Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp từ thực tiễn tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.65 KB, 100 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN THUẦN

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG
TƯ PHÁP TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG

Ngành: Luật Hiến pháp và luật hành chính
Mã số: 8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu khoa học của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của GS. TS Võ Khánh Vinh. Các tài liệu được trích dẫn
trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng. Các kết quả
nghiên cứu của luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên
cứu nào khác.
Hà Nội, ngày 30 tháng 8 năm 2020
Học viên

Nguyễn Văn Thuần



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................ 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP............................................ 10
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt
động tư pháp..........................................................................................................10
1.2. Các hình thức và nội dung của thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động
tư pháp...................................................................................................................15
1.3. Các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp .. 30

Kết luận chương 1................................................................................................. 32
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP,
KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT TẠI TỈNH CAO BẰNG...............................................................33
2.1. Hoạt động tư pháp tại Việt Nam.....................................................................33
2.2. Kiểm sát hoạt động tư pháp............................................................................35
2.3. Quy định của pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp................................. 38
2.4.Thực tiễn thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp tại tỉnh Cao
Bằng………………………………………………………………………….46
2.5. Những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm
sát hoạt động tư pháp của VKSND tỉnh Cao Bằng………………………….54
Kết luận chương 2................................................................................................. 66
Chương 3. CÁC QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG..........67
3.1. Các quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư
pháp....................................................................................................................... 67


3.2. Các giải pháp nâng cao thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp . 80


Kết luận chương 3................................................................................................. 90
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 91


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

KSND

Kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

KSV

Kiểm sát viên

Nxb

Nhà xuất bản


VKS

Viện kiểm sát

THPL

Thực hiện pháp luật

CQĐT

Cơ quan điều tra

ĐTV

Điều tra viên

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

TTHC

Tố tụng hành chính

GRDP


Tốc độ tăng trưởng kinh tế

UBND

Ủy ban nhân dân

BLHS

Bộ luật hình sự

KSĐT

Kiếm sát điều tra


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài.

Kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra, giám sát, xem xét, theo dõi
việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án, giam giữ, cải tạo của các cơ quan tiến hành tố tụng và giải quyết các hành
vi phạm pháp, kiện tụng trong nhân dân nhằm đảm bảo cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Điều 4 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định Kiểm sát hoạt động
tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp
của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư
pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong
việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của
pháp luật.
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm: (a)
Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án; việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác được
thực hiện đúng quy định của pháp luật; (b) Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi
hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp
hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật; quyền con người và các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp
hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ; (c) Bản
án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm
1


chỉnh; (đ) Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát
hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh.
Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của các Cơ quan điều tra
và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
điều tra một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội
là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc xét xử các vụ án hình sự, kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn
nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động; kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân; kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lí và giáo dục người

chấp hành án phạt tủ, tiếp nhận, giải quyết các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm
quyền và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp
của các cơ quan tư pháp theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có quyền ra quyết định,
kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu. Các quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu
cầu của Viện kiểm sát nhân dân phải được các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá
nhân thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của pháp luật.
Qua thực tiễn hoạt động của VKSND nói chung và VKSND tỉnh Cao
Bằng nói riêng, cho thấy rằng, thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư
pháp đã có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng hoạt động kiểm sát được
nâng cao, từ đó đảm bảo được pháp luật được thực thi triệt để trên thực tế, bảo
đảm quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức và Nhà nước. Đối với địa bàn tỉnh
Cao Bằng, là một địa phương có nhiều nét đặc thù về văn hóa, kinh tế, xã hội
nên vai trị của VKSND trong việc đảm bảo pháp luật được thực thi là rất
quan trọng, đó khơng chỉ là tăng cường pháp chế mà chính là sự hỗ trợ quan
trọng và cấp thiết để tạo nên một xã hội ổn định, một môi trường lành mạnh
2


