Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

chua ung thu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.01 KB, 3 trang )

Xem trang gốc />
Chữa ung thư
bằng liệu pháp tự nhiên
Lương y VÕ HÀ
Ung thư không tự nhiên sinh ra, cũng không phát triển thình lình mà
là kết quả của một sự tương tranh dai dẳng giữa hệ miển dịch của
cơ thể đã bị suy yếu và quá trình tiếp xúc lâu dài với các nhân tố gây
ung thư. Do đó chống ung thư cũng phải dựa vào cơ chế đối kháng
nầy. Một mặt tăng cường hệ miển dịch và ngăn chận ung thư bằng
các chất chống oxy hoá từ rau quả và ngủ cốc, mặt khác cần giảm
bớt hoặc chấm dứt hẳn việc phơi nhiễm hoặc tiếp xúc với các yếu tố
gây ung thư.
Tương quan chính và tà trong cuộc chiến chống ung thư trong
cơ thể
Thông thường, các tế bào trong cơ thể đều có một tuổi thọ nhất định
và bị chi phối bởi một quy luật chung. Sinh ra, phát triển và hư hoại.
Khi một tế bào chết đi sẽ được thay thế bởi một tế bào mới sinh ra.
Quá trình phát triển ổn định và có giới hạn nhằm duy trì hoạt động
sống của mọi tổ chức, cơ quan trong cơ thể. Tuy nhiên trong những
trường hợp nhất định, do sức đề kháng của cơ thể suy yếu và dưới tác
động lâu dài của nhân tố gây ung thư, một số tế bào phát triển bất
thường, sinh sôi tràn lan, gia tăng không hạn chế trở thành tế bào ung
thư, khối u ung thư. Tuỳ theo vị trí của khối u, sự phát triển bất
thường nầy có thể xâm lấn, chèn ép hoặc phá huỷ cơ cấu hoặc làm rối
loạn công năng của các cơ quan.
Theo các nhà khoa học, dù chưa xác định được cụ thể nguyên nhân
gây ra ung thư nhưng chúng ta đã biết được hàng loạt nhiều yếu tố
khác nhau có thể dẫn đến ung thư. Những tác nhân gây ra ung thư có
thể là rượu, khói thuốc, bức xạ, ánh nắng mặt trời, đặc biệt là những
thức ăn thức uống bị nhiễm hoá chất độc hại trong quá trình nuôi trồng
hoặc chế biến, vận chuyển, bảo quản. Ung thư phát triển qua nhiều


giai đoạn. Giai đoạn tiềm ẩn có thể kéo dài nhiều năm trời, thậm chí
10 năm, 20 năm hay hơn nửa trước khi khối u to lớn đủ để được phát
hiện. Sự phơi nhiễm các yếu tố gây ung thư cũng không phải trong
một gian đoạn ngắn . Chẳng hạn đối với bệnh ung thư vú, một loại
ung thư thường gặp ở nử giới, Bác sĩ John Muir, một chuyên gia về
ung thư ở Trung Tâm Y khoa Walnut Creek, California cho rằng dinh
dưỡng đóng vai trò quan trọng trong cơ chế sinh bệnh của loại ung thư
nầy và “thực phẩm mà mà người bệnh ăn uống trong khoảng một
năm trước khi được chẩn đoán có thể không có ý nghĩa bằng những
loại thực phẩm mà họ sử dụng trong suốt 10 hay 20 năm trước đó.”
Ngoài ra, những người khoẻ mạnh đều có thể đã trải qua một đôi lần
có sự phát triển rối loạn của những tế bào bất thường –tương tự như sự
phát triển của tế bào ung thư- Tuy nhiên, những lúc đó sức đề kháng tự
nhiên của cơ thể đã vượt thắng, khống chế và tiêu diệt chúng trước khi
những tế bào nầy có điều kiện chuyển biến thành tế bào ung thư.
Những điều trên đã cho thấy ung thư không tự nhiên sinh ra, cũng
không phát triển thình lình mà là kết quả của một sự tương tranh lâu
dài giữa hai thế lực chánh và tà. Chánh là hệ thống phòng vệ của cơ
thể. Tà là chỉ những tác nhân gây ra ung thư. Trong quan hệ giữa
chính khí và tà khí, Đông y cho rằng khi chính khí thắng tà khí tất sẽ
rút lui và con người sẽ không còn bệnh tật. Do đó, nếu ta có thể thông
qua luyện tập dưỡng sinh, thông qua chế độ ăn uống để vừa tăng
cường được chính khí lại vừa giảm bớt hoặc chấm dứt hắn việc bị phơi
nhiễm tà khí thì việc bảo đảm thắng lợi trong cuộc chiến chống ung
thư chỉ là một quy luật tự nhiên.
Tăng cường hệ thống phòng vệ cơ thể bằng chế độ ăn uống có
nhiều chất chống oxy hoá
Trong 2 thập niên qua, các nhà khoa học đã đặc biệt quan tâm đến
những hậu quả của những gốc tự do gây ra cho cơ thể và xem việc bổ
sung những chất chống oxy hoá từ nguồn thực phẩm tự nhiên như là

