQTM. Nhìn chung, những quy định của pháp luật về thủ tục đăng ký hoạt
động NQTM là tương đối đơn giản và minh bạch theo hướng đơn giản hố thủ
tục hành chính, tạo thuận lợi cho các thương nhân, nhưng vẫn đảm bảo sự quản
lý của Nhà nước đối với hoạt động này.
1.4. Xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động nhượng quyền thương mại
Điều 24 đến Điều 26 của Nghị định 35 đã đưa ra vấn đề vi phạm pháp luật
hành chính trong NQTM và thẩm quyền xử lý trong đó liệt kê 9 hành vi vi phạm
là: kinh doanh NQTM khi chưa đủ điều kiện quy định; NQTM đối với những
hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh; vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin trong
hoạt động NQTM; thông tin trong bản giới thiệu về NQTM có nội dung khơng
trung thực; vi phạm quy định về đăng ký hoạt động NQTM; vi phạm quy định
về thông báo trong hoạt động NQTM; không nộp thuế theo quy định của pháp
luật mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; khơng chấp hành các yêu
cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi tiến hành kiểm tra, thanh tra; vi
phạm các quy định khác của Nghị định số 35/2006/NĐ-CP.
Tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm, có thể áp dụng biện pháp xử phạt vi
phạm hành chính theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính hoặc
phải bồi thường thiệt hại nếu hành vi vi phạm gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân
khác. Việc quy định các chế tài này nhằm đảm bảo một môi trường lành mạnh
cho hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam phát triển.
2. Một số đánh giá và kiến nghị về các quy định pháp luật
Với sự ra đời của Luật Thương mại 2005, Nghị định số 35/2006/NĐ-CP và
Thông tư số 09/2006/TT-BTM… nhìn chung hệ thống văn bản pháp luật quản
lý, hướng dẫn hoạt động nhượng quyền thương mại đã được hoàn chỉnh. Tuy
nhiên, khi tổ chức thực hiện, một số vướng mắc đã và sẽ phát sinh do một số nội
dung trong các văn bản pháp luật này chưa thực sự phù hợp với tình hình phát
triển hoạt động NQTM hiện nay tại Việt Nam, cũng như việc kết nối giữa các
đạo luật liên quan vẫn chưa thể liên thông do gặp phải các trở ngại mang tính kỹ
thuật lập pháp.



Hoàn thiện pháp luật về NQTM ở nước ta là một q trình địi hỏi phải giải
quyết nhiều vấn đề, trên những phương diện khác nhau. Sau đây là một số kiến
nghị:
2.1. Quy định pháp luật cụ thể hơn, chi tiết hơn để điều chỉnh hoạt động
nhượng quyền thương mại
Quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng NQTM vẫn chỉ
mang tính chất khung, chưa cụ thể, chưa lường trước và giải quyết được mối
quan hệ giữa NQTM và cạnh tranh. NQTM là một hoạt động có tính chất rất
phức tạp và dễ phát sinh tranh chấp. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đây là
một hoạt động còn khá mới mẻ, các doanh nghiệp còn thiếu nhiều kinh nghiệm,
nên cách hiểu về việc thực hiện như thế nào cho đúng nghĩa vụ của các bên rất
đễ dân đến bất đồng và làm sinh tranh chấp. Thực tế cho thấy ở những nước mà
hoạt động NQTM phát triển thì đi kèm theo đó là hệ thống pháp luật quy định
đầy đủ, chi tiết về hoạt động này. Do đó, các quy định của pháp luật về NQTM
của Việt Nam không nên chỉ dừng lại ở mức độ các quy định khung.
Cần phải tiếp tục bổ sung, quy định cụ thể và làm rõ hơn nữa một số vấn đề
cần thiết, để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các doanh nghiệp khi tiến hành
kinh doanh NQTM một cách thuận lợi và tránh những rủi ro khơng đáng có.
2.2. Giải quyết được mối quan hệ giữa nhượng quyền thương mại và cạnh
tranh bằng một văn bản pháp luật riêng
Hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có các văn bản pháp luật điều
chỉnh hoạt động NQTM, hoạt động chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, chuyển
giao công nghệ và hoạt động cạnh tranh. Tuy nhiên, việc áp dụng phối hợp các
văn bản này không phải lúc nào cũng thực hiện được trong thực tiễn. Về nguyên
tắc, Luật Cạnh tranh có thể hỗ trợ điều chỉnh hoạt động NQTM. Những quy định
về vấn đề hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh khơng lành mạnh mang tính định tính
như: thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung
ứng dịch vụ; thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp; thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, khơng cho doanh nghiệp khác tham gia

thị trường hoặc phát triển kinh doanh... luôn đúng với tất cả mọi ngành kinh tế.