để phát triển kinh tế. Trong thời gian qua, được sự quan tâm của cấp ủy, chính
quyền địa phương và sự lãnh đạo của Viện KSND tối cao, VKSND tỉnh Cao
Bằng đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công tác kiểm sát hoạt động
tư pháp, tuy nhiên, so với những yêu cầu đặt ra trong nhà nước pháp quyền
XHCN về vị trí, vai trị của VKSND trong việc tổ chức thực hiện quyền tư
pháp, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền công dân, quyền con người và bảo đảm
quyền tự do, dân chủ xã hội chủ nghĩa thì VKSND cần phải tiếp tục được cải
cách một cách mạnh mẽ, toàn diện từ nhận thức, vấn đề pháp lý, đến nguồn
lực vật chất để phục vụ cho công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND
tỉnh Cao Bằng.
Từ những vấn đề trên, tác giả chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về

kiểm sát hoạt động tư pháp từ thực tiễn tỉnh Cao bằng” làm đề tài nghiên
cứu của mình với mong muốn là thơng qua việc làm rõ một số vấn đề lý luận
và thực hiện pháp luật tại tỉnh Cao Bằng. Qua đó, đề xuất phương hướng và
một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao việc thực hiện pháp luật về kiểm
sát hoạt đông tư pháp tại tỉnh Cao Bằng nói riêng và ở Việt Nam nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở nước ta trong những năm gần đây, vấn đề thực hiện pháp luật về
kiểm sát hoạt động tư pháp đang được đặt ra và là nhiệm vụ cấp bách của các
cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi cơng dân. Hiện nay chưa có
nhiều cơng trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư
pháp, chỉ có các cơng trình nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong hoạt động
tư pháp nói chung và áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình
sự nói riêng, hoặc các nghiên cứu về thực hiện pháp luật trong một lĩnh vực
cụ thể như thực hiện pháp luật về các biện pháp điều tra, thực hiện pháp luật
trong xét xử các vụ án hình sự, dân sự, thi hành án dân sự. Các nghiên cứu
này đã được thể hiện trong nhiều công trình khoa học được cơng bố trên sách,
3


báo, tạp chí chuyên ngành và các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, một số giáo
trình giảng dậy môn pháp luật, phần lớn đã tập trung làm rõ được các vấn đề
lý luận và pháp lý có liên quan. Có thể nêu ra như sau:
Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật ( Đại học Luật Hà
Nội); Tài liệu học tập và nghiên cứu môn học lý luận chung về Nhà nước và
pháp luật (Viện Nhà nước và pháp luật - Học viện Chính trị quốc gia HCM).
Sổ tay kiểm sát viên hình sự của Viện khoa học kiểm sát Viện kiểm sát nhân
dân tối cao (VKSNDTC), Nxb Văn hóa dân tộc (2006). Nguyễn Đức Thanh:
"áp dụng pháp luật trong kiểm sát việc sử dụng các biện pháp ngăn chặn của
Cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự Việt Nam", luận văn thạc sĩ luật học
(2004). Nguyễn Văn Đồng: "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong

thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
nhân dân Thành phố Hà Nội", luận văn thạc sĩ luật học (2003). Vũ Viết Tuấn:
"Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh", luận văn thạc sĩ luật học
(2006). Bùi Mạnh Cường: "áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố các vụ
án ma túy theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay", luận văn thạc
sĩ luật học (2007). Nguyễn Minh Đồng: "áp dụng pháp luật trong xét xử sơ
thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc
Ninh", luận văn thạc sĩ luật học (2007). Tạ Văn Hồ: "áp dụng pháp luật trong
xét xử hình sự đối với các tội phạm về chức vụ ở Việt Nam hiện nay", luận văn
Thạc sĩ luật học (2007). Hà Văn Khanh: "áp dụng pháp luật trong quản lý
hành chính Nhà nước về đất đai ở Thành phố Hà Nội", luận văn Thạc sĩ luật
học (2007). Trần Minh Tạo: "áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các
vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu", luận văn Thạc sĩ luật
học (2008). Đỗ Văn Chính: "Một số vấn đề cần lưu ý khi áp dụng pháp luật
trong công tác xét xử", Tạp chí Tịa án, tháng 3/2000. Nguyễn Văn
4