biện pháp chủ yếu để nâng cao sức miển dịch trong việc phòng chống
bệnh tật bao gồm cả bệnh ung thư.
Cơ chế gây lão hoá và suy giảm hệ miển dịch của những gốc tự
do
Bình thường, oxy tham gia vào quá trình chuyển hoá để tạo ra năng
lượng giúp cơ thể hoạt động. Tuy nhiên có khoảng một vài phần trăm
oxy tham gia vào quá trình này đã không tạo ra năng lượng mà tạo ra
các gốc tự do. Có thể nói gốc tự do là một loại sản phẩm không hoàn
hảo trong chu trình biến dưỡng bình thường của cơ thể. Gốc tự do
càng gia tăng nhiều hơn trong điều kiện ăn uống hoặc sinh hoạt trong
môi trường bị ô nhiễm khói thuốc lá, bức xạ hoặc những hoá chất độc
hại hoặc căng thẳng tâm lý. Về mặt hoá học, gốc tự do là những thành
phần phân tử có những nguyên tử bị thiếu mất l điện tử ở vòng ngoài
cùng. Do đó, phân tử nầy có khuynh hướng di chuyển tự do để chiếm
đoạt một điện tử của một phân tử khác để tự ổn định. Như vậy điều
nguy hiểm của gốc tự do không phải là huỷ diệt tế bào mà là làm tổn
thương tế bào để đến phiên tế bào bị tổn thương -một gốc tự do mới-
lại oxy hoá một tế bào khác và phản ứng dây chuyền cứ tiếp tục xảy
ra. Qua cơ chế nầy, các gốc tự do đã tham gia phản ứng với các chất
hửu cơ gây tổn thương màng tế bào, làm rối loạn quá trình trao đổi
chất giữa tế bào với bên ngoài và nguy hiểm hơn, các gốc tự do có thể
làm thay đổi cấu trúc gen của tế bào. Do đó các gốc tự do là mầm
mống quan trọng dẫn đến nhiều thứ bệnh tật khác nhau như tim mạch,
parkinson, alzheimer và cả ung thư.
Rau quả có màu xanh đậm, vàng hoặc đỏ là nguồn cung cấp
chất chống oxy hoá và ngăn chận ung thư quan trọng
Điều may mắn là thiên nhiên đã có sẳn một cơ chế để kềm hảm sự
phảt triển của những gốc tự do. Đó là những chất chống oxy hoá được
cung cấp từ các loại rau quả và ngủ cốc trong tự nhiên. Có hàng ngàn
chất chống oxy hoá khác nhau. Chúng thuộc 2 nhóm chính, nhóm