Nhưng khi bắt đầu đi vào lĩnh vực NQTM, do đây là một hoạt động phức tạp với
nhiều đặc thù riêng, việc áp dụng lại trở nên khó khăn.
Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động NQTM và trên cơ sở kinh nghiệm của
pháp luật các nước, có thể thấy, pháp luật Việt Nam nên có những quy định pháp
luật riêng để giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật về
NQTM. Khi điều chỉnh những hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động
NQTM, có thể cân nhắc xem xét một số điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật cần phải xác định được các dạng hành vi làm bóp méo
cạnh tranh khác nhau có thể xảy ra khi tiến hành hoạt động NQTM. Các dạng
hành vi tiêu biểu có thể kể đến là: thỏa thuận nhằm duy trì tính đặc trưng và uy
tín của hệ thống NQTM, thỏa thuận phân chia khu vực kinh doanh, thỏa thuận
phân chia khách hàng… Cần có miêu tả cụ thể, làm rõ đối với từng dạng hành vi
để tạo thuận lợi cho việc áp dụng.
Thứ hai, quy định cụ thể những hành vi bị cấm, những hành vi được phép
thực hiện và giới hạn được phép của những hành vi đó. Khi xem xét việc ngăn
cấm hay cho phép thực hiện các hành vi này, cần có sự cân nhắc giữa tác động
bất lợi của chúng đối với sự cạnh tranh và những lợi ích mà chúng mang lại, đó
là tác dụng cần thiết để thực hiện quyền kiểm soát của bên nhượng quyền đối
với hệ thống NQTM, duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống, thúc đẩy hoạt
động kinh doanh phát triển, từ đó góp phần phát triển kinh tế, tạo ra việc làm
cho người lao động. Ví dụ: có thể cho phép các bên thoả thuận theo đó bên
nhượng quyền có thể buộc bên nhận quyền phải mua những hàng hố, ngun
liệu mà chúng có liên quan mật thiết, đóng vai trị quan trọng tạo nên chất lượng
đặc trưng của hàng hoá dịch vụ là đối tượng của quyền thương mại.
2.3. Cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin
của bên nhượng quyền
Bản Giới thiệu về nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp là tài liệu

quan trọng mà bên nhượng quyền phải cung cấp cho Bên dự kiến nhận quyền
nghiên cứu trước khi ký kết hợp đồng nhượng quyền. Do đó, Bản giới thiệu
nhượng quyền thương mại phải thể hiện đầy đủ, trung thực, chính xác mọi thơng


tin về Bên nhượng quyền, hệ thống nhượng quyền và các vấn đề cơ bản liên
quan đến việc ký kết hợp đồng nhượng quyền. Ở một số quốc gia như Hoa Kỳ,
bản giới thiệu về NQTM bắt buộc theo luật định, tài liệu này luôn đảm bảo 02
chức năng cơ bản: cung cấp chính xác thơng tin liên quan đến nội dung, quảng
bá cho bên nhượng quyền.
Tại Việt Nam, Bộ Thương mại cũng ban hành mẫu Bản Giới thiệu nhượng
quyền thương mại tại phụ lục III kèm Thông tư 09/2006, có nội dung khá chi tiết
gồm 02 phần và 13 mục. Tuy nhiên, Bản Giới thiệu mẫu mới chỉ đưa ra những
“tiêu đề” của những thông tin mà bên nhượng quyền cần phải cung cấp. Đối với
mỗi loại thông tin cần phải có những nội dung gì thì lại chưa được làm rõ. Việc
cần phải cung cấp những nội dung gì, mức độ cụ thể và chi tiết đến đâu rất quan
trọng. Nếu thông tin cung cấp chỉ ở mức độ sơ lược, sẽ không đủ để bên dự kiến
nhận quyền có thể đưa ra được những đánh giá cần thiết để quyết định tham gia
vào hợp đồng, gây ra khó khăn cho các bên khi thực hiện.
Bản Giới thiệu mẫu tại thơng tư 09 được soạn thảo vẫn cịn khá cứng nhắc,
các thơng tin u cầu cung cấp có vẻ như chủ yếu để phục vụ cho hoạt động
thống kê, quản lý nhà nước, mà khơng tính đến yếu tố thể hiện sự quảng bá của
Bên dự kiến nhượng quyền. Do đó, Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể những nội
dung cần cung cấp trong Bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại. Việc miêu
tả cụ thể các thông tin cần cung cấp là cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho
việc áp dụng. Các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên nhượng
quyền phải đủ cụ thể, chi tiết để bên dự kiến nhận quyền có thể đánh giá hệ
thống nhượng quyền. Mặt khác, các quy định này cũng phải đảm bảo không can
thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của bên nhượng quyền, đảm bảo quyền
tự do kinh doanh của bên nhượng quyền. Bên cạnh đó, khi quy định nghĩa vụ

cung cấp thông tin về hệ thống NQTM, cần quan tâm hơn đến yếu tố quảng bá
cho bên nhượng quyền đồng thời phải cân đối giữa mục tiêu thu hút đầu tư nước
ngoài và mục tiêu bảo vệ bên nhận quyền - thường là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ của Việt Nam.