Nhật: "Khám nghiệm hiện trường trong hoạt động kiểm sát điều tra hình sự",
Tạp chí Kiểm sát, tháng 4/2005. Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội (2006). Chu Thị Trang Vân: "Đặc trưng của áp dụng pháp luật hình sự",
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/2006. Bùi Đức Tiến: “Thực hiện pháp
luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam” - Luận án Tiến sỹ năm
2018 - Học viện Chính trị quốc gia HCM. Vũ Thị Nhiên: “ Thực hiện pháp
luật kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự”-Luận
văn Thạc sỹ năm 2017- Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội.
Những cơng trình nghiên cứu nói trên đã nghiên cứu những vấn đề
chung của thực hiện pháp luật; thực hiện pháp luật về hoạt đơng tư pháp hình

sự, dân sự, hành chính, thi hành án và những cơng trình nghiên cứu về vấn đề
mang tính tổng thể hoặc những khía cạnh, phạm vi cụ thể khác nhau của thực
hiện pháp luật về hoạt đông tư pháp. Nhưng đến nay, chưa có cơng trình
nghiên cứu nào chun sâu dưới góc độ lý luận và thực trạng thực hiện pháp
luật về kiểm sát hoạt đông tư pháp, lý giải các nguyên nhân ảnh hưởng đến
chất lượng thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp, đề ra các giải pháp đảm
bảo thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp nói chung và ở tỉnh Cao Bằng
nói riêng. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kết quả các cơng trình nghiên cứu,
các bài viết, đồng thời bằng kinh nghiệm thực tiễn và những hiểu biết của
mình, tác giả trình bày trong luận văn cơ sở lý luận, nội dung thực hiện pháp
luật về hoạt động tư pháp và thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
của Viện kiểm sát nhân dân, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật trên địa bàn
tỉnh Cao Bằng, đưa ra một số giải pháp đảm bảo hiệu lực các văn bản pháp
luật đã ban hành trong lĩnh vực hoạt động tư pháp hình sự, dân sự, hành
chính, thi hành án, đáp ứng vấn đề cấp bách của thực tiễn công tác kiểm sát
hoạt động tư pháp ở địa phương mình.
5


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp, đánh giá thực trạng thực hiện pháp
luật về kiểm sát hoạt động tư pháp ở tỉnh Cao Bằng, chỉ ra nguyên nhân dẫn
đến hạn chế trong tác này, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp
phần bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp ở tỉnh Cao
Bằng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đã nêu trên, luận văn có một số nhiệm vụ nghiên
cứu như sau:

- Nêu và phân tích khái niệm về hoạt động tư pháp, các cơ quan hoạt
đơng tư pháp;
- Phân tích cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động
tư pháp;
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt
động tư pháp ở tỉnh Cao Bằng hiện nay.
- Xác định quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện
pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp ở tỉnh Cao Bằng trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện pháp luật là vấn đề rất rộng được nghiên cứu ở nhiều lĩnh
vực khác nhau. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung
nghiên cứu thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư
pháp ở tỉnh Cao Bằng, thực trạng và giải pháp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:

6


Luận văn được giới hạn dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và
pháp luật, các quy định của Hiến pháp năm 2013, các đạo luật tư pháp về hình
sự, dân sự, hành chính, thi hành án mới ban hành có hiệu lực pháp luật liên
quan đến hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp, thông qua thực
tiễn về công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND tỉnh Cao Bằng từ
năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; bám sát đường lối, chủ

trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về thực hiện pháp luật
hoạt động tư pháp, về công tác kiểm sát hoạt động tư pháp và chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp duy vật biện
chứng của triết học Mác - Lênin theo quan điểm phát triển, toàn diện, lịch sử,
cụ thể. Ngồi ra luận văn cịn kết hợp các phương pháp như: lơgíc, phân tích,
tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tiễn, bài luận văn còn sử dụng phương pháp
nghiên cứu cụ thể là mô tả các hoạt động tư pháp và các khái niệm về kiểm
sát hoạt động tư pháp, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND kết
hợp với phương pháp so sánh chức năng của VKSND qua các giai đoạn lịch
sử về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp bằng các công tác thực
hiện chức năng đó là : (a) Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố; (b) Kiểm sát việc khởi tố, điều tra vụ án
hình sự; (c) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng
trong giai đoạn truy tố; (d) Kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự; (đ) Kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự; (e) Kiểm sát việc giải quyết các
7


vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; (g) Kiểm sát
việc thi hành án dân sự, thi hành án hành chính; (h) Kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp của các cơ quan có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp
thuộc thẩm quyền; (i) Kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn
đề lý luận của việc thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp, do đó làm phong