flavonoids và nhóm phytochemicals. Những chất chống oxy hoá ngoài
tác dụng trung hoà các gốc tự do bằng cách nhường một điện tử của
mình cho chúng qua đó có thể cắt đứt phản ứng dây chuyền, ngăn chận
tổn thương DNA do các độc chất gây ra còn có thể khống chế sự phát
triển của tế bào ung thư. Càng ngày càng có nhiều nghiên cứu về tác
dụng kỳ diệu của những chất chống oxy hoá. Nhiều sinh tố và khoáng
chất là những chất chống oxy hoá. Các chất quan trọng nhất là sinh tố
A, beta caroten (một sắc tố thực vật sẽ được cơ thể chuyển hoá thành
sinh tố A), sinh tố C, E, khoáng chất selenium. Thứ đến là sinh tố B2,
kẻm, đồng, magnesium, co-enzym Q10, các carotenoids lutein và
lycopen. Nhiều nghiên cứu khác nhau đã cho biết ăn rau quả nhiều có
thể giúp chống lại các loại ung thư, nhất là 2 loại ung thư vú và ung
thư tiền liệt tuyến. Các nhà khoa học đặc biệt lưu ý đến bông cải và
các loại cải bắp. Những loại thức ăn nầy đóng vai trò quan trọng giúp
ngăn ngừa ung thư vú cho những phụ nử sắp mãn kinh. Bông cải có
chứa nhiều sinh tố C, acid folic, potasium, nhiều carotenoids và chất
indole-3-carbinol, một chất cần thiết cho sự chuyển hoá các hormone
sinh dục. Cải bắp có nhiều sinh tố B1, C, E, acid folic, caroten và S-
methylmethionine, một chất có tác dụng kháng viêm. Bông cải và các
loại cải bắp còn có hàm lượng chất isothiocyanates, một loại
phytochemical có tác dụng hoạt hoá một số enzym có khả năng làm vô
hiệu hoá những hoá chất gây ra ung thư. Một báo cáo của trường đại
học Illinois còn cho biết một loại isothiocyanate được tìm thấy trong
các loại bắp cải và bông cải có tên là sulphoraphane có tác dụng ngăn
chận sự phát triển của tế bào ung thư ở giai đoạn cuối. Qua nghiên
cứu chế độ ăn của 20.000 người, những nhà nghiên cứu thuộc viện ung
thư quốc gia Mỷ ở Maryland cho biết những người ăn nhiều bông cải
có thể giảm nguy cơ ung thư tiền liệt tuyến từ 45% đến 52%. Bông
cải, cải bắp, các loại rau xanh, những loại đậu và những sản phẩm từ
đậu nành còn có nhiều acid folic, một chất chống oxy hoá rất thiết yếu

cho cơ thể. Acid folic là một yếu tố quan trọng trong sự phân chia và
phát triển tế bào mới, trong sự tổng hợp DNA, sản xuất enzym và sinh
ra hồng cầu. Acid cũng đặc biệt hiệu quả để chống lại các vết loét
trong giai đoạn tiền ung thư. Về tầm quan trọng của acid folic trong
việc chống ung thư, Tiến sĩ Judith Christman, trường Đại học
Nebraska cho biết “Khi thức ăn thiếu acid folic, cơ cấu DNA của tế
bào sẽ bị phá vở. Lúc đó, các tế bào sẽ phát triển trên cơ sở những
thông tin sai lầm của cấu trúc mới nên ung thư xảy ra.”
Nhiều loại rau qủa khác cũng có tác dụng ngăn chận sự phát triển của
các loại ung thư ruột già, ung thư vòm họng, ung thư phổi hoặc bao
tử. Nhiều nghiên cứu đã đưa đến những kết quả giống nhau về những
loại rau quả, củ có lá màu xanh đậm, màu vàng hoặc màu đỏ như cà
chua, bông cải, cà rốt, sơ ri, gấc , bí đỏ, dưa hấu, khoai lang …Những
loại rau quả nầy đều có khả năng làm giảm nguy cơ các loại ung thư.
Riêng trong quả gấc, những nghiên cứu của công ty San Eigen FFI,
một công ty phẩm màu hàng đầu của Nhật bản đã cho biết ngoài hàm
lượng rất cao chất caroten, gấc còn có tỷ lệ chất lycopen cao gấp 10
lần so với rau quả thông thường. Lycopen có trong cà chua, dưa hấu,
dưa hồng, là hợp chất có tác dụng kềm hảm sự lan toả của tế bào ung
thư.
Những nhà khoa học trường Đại học Ohio, Mỷ còn đặc biệt lưu ý đến
những hợp chất tạo màu sắc sậm trong rau quả. Những thí nghiệm
trên chuột và người đều cho thấy chất tạo màu sẫm có hợp chất
anthocyanin trong các loại rau màu đỏ, màu tía và màu xanh có khả
năng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư. Chẳng hạn, chất
anthocyanin trong cà rốt và củ cải, quả dâu tây có thể làm giảm sự phát
triển của tế bào ung thư từ 50 đến 80%.
Ngoài ra, tập quán uống trà cũng có ảnh hưởng tốt đến việc phòng
chống ung thư. Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Weisburger, cả trà xanh
và trà đen đều có hàm lượng cao những chất phytochemicals là những