2.4. Bổ sung thêm một số trường hợp chấm dứt hợp đồng nhượng quyền
thương mại trước thời hạn và quy định rõ hơn sự ràng buộc giữa các bên
sau khi hợp đồng chấm dứt
Cần tiếp tục hoàn chỉnh các quy định về chấm dứt hợp đồng NQTM trước
thời hạn, đảm bảo bao quát được tất cả những trường hợp có thể xảy ra. Ví dụ,
trường hợp bên nhượng quyền là cá nhân chết mà khơng có người thừa kế, bên
nhượng quyền là tổ chức bị phá sản, giải thể theo quy định của pháp luật… Đây
là những trường hợp có thể xảy ra mà pháp luật chưa đề cập đến. Đồng thời với
việc bổ sung này, pháp luật cũng cần phải giải quyết hậu quả pháp lý sau khi
hợp đồng chấm dứt sao cho có lợi nhất đối với cả các bên và nền kinh tế.
2.5. Về xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động nhượng quyền thương mại
cần quy định cụ thể hơn, để có thể áp dụng được trong thực tiễn
Các quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động nhượng quyền
thương mại hiện nay chỉ mang tính nguyên tắc, chưa đủ cụ thể để áp dụng trong
thực tiễn. Về nguyên tắc, trong trường hợp có vi phạm pháp luật, thì tuỳ theo
tính chất và mức độ vi phạm, chủ thể vi phạm có thể bị xử phạt vi phạm hành
chính theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính; phải bồi thường
thiệt hại trong trường hợp hành vi vi phạm gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân
khác; hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi vi phạm cấu thành tội
phạm. Tuy nhiên, trong thực tiễn, nếu chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật thì
khó có thể xử lý bởi tính chất khung, ngun tắc, của các quy định về khía cạnh
này trong hoạt động NQTM.
Do đó, Cần quy định rõ các chế tài trong các văn bản pháp luật. Nếu có riêng
một văn bản pháp luật về NQTM, ví dụ Luật về NQTM, thì phải quy định rõ các

chế tài dân sự, hành chính, hình sự. Cách thiết kế này tương tự như kỹ thuật lập
pháp trong việc xây dựng Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn thi
hành.

KẾT LUẬN
Hoạt động nhượng quyền thương mại trong tương lai sẽ đóng vai trò ngày
càng quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam và là phương thức để các doanh


nghiệp có thương hiệu phát triển mạng lưới kinh doanh một cách nhanh chóng
và có hiệu quả. Tuy nhiên, để cho hoạt động này phát triển nhanh chóng và hiệu
quả thì phải có một hành lang pháp lý vững chắc và ổn định cho nó. Các quy
định pháp luật của Việt Nam đã bước đầu làm được điều đó nhưng trong thời
gian tới các Pháp luật về nhượng quyền thương mại quy định này cần phải được
sửa đổi bổ sung sao cho phù hợp hơn với thực tiễn. Để tạo điều kiện thuận lợi
đẩy nhanh quá trình ấy, nhà nước cần phải xây dựng nền kinh tế thị trường vững
mạnh cơ chế pháp lý chặt chẽ nhưng vẫn tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát
triển hoạt động nhượng quyền thương mại trong tương lai.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình:
- Giáo trình Luật Thương mại Trường Đại học Luật Hà Nội,

Luật và văn bản dưới luật:
- Luật Thương Mại năm 2005;
- Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009);
- Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/03/2006 quy định chi tiết luật
thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại;
- Thông tư số 09/2006/TT- BTM ngày 25/05/2006 hướng dẫn đăng kí hoạt
động nhượng quyền thương mại;

- Nghị định số 120/2011/NĐ-CP ngày 16 /12/2011 sửa đổi thủ tục hành
chính tại Nghị định hướng dẫn Luật Thương mại;
- Thông tư 04/2016/TT-BCT ngày 06/6/2016 sửa đổi một số Thông tư của
Bộ trưởng Bộ Công Thương về thủ tục hành chính trong lĩnh vực thương
mại điện tử, hóa chất, sản xuất kinh doanh rượu, nhượng quyền thương
mại, hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa, năng
lượng, an toàn thực phẩm và điện lực.

Tài liệu mạng internet:
-



×