phú thêm lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, việc đảm bảo thực hiện
pháp luật nhất là thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp và chức năng kiểm
sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân. Luận văn có thể là tài liệu
tham khảo cho cấp ủy và chính quyền của tỉnh Cao Bằng trong việc lãnh đạo,
chỉ đạo công tác hoạt động tư pháp. Luận văn cũng có thể là tài liệu tham
khảo của các cơ quan tư pháp tỉnh trong việc nghiên cứu và chỉ đạo các hoạt
động tư pháp hình sự, dân sự ,hành chính, thi hành án.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua việc làm rõ thực trạng thực hiện pháp luật về hoạt động tư
pháp, kiểm sát hoạt động tư pháp tỉnh Cao Bằng , những kết quả đã đạt được
và những hạn chế, bất cập, luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về
thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp, kiểm sát hoạt động tư pháp, từ đó
nâng cao nhận thức của các cơ quan và người tiến hành tố tụng đối với việc
thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp, kiểm sát hoạt động tư pháp ở tỉnh
Cao Bằng. Khẳng định, củng cố nhận thức về vị trí, vai trị và ý nghĩa của
thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp trong việc phát huy tính tích cực,

8


chủ động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật của các tổ chức và công dân đối với pháp luật của Nhà nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn
gồm 3 chương,
Chương 1: Những vấn đề lý luận của thực hiện pháp luật về kiểm sát
hoạt động tư pháp;
Chương 2: Quy định của pháp luật về hoạt động tư pháp và thực tiễn
thực hiện pháp luật tại tỉnh Cao Bằng;
Chương 3: Các quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện đúng pháp

luật về hoạt động tư pháp từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng.

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thực hiện pháp luật về kiểm
sát hoạt động tư pháp
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp
Ban hành quy phạm pháp luật Nhà nước mong muốn sử dụng chúng để
điều chỉnh các quan hệ xã hội phục vụ lợi ích và mục đích của nhà nước và xã
hội. Điều đó chỉ có thể đạt được khi các quy phạm pháp luật do Nhà nước đặt
ra được các tổ chức và cá nhân trong xã hội thực hiện một cách chính xác, đầy
đủ. Do vậy, vấn đề không phải chỉ là ban hành thật nhiều các văn bản pháp
luật, điều quan trọng là phải thực hiện pháp luật, làm cho những yêu cầu, quy
định của chúng trở thành hiện thực.Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các
quy phạm pháp luật dân chủ và nhân đạo. Việc thực hiện chúng chính xác, đầy
đủ càng thể hiện tính dân chủ và nhân đạo thực sự của xã hội chúng ta. Chính
vì thế việc thực hiện chính xác, đầy đủ pháp luật xã hội chủ nghĩa là mối quan
tâm không chỉ từ phía Nhà nước xã hội chủ nghĩa mà từ cả mỗi người dân
trong xã hội. Họ tự giác thực hiện pháp luật và đòi hỏi pháp luật phải được
các tổ chức, các cá nhân khác tơn trọng, thực hiện chính xác và đầy đủ. Thực
hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) của con người
phù hợp với những quy định của pháp luật. Nói khác đi, tất cả những hoạt
động nào của con người, của các tổ chức mà thực hiện phù hợp với quy định
của pháp luật thì đều được coi là biểu hiện của việc thực hiện thực tế các quy
phạm pháp luật.
Dưới góc độ pháp lý thì thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp. Hành

vi đó khơng trái, khơng vượt q phạm vi các quy định của pháp luật, phù hợp
với quy định của pháp luật và có lợi cho xã hội, cho nhà nước và cho các cá
10