chất chống oxy hoá có khả năng hoá giải những gốc tự do và ngăn
chận tổn thương tế bào do khói thuốc lá hoặc những độc chất hoá học.
Mới đây, một thí nghiệm khoa học tại trường Đại học Arizona, Mỷ do
Tiến sĩ Sherry Chow chủ trì cũng cho thấy trà xanh có nhiều hoạt chất
epigallocatechin gallate, một chất chống oxy hoá. Những người uống
từ 8 đến 16 tách trà xanh mỗi ngày có thể bổ sung một lượng chất
epigallocatechin gallate đủ để làm gia tăng đến 80% loại enzym GST,
một enzym có tính năng giải độc và chống ung thư. GST có khả năng
biến đổi những phân tử gây ung thư thành những phân tử trơ không
ảnh hưởng đến chất liệu cấu tạo di truyền DNA. Người ta cho rằng
những dân tộc châu Á như Trung quốc, Nhật bản có tỷ lệ tim mạch và
ung thư thấp hơn so với người Âu Mỷ một phần có thể là nhờ vào tập
quán hay uống trà.
Vậy liệu ăn bao nhiêu thì đủ. Theo khuyến cáo của các chuyên viên
dinh dưỡng Liên Hiệp Quốc, mỗi người nên ăn khoảng 400g rau quả
mỗi ngày. Ngoài ra, điều cần lưu ý là giá trị của các loại rau quả
khác nhau không chỉ ở chủng loại mà còn ở cách trồng trọt, chăm
bón và cả qúa trình chế biến . Một nghiên cứu kéo dài 10 năm của
các nhà khoa học trường Đại học California, Mỷ đã cho biết cà chua
được chăm bón bằng phân hửu cơ theo lối truyền thống có hàm lượng
hợp chất flavonoids, một chất chống oxy hoá, cao gấp 2 lần so với
cách trồng trọt thông thường hiện nay. (Cách trồng hiện nay thường
xử dụng phân hoá học, thuốc trừ sâu rầy hoặc hoá chất kích thích tăng
trưởng) Ngoài ra, Hội Ung thư quốc gia Mỷ cũng nghiên cứu thấy
những người dùng các loại thực phẩm tự nhiên có chứa các sinh tố
B6, B12 và Folate sẽ giảm nguy cơ ung thư tuỵ tương ứng là 81%,
73% và 52%. Ngược lại những người dùng các viên sinh tố tổng hợp
có các sinh tố trên chẳng những không giảm mà còn tăng nguy cơ ung
thư tuỵ lên đến 139%. Những kết quả nầy cũng phù hợp với những
khuyến cáo cách đây trên 40 năm của Giáo sư Oshawa khi ông đề ra

Macrobiotics, một phương pháp chữa bệnh dưỡng sinh bằng cách ăn
các loại rau quả và ngủ cốc thô không có sự hổ trợ của hoá chất. Như
vậy, cùng một loại rau quả hoặc ngủ cốc, cùng một loại thổ nhưởng,
nhưng kết quả có thể khác nhau, hoặc có lợi hoặc có hại cho sức khoẻ
tuỳ theo quá trình chăm bón, bảo quản, vận chuyển có qua xử lý bằng
các loại hoá chất hay không.
Nguồn năng lượng chánh phòng chống ung thư đến từ ngủ cốc
và các loại hạt toàn phần
Ngủ cốc thô hay còn gọi là ngủ cốc toàn phần là những loại ngủ cốc
còn nguyên phần mài và lớp vỏ ngoài như gạo lức, lúa mạch, bắp
nguyên hạt, bánh mì đen. Ngủ cốc thô nên được dùng để thay thế dần
những loại gạo trắng hoặc thực phẩm tinh lọc như bún, mì, phở, hủ
tiếu, các loại bánh. Ngủ cốc thô là nguồn cung cấp năng lượng ở dạng
carbohydrate phức hợp bao gồm nhiều chất xơ, các sinh tố nhóm B,
khoáng chất và nhiều nguyên tố vi lượng cần thiết cho sức khoẻ. Đối
với tính năng chống ung thư, những nghiên cứu của các nhà khoa học
thuộc trường Đại học London cho biết chế độ ăn nhiều các loại đậu và
ngủ cốc thô có giá trị chống ung thư là do những thức ăn nầy chứa
nhiều hợp chất Inositol Pentakisphosphate có tính năng ức chế được
enzym phospho inositide 3-kinase vốn thúc đẩy sự phát triển các khối
u ung thư. Chất xơ có nhiều trong hạt và ngủ cốc toàn phần cũng có
giá trị đặc biệt. Chất xơ không bị hoà tan, không được hấp thu , góp
phần tạo ra chất bả có tác dụng kích thích nhu động ruột , thúc đẩy
nhanh sự lưu thông trong ruột già, chống táo bón, làm giảm thời gian
tiếp xúc của các chất gây ung thư với niêm mạc ruột, chất xơ còn có
thể kết dính những chất độc hại để bài tiết theo phân ra ngoài. Do đó
chất xơ cũng góp phần quan trọng trong việc phòng chống ung thư.
Đối với nguồn chất đạm, các nghiên cứu về dinh dưỡng khuyên nên
dùng các loại đậu như đậu đen, đậu xanh, đậu đỏ, đậu Hoà lan, đặc
biệt là đậu nành. Đậu toàn phần là nguồn thực phẩm giàu chất đạm dễ

chuyển hoá lại chứa nhiều chất xơ, nhiều sinh tố nhóm B, khoáng chất
và những chất chống oxy hoá isoflovonoids góp phần chống lại các
bệnh ung thư.
Ngoài ra, thực đơn phòng chống ung thư còn xử dụng một số loại hạt
và quả hạch như quả óc chó , hạt lanh, hạt hạnh nhân, hạt dẻ, hạt mè,
hạt bí rợ, hạt hướng dương. Những loại hạt nầy là một nguồn cung
cấp năng lượng dưới dạng acid béo hửu ích. Trong nhiều loại hạt nầy
có chứa oestrogen thực vật thường gọi là lignan có tác dụng thu nhỏ
khối u ung thư. Một báo cáo tại cuộc hội thảo về ung thư vú vào tháng
12/2000 tại San Antonio, Mỷ đã cho biết các bệnh nhân ung thư vú
dùng 25g hạt lanh mỗi ngày trong khỏang 38 ngày đã có tác dụng làm
thu nhỏ khối u ung thư rõ rệt tương tự như những người đã dùng thuốc
tamoxifen. Ngoài oestrogen thực vật, các loại hạt nhiều chất béo còn
cung cấp chất xơ, nhiều chất chống oxy hoá như selenium,
magnesium, sinh tố E và acid béo omega 3 có lợi cho hoạt động của
tim mạch và hệ thần kinh. Cần dùng nhiều loại hạt cũng như nhiều
loại đậu và rau quả, củ khác nhau nhằm tạo sự đa dạng sinh học để đáp
ứng đủ những nhóm chất cần thiết cho nhu cầu biến dưỡng của cơ thể.
Liều các loại hạt và quả hạch được đề nghị là khoảng 25g đến 30g mỗi
ngày. Với chế độ dinh dưỡng lành mạnh, không dùng thịt cá, các
nguồn thực phẩm chủ yếu được khuyến cáo ở tỷ lệ 50% ngủ cốc, 20%
đậu, phần còn lại là rau quả, củ.
Giảm bớt hoặc chấm dứt hẳn việc tiếp xúc với các yểu tố gây
ung thư hoặc làm suy giảm hệ miển dịch
Việc tăng cường sức phòng vệ cơ thể thông qua những loại thực
phẩm có nhiều chất chống oxy hoá chỉ có ý nghĩa thiết thực khi được
thực hiện song song với những biện pháp nhằm giảm việc tiếp xúc với
các yếu tố gây ung thư hoặc làm gia tăng các gốc tự do trong cơ thể.
• Không hút thuốc. Thuốc lá là nguồn cung cấp những gốc tự do
lớn nhất. Có hàng ngàn chất độc hại trong những điếu thuốc lá.