nhân. Pháp luật gồm rất nhiều các loại quy phạm pháp luật khác nhau và với
mỗi loại thì những cách thức thực hiện chúng cũng khác nhau: có thể đó là xử
sự chủ động (hành động) nhằm đạt được một cái gì đó như sử dụng quyền
hoặc làm nghĩa vụ pháp lý; có thể đó là xử sự thụ động (không hành động)
kiềm chế không làm những điều mà pháp luật cấm ...
Do vậy, hành vi hợp pháp cũng rất đa dạng chúng có thể được thực hiện
phụ thuộc ý chí của mỗi cá nhân, nhưng cũng có thể chỉ phụ thuộc ý chí của
Nhà nước. Hành vi hợp pháp có thể được thực hiện trên cơ sở nhận thức sâu
sắc của chủ thể là cần thiết phải xử sự như vậy và do vậy họ tự giác làm theo.
Cũng có thể chúng được thực hiện do ảnh hưởng của những người xung
quanh (thấy người khác làm như thế thì cũng làm theo) chứ bản thân người
thực hiện hành vi đó chưa hoặc khơng nhận thức được đầy đủ tại sao phải làm
như vậy. Cịn có thể có những hành vi hợp pháp được thực hiện do kết quả
của việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà nước hoặc do sợ bị áp dụng
những biện pháp đó. Thực hiện pháp luật có thể là hành vi của mỗi cá nhân
nhưng cũng có thể là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội
...Do đó, “Thực hiện pháp luật là một q trình hoạt động có mục đích làm
cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi
thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật”
Kiểm sát hoạt động tư pháp là một chức năng quan trọng của VKSND
được quy định trong Điệu 107 Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể hóa trong
Luật tổ chức VKSND năm 2014, cụ thể tại Điều 4 quy định như sau: “Kiểm
sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát
tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án
hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và
11


gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo
quy định của pháp luật nhằm bảo đảm: Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án
hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động; việc thi hành án; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp; các hoạt động tư pháp khác được thực hiện đúng quy định của pháp
luật; Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm
giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của
pháp luật; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị
bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải
được tôn trọng và bảo vệ; Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật phải được thi hành nghiêm chỉnh; Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động
tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh.
Kiểm sát hoạt động tư pháp là một dạng của hoạt động giám sát nhà
nước và được giao cho VKSND thực hiện để đảm bảo cho pháp luật được
thực hiện trên thực tế. Vì vậy, Thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư
pháp là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý do pháp
luật quy định để tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát việc chấp hành
pháp luật của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt động tư pháp nhằm
phát hiện kịp thời các vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm minh, đảm bảo pháp
luật được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh.
1.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp

Thứ nhất, thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt

động của VKSND do những người có thẩm quyền (Viện trưởng, Phó viện
trưởng, Kiểm sát viên) tiến hành. Theo quy định của pháp luật Việt Nam,
VKSND là cơ quan duy nhất có chức kiểm sát hoạt động tư pháp. Thông qua
12


việc thực hiện chức năng này, VKS góp phần thực hiện quyền lực Nhà nước,
bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, của tập thể và lợi ích hợp pháp của công dân phải được xử lý nghiêm
minh trước pháp luật.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp của
VKSND phải tuân thủ những quy định về trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp
luật quy định. THPL trong các lĩnh vực nói chung đều địi hỏi phải tn thủ
những trình tự, thủ tục chặt chẽ. Hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của
VKS nhằm đảm bảo mọi hoạt động tố tụng phái được thực hiện đúng, đủ, kịp
thời. Chính vì vậy, pháp luật hiện hành quy định rất chặt chẽ việc THPL về
kiểm sát hoạt động tư pháp đối với trình tự, thủ tục cũng như nhiệm vụ, quyền
hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng.
Hoạt động THPL trong kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND phải
được tiến hành theo thủ tục chặt chẽ nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật
vào các trường hợp cụ thể. Việc tuân thủ những quy định về trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định (quy phạm luật hình thức) là điều kiện bắt buộc và là
tiền đề cho việc áp dụng các quy phạm pháp luật nội dung
Thứ ba, THPL trong kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND chỉ được
tiến hành đối với các hoạt động tố tụng bao gồm tố tụng hình sự, tố tụng dân
sự và tố tụng hành chính.
Thứ tư, THPL trong kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND là hoạt động

địi hỏi tính sáng tạo, nhạy bén, linh hoạt của các chủ thể có thẩm quyền. Hoạt
động THPL trong kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS đối với từng vụ án, vụ
việc cụ thể luôn mang sắc thái riêng, phù hợp với từng hành vi, hoàn