Một so sánh còn nói rằng hút một hơi thuốc còn độc hại hơn gấp
600 lần so với hít phải một hơi khói thải từ xe cộ. Hút thuốc không
những gây hại cho bản thân mà còn làm khói thuốc lan toả có hại
cho những người chung quanh.
• Không ăn các loại thực phẩm để qua đêm. Các loại thức ăn, thức
uống thiu, ôi có nhiều nấm mốc có thể tiết ra độc tố aflatoxin dễ dẫn
đến ung thư.
• Tránh ăn các loại thực phẩm đã qua chế biến với các phụ gia,
hoá chất, các loại đồ hộp, nước uống đóng chai. Các hoá chất
nitrits, nitrats hoặc bất cứ loại nào khác được xử dụng để làm cho
thực phẩm lâu hư, thêm độ dai, dòn, chất tẩy trắng hoặc chất tạo
màu đều là những tác nhân dễ dẫn đến các loại ung thư miệng, ung
thư thực quản, dạ dầy. Những loại dưa muối thường có hàm lượng
cao chất nitrosamin cũng được cho là có liên quan dến ung thư vòm
họng, dạ dầy.
• Giảm thiểu các loại thức ăn nướng, quay, hun khói. Các loại
thức ăn trực tiếp với lửa và những thực phẩm chiên, xào lâu hoặc
với độ nóng cao trên 250o dù với mở động vật hay với dầu thực vật
đều có thể sinh ra những chất độc hại dễ dẫn đến ung thư. Khi chiên
các loại thực phẩm, nên loại bỏ phần dầu thừa bằng cách dùng giấy
thấm chuyên dụng của nhà bếp để thấm qua một lần trên những
thức ăn vừa chiên xong.
• Giảm bớt việc ăn các loại thịt đỏ như thịt bò, thịt ngựa, thịt
cừu. Thống kê của tổ chức y tế thế giới cho biết bệnh tim mạch và
ung thư thường tỷ lệ thuận với việc ăn nhiều các loại thịt đỏ. Chẳng
hạn ung thư ruột dễ xuất hiện ở các cộng đồng ăn thịt nhiều ở Bắc
Mỷ và Tây Âu hơn là những vùng ăn chay ở Ấn độ. Dân Scotland
ăn thịt bò nhiều hơn 20% so với người Anh cũng có tỷ lệ ung thư
ruột cao nhất thế giới. Các chuyên viên tại viên ung thư Dana
Farber ở Mỷ đã tiến hành khảo sát 1009 bệnh nhân ung thư ruột già

giai đoạn 3 đã trải qua điều trị phẩu thuật và hoá trị. Kết quả cho
thấy những người ăn nhiều chất béo và thịt đỏ có nguy cơ tái phát
bệnh và tử vong cao gấp 3,3 lần so với những người ăn cá và rau
quả. Đối với người đang được điều trị ung thư tốt nhất là nên chấm
dứt hẳn việc ăn thịt đỏ. Nếu cần ăn chất đạm động vật, chỉ nên ăn
cá và một ít thịt trắng như gà, bồ câu đã bỏ da và nội tạng. Cá là
một nguồn chất đạm dễ tiêu hoá lại chứa nhiều acid béo omega 3.
Người ta khuyên nên ăn cá ít nhất 3 lần một tuần. Cá có tác dụng
giảm trầm uất và điều hoà được lượng cholesterol trong máu. Riêng
với trứng, người ta khuyên không nên ăn nhiều. Đối với người đang
được điều trị ung thư càng không nên ăn. Trứng là một nguồn đạm
động vật có hàm lượng cholesterol rất cao. Ăn trứng nhiều cũng có
liên quan đến các bệnh ung thư ruột, ung thư vú và ung thư tiền liệt
tuyến.
Ngòai ra, chế độ ăn uống phòng chống ung thư cũng bao gồm những
khuyến cáo thông thường của một chế độ ăn uống lành mạnh như
không ăn mặn, ăn ít đường, ít mở, hạn chế bia, rượu, năng vận động
thân thể và duy trì một tinh thần lạc quan và tâm lý thoải mái. Yếu
tố tâm lý luôn được xem trọng trong mọi giai đoạn của bệnh tật.
Stress làm suy giảm hệ miển dịch và làm gia tăng nhu cầu chất
chống oxy hoá. Ngược lại, sự thư giãn và lạc quan giúp điều hoà
nội tiết, nội tạng, gia tăng sức đề kháng và làm giảm nhu cầu chuyển
hoá. Tuy nhiên, một cơn giận có thể chưa đủ để gây ra bệnh tật.
Thỉnh thoảng ăn một bửa ăn thịnh soạn với thịt nướng hoặc vài món
ăn có hoá chất phụ gia cũng khó đưa đến ung thư. Điều quan trọng
là sự hiểu biết và cảnh giác cần thiết trong chế độ ăn uống sinh hoạt
thường nhật để xây dựng được một chính khí đủ mạnh để vượt
thắng những tà khí bất chợt thỉnh thoảng vẫn gặp phải trong cuộc
sống.
Có trường hợp ung thư nào được chữa khỏi chỉ bằng liệu pháp

tự nhiên?
Như đã nói ở phần đầu bài viết, nếu vừa tăng cường được hệ miển
dịch và chống lại sự phát triển của bệnh bằng những chất chống oxy
hoá, vừa chấm dứt việc tiếp xúc với các yếu tố gây ung thư thì việc
khỏi bệnh chỉ là một quy luật tự nhiên. Ngày nay có rất nhiều người
đã tự chữa khỏi bệnh chỉ bằng cách nầy. Tại Việt Nam, thỉnh thoảng
báo chí có đưa tin và bài về những trường hợp cụ thể đã khỏi bệnh ung
thư bằng “gạo lức muối mè”. Trên bình diện quốc tế có lẻ 3 trường
hợp sau đây được nhắc đến nhiều nhất.
• Giáo sư Oshawa (1893-1965) là một người Nhật, ông bị ung thư
phổi và dạ dầy từ năm 17 tuổi. Ông đã tự chữa khỏi cho mình bằng
chế độ ăn uống cân bằng Âm Dương, nhiều ngủ cốc và rau quả toàn
phần không có hoá chất. Sau đó ông đã viết sách và đi nhiều nơi
trên thế giới để diển giảng và quảng bá về cách chữa bệnh nầy. Cần
nói thêm, những lý thuyết về gốc tự do và những chất chống oxy
hoá chưa được đề cập đến trong thời gian nầy.
• Bác sĩ Anthony Sattilaro, một người Mỷ, là Giám Đốc một Bệnh
viện lớn Philadelphia. Ông đã từng bị ung thư di căn đến nhiều bộ
phận trong cơ thể, đã trải qua 3 lần giải phẫu. Ông đã khỏi bệnh
hoàn toàn sau 7 tháng được hướng dẫn điều trị theo cách của ông
Oshawa.
• Ian Gawler là một Bác sĩ thú y người Úc. Ông đã bị ung thư
xương và đã bị cưa chân vào năm 1975 khi ông chỉ mới 25 tuổi.
Vào cuối năm đó, ông bắt đầu một chương trình tự điều trị ung thư
cho mình bằng liệu pháp chỉnh thể của phương Đông dưới hình thức
ăn chay, thái độ sống tích cực, thiền và sinh hoạt nhóm. Đến năm
1978, Gawler hoàn toàn bình phục. Trên cơ sở những kinh nghiệm
của mình, ông đã lập nên nhóm hành động hổ trợ ung thư (Cancer
Support Group). Đến năm l983, tổ chức The Gawler Foundation,
một tổ chức phi chánh phủ, phi lợi nhuận được chính thức ra đời

nhằm tư vấn, giúp đở cho những bệnh nhân, đặc biệt là những bệnh
nhân ung thư. Đến nay trên 50.000 người đã tham dự những
chương trình huấn luyện hoặc giới thiệu về thiền, về lối sống lành
mạnh để phòng bệnh hoặc chữa bệnh của tổ chức nầy.



Chữa ung thư
bằng liệu pháp tự nhiên
Lương y VÕ HÀ
Ung thư không tự nhiên sinh ra, cũng không phát triển thình lình mà
là kết quả của một sự tương tranh dai dẳng giữa hệ miển dịch của
cơ thể đã bị suy yếu và quá trình tiếp xúc lâu dài với các nhân tố gây
ung thư. Do đó chống ung thư cũng phải dựa vào cơ chế đối kháng
nầy. Một mặt tăng cường hệ miển dịch và ngăn chận ung thư bằng
các chất chống oxy hoá từ rau quả và ngủ cốc, mặt khác cần giảm
bớt hoặc chấm dứt hẳn việc phơi nhiễm hoặc tiếp xúc với các yếu tố
gây ung thư.
Tương quan chính và tà trong cuộc chiến chống ung thư trong
cơ thể
Thông thường, các tế bào trong cơ thể đều có một tuổi thọ nhất định
và bị chi phối bởi một quy luật chung. Sinh ra, phát triển và hư hoại.
Khi một tế bào chết đi sẽ được thay thế bởi một tế bào mới sinh ra.
Quá trình phát triển ổn định và có giới hạn nhằm duy trì hoạt động
sống của mọi tổ chức, cơ quan trong cơ thể. Tuy nhiên trong những
trường hợp nhất định, do sức đề kháng của cơ thể suy yếu và dưới tác
động lâu dài của nhân tố gây ung thư, một số tế bào phát triển bất
thường, sinh sôi tràn lan, gia tăng không hạn chế trở thành tế bào ung
thư, khối u ung thư. Tuỳ theo vị trí của khối u, sự phát triển bất
thường nầy có thể xâm lấn, chèn ép hoặc phá huỷ cơ cấu hoặc làm rối

loạn công năng của các cơ quan.
Theo các nhà khoa học, dù chưa xác định được cụ thể nguyên nhân
gây ra ung thư nhưng chúng ta đã biết được hàng loạt nhiều yếu tố
khác nhau có thể dẫn đến ung thư. Những tác nhân gây ra ung thư có
thể là rượu, khói thuốc, bức xạ, ánh nắng mặt trời, đặc biệt là những
thức ăn thức uống bị nhiễm hoá chất độc hại trong quá trình nuôi trồng
hoặc chế biến, vận chuyển, bảo quản. Ung thư phát triển qua nhiều
giai đoạn. Giai đoạn tiềm ẩn có thể kéo dài nhiều năm trời, thậm chí
10 năm, 20 năm hay hơn nửa trước khi khối u to lớn đủ để được phát
hiện. Sự phơi nhiễm các yếu tố gây ung thư cũng không phải trong
một gian đoạn ngắn . Chẳng hạn đối với bệnh ung thư vú, một loại
ung thư thường gặp ở nử giới, Bác sĩ John Muir, một chuyên gia về
ung thư ở Trung Tâm Y khoa Walnut Creek, California cho rằng dinh
dưỡng đóng vai trò quan trọng trong cơ chế sinh bệnh của loại ung thư
nầy và “thực phẩm mà mà người bệnh ăn uống trong khoảng một
năm trước khi được chẩn đoán có thể không có ý nghĩa bằng những
loại thực phẩm mà họ sử dụng trong suốt 10 hay 20 năm trước đó.”
Ngoài ra, những người khoẻ mạnh đều có thể đã trải qua một đôi lần
có sự phát triển rối loạn của những tế bào bất thường –tương tự như sự
phát triển của tế bào ung thư- Tuy nhiên, những lúc đó sức đề kháng tự
nhiên của cơ thể đã vượt thắng, khống chế và tiêu diệt chúng trước khi
những tế bào nầy có điều kiện chuyển biến thành tế bào ung thư.
Những điều trên đã cho thấy ung thư không tự nhiên sinh ra, cũng
không phát triển thình lình mà là kết quả của một sự tương tranh lâu
dài giữa hai thế lực chánh và tà. Chánh là hệ thống phòng vệ của cơ
thể. Tà là chỉ những tác nhân gây ra ung thư. Trong quan hệ giữa
chính khí và tà khí, Đông y cho rằng khi chính khí thắng tà khí tất sẽ
rút lui và con người sẽ không còn bệnh tật. Do đó, nếu ta có thể thông
qua luyện tập dưỡng sinh, thông qua chế độ ăn uống để vừa tăng
cường được chính khí lại vừa giảm bớt hoặc chấm dứt hắn việc bị phơi

nhiễm tà khí thì việc bảo đảm thắng lợi trong cuộc chiến chống ung
thư chỉ là một quy luật tự nhiên.
Tăng cường hệ thống phòng vệ cơ thể bằng chế độ ăn uống có
nhiều chất chống oxy hoá
Trong 2 thập niên qua, các nhà khoa học đã đặc biệt quan tâm đến
những hậu quả của những gốc tự do gây ra cho cơ thể và xem việc bổ
sung những chất chống oxy hoá từ nguồn thực phẩm tự nhiên như là
biện pháp chủ yếu để nâng cao sức miển dịch trong việc phòng chống
bệnh tật bao gồm cả bệnh ung thư.
Cơ chế gây lão hoá và suy giảm hệ miển dịch của những gốc tự
do
Bình thường, oxy tham gia vào quá trình chuyển hoá để tạo ra năng
lượng giúp cơ thể hoạt động. Tuy nhiên có khoảng một vài phần trăm
oxy tham gia vào quá trình này đã không tạo ra năng lượng mà tạo ra
các gốc tự do. Có thể nói gốc tự do là một loại sản phẩm không hoàn
hảo trong chu trình biến dưỡng bình thường của cơ thể. Gốc tự do
càng gia tăng