13


cảnh và đặc điểm nhân thân của mỗi con người cụ thể. Sự đa dạng của thực
tiễn THPL không chỉ có ở từng vụ việc cụ thể, đối với những đối tượng cụ thể
mà còn ở từng Kiểm sát viên.
Mặc dù quy phạm pháp luật ln ln mang tính khn mẫu chung,
các tiêu chuẩn, quyền, trách nhiệm của Kiểm sát viên cũng là những quy định
chung, thống nhất, nhưng trình độ, năng lực, kỹ năng thực hiện pháp luật ở
mỗi Kiểm sát viên lại không giống nhau. Cùng một trường hợp phạm tội cụ
thể nhưng cách nhìn nhận, đánh giá ở mỗi Kiểm sát viên lại khác nhau, dẫn
đến kết quả giải quyết có thể khơng giống nhau. Do đó, có thể khẳng định
hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp mang dấu ấn chủ quan của Kiểm sát
viên khá sâu sắc.
1.1.3. Ý nghĩa của thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp
Pháp luật được Nhà nước ban hành với mục đích cao nhất là nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội theo đúng trật tự, đảm bảo sự hài hịa lợi ích của các
chủ thể. Do đó, khi một quy định pháp luật được đưa vào thực tiễn sẽ phát
sinh ý nghĩa to lớn không chỉ đối với những chủ thể trực tiếp mà còn đối với
cả xã hội. Trong việc thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp của
VKSND mang ý nghĩa rất sâu sắc, cụ thể:
Một là, Đối với những người trực tiếp tham gia vào các quan hệ tố
tụng: trong quan hệ tố tụng phát sinh mối quan hệ giữa hai bên đó là người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, nếu như người tiến hành tố tụng
tham gia với mục đích là đại diện cho quyền lực nhà nước để bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành trên thực tế, bảo vệ quyền lợi của cá nhân, cơ quan,

tổ chức và Nhà nước thì người tham gia tố tụng là những người tham gia tố
tụng với mục đích cao nhất hoặc cũng có thể nói là duy nhất đó chính là bảo
vệ tối đa quyền lợi của mình bị ảnh hưởng hoặc vi phạm. Do đó, để cho lợi
ích của các bên được hài hịa và đảm bảo thì rất cần sự tham gia của VKSND
14


trong việc kiểm sát hoạt động tư pháp – kiểm sát hành vi, quyết định của
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng nhằm tạo ra một môi
trường pháp lý dân chủ, trong sạch.
Hai là, đối với xã hội: Khi xã hội phát sinh một quan hệ tố tụng thì ắt sẽ
phát sinh nhiều hệ quả kèm theo, đó có thể là một vụ án hình sự, một vụ án
tranh chấp dân sự hoặc một vụ án hành chính. Chính vì vậy, tác động của các
quan hệ tố tụng cho xã hội sẽ là rất lớn, gây ảnh hưởng đến lợi ích về tinh
thần và vật chất của chính những người tham gia tố tụng, những người thân
của họ và cả Nhà nước. Chính vì lẽ đó,để đảm bảo cho các quan hệ tố tụng
được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho
các bên và cho xã hội thì vai trị của VKSND trong việc kiểm sát hoạt động tư
pháp là rất cần thiết. Đây có thể coi như là yếu tố bắt buộc trọng mọi quan hệ
tố tụng hiện nay.
1.2. Các hình thức và nội dung của thực hiện pháp luật về kiểm sát
hoạt động tư pháp
1.2.1 Các hình thức thực hiện pháp luật
Các quy phạm pháp luật rất phong phú cho nên hình thức thực hiện
chúng cũng rất phong phú và khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động
thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã xác định những hình thức thực hiện
pháp luật sau:
Tuân theo (tuân thủ) pháp luật (xử sự thụ động) là một hình thức thực
hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành
những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm. Những quy phạm pháp luật cấm

trong luật hình sự luật hành chính.... được thực hiện dưới hình thức này.
Thi hành (chấp hành) pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành
động tích cực. Những quy phạm pháp luật bắt buộc (những quy phạm quy
15


định nghĩa vụ phải thực hiện những hành vi tích cực nhất định) được thực
hiện ở hình thức này.
Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi
mà pháp luật cho phép). Những quy phạm pháp luật quy định các quyền và tự
do dân chủ của công dân được thực hiện ở hình thức này. Hình thức này khác
với các hình thức trên ở chỗ chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không
thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, chứ khơng bị
ép buộc phải thực hiện.
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà
nước thơng qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các
chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ
vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi,
đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Trong trường hợp này
các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật có sự can thiệp của
nhà nước. Trong một số trường hợp đặc biệt, theo quy định của pháp luật, cơ
quan của một số tổ chức xã hội cũng có thể thực hiện hoạt động này.

Nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là
những hình thức mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng
pháp luật là hình thức ln ln có sự tham gia của nhà nước thông qua các
cơ quan hoặc nhà chức trách có thẩm quyền. Áp dụng pháp luật là một hình
thức rất quan trọng của thực hiện pháp luật cần nghiên cứu kỹ lưỡng hơn.

1.2.2. Các hình thức thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp

1.2.2.1 Tuân thủ pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp
Tuân thủ pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp là một hình thức thực
hiện pháp luật, theo đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những
hoạt động mà pháp luật cấm. Trong kiểm sát hoạt động tư pháp, yêu cầu về
16


tuân thủ pháp luật được coi là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả
hoạt động tư pháp, đòi hỏi các chủ thể liên quan phải thực hiện đúng các
quyền và nghĩa vụ của mình theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định, đặc biệt
là điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên không được áp
dụng các biện pháp nghiệp vụ một cách tùy tiện mà phải tuân thủ những quy
định, nguyên tắc nhất định. Cụ thể như: phải điều tra vụ án một cách đầy đủ
khách quan toàn diện, chỉ tuân theo pháp luật…
1.2.2.2 Thi hành pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp
Thi hành (chấp hành) pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp là một
hình thức thực hiện pháp luật, theo đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ, trách
nhiệm pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Việc thi hành nghĩa vụ,
trách nhiệm bằng hành động tích cực của mỗi chủ thể tùy thuộc vào chức
năng, nhiệm vụ cũng như trách nhiệm liên quan đến hoạt động tư pháp. Ví dụ
như khi ban hành các văn bản tố tụng, quyết định tố tụng trong việc giải quyết
một vụ án hình sự điều tra viên, kiểm sát viên viên phải thực hiện theo trình tự
tố tụng do luật quy định. Ở đây tính chấp hành pháp luật là yêu cầu nổi bật
trong hoạt động tư pháp, đặc biệt là chủ thể có thẩm quyền là người chịu trách
nhiệm chính trong q trình giải quyết vụ án.
1.2.2.3. Sử dụng pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp
Sử dụng pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp là một hình thức thực
hiện pháp luật về hoạt động tư pháp, trong đó các chủ thể thực hiện các quyền

kiểm sát hoạt động tư pháp để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp của nhà nước, tập
thể và cơng dân. Hình thức này khác với hình thức tn thủ pháp luật và thi hành
pháp luật ở chỗ chủ thể có thể thực hiện hoặc khơng thực hiện quyền được pháp
luật cho phép theo ý chí của mình, chứ không bị ép buộc phải thực hiện.

17


1.2.2.4. Áp dụng pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp
Áp dụng pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp là một hình thức thực
hiện pháp luật chủ yếu trong thực hiện pháp luật về hoạt động tư pháp, trong
đó kiểm sát viên nhân danh quyền lực nhà nước để ra quyết định, yêu cầu
đảm bảo tính hợp pháp của các hành vi quyết định của cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong hoạt động tư pháp. Áp dụng pháp luật về kiểm sát hoạt động tư
pháp là hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền, nó vừa
là một hình thức thực hiện pháp luật, vừa là cách thức Nhà nước tổ chức cho
các đương sự thực hiện pháp luật nên hoạt động này ln thể hiện quyền lực
Nhà nước, có nghĩa là hoạt động này chỉ do cơ quan Nhà nước hay người có
thẩm quyền tiến hành. Bởi vậy, áp dụng pháp luật về kiểm sát hoạt động tư
pháp có thể coi là một trong những bảo đảm quan trọng để đảm bảo thi hành
các quy định của pháp luật trong thực tế đời sống xã hội.
1.2.3. Nội dung của thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp

Một là, Đối với công tác kiểm sát hoạt động điều tra, về nguyên tắc,
phạm vi của kiểm sát hoạt động tư pháp trong hoạt động điều tra bắt đầu từ
khi vụ án hình sự được khởi tố (một số trường hợp có thể được tiến hành
trước khi khởi tố: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi...) và kết
thúc khi người phạm tội đã thi hành xong bản án. Còn phạm vi của kiểm sát
hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi vụ án hình sự được khởi
tố và kết thúc khi VKSND quyết định việc truy tố hoặc khơng truy tố người

phạm tội ra tịa, hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự. Khi tiến hành kiểm sát hoạt động tư pháp của các chủ thể,
VKSND có những quyền hạn sau đây: Thứ nhất, là các quyền nhằm phát hiện
vi phạm pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tư
pháp. Những quyền trên nhằm bảo đảm cho VKSND nắm được vi phạm, xác
định nguyên nhân và điều kiện dẫn đến vi phạm. Trên cơ sở đó đưa ra các
18


biện pháp để khắc phục vi phạm nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất. Thứ hai, là các quyền yêu cầu khắc phục, xử lý
vi phạm của các chủ thể tiến hành các hoạt động tư pháp hình sự. Từ những
nội dung trình bày trên, thì kiểm sát hoạt động tư pháp trong điều tra vụ án
hình sự là chức năng được Hiến pháp quy định cho cơ quan VKSND, đồng
thời, có nội dung là giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp và các cơ
quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động tư pháp trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, qua đó bảo đảm pháp chế
XHCN trong tố tụng hình sự, tơn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con
người, góp phần đấu tranh phịng, chống tội phạm. Tương tự, kiểm sát hoạt
động tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của VKSND trong việc điều tra của CQĐT, các cơ quan
khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong quá trình
điều tra vụ án hình sự nhằm bảo đảm cho việc điều tra được tiến hành theo
đúng các quy định của pháp luật, qua đó bảo đảm pháp chế XHCN trong tố
tụng hình sự, tơn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người, góp phần
đấu tranh phòng, chống tội phạm. Từ khái niệm trên có thể rút ra đặc điểm
kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như sau:
Một là, kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là
những hoạt động chỉ do VKSND chịu trách nhiệm trực tiếp thực hiện. Đây là
các hoạt động có tính quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm cho pháp luật được

áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra. Hai là, kiểm sát
hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là những hoạt động
phát hiện vi phạm và yêu cầu xử lý vi phạm của các cơ quan và người có thẩm
quyền tiến hành các hoạt động điều tra, nhằm đảm bảo cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra vụ án. Ba là,
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKSND tiến hành kiểm sát hoạt
19


động tư pháp với những nhiệm vụ cơ bản sau đây: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm
sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT; kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của người tham gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về thẩm
quyền điều tra; yêu cầu CQĐT khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động
điều tra; yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của
ĐTV; yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xử lý nghiêm đối với ĐTV đã

vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra; kiến nghị với cơ quan, tổ chức
hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
Hai là, Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ngồi chức năng
thực hành quyền cơng tố, VKSND cịn thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt
động tư pháp được thể hiện cụ thể tại Quy chế thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, theo đó: KSV phải kiểm sát 9 việc tuân
theo pháp luật của Tòa án về thẩm quyền xét xử; về việc chuyển vụ án; về
thời gian chuẩn bị xét xử; về việc ra các quyết định: Quyết định áp dụng thay
đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết
định tạm đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án và việc giao các quyết định này
theo Điều 182 BLTTHS. Đối tượng của kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự: “Là
sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động xét xử theo thủ tục sơ thẩm hình sự của
Tịa án nhân dân và những người tham gia tố tụng xét xử”. Về phạm vi kiểm
sát xét xử sơ thẩm hình sự “bắt đầu từ khi hồ sơ vụ án và quyết định truy tố

được gửi đến Tòa án, kết thúc khi vụ án được xét xử đã có bản án, quyết định
thẩm có hiệu lực khơng bị kháng cáo, kháng nghị”. Như vậy, trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự VKSND có chức năng chính sau:
+ Kiểm sát hoạt động tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và
những người tham gia tố tụng khác.
+ Kiểm sát việc chấp hành pháp luật của Tòa án về thời hạn chuẩn bị
xét xử.
20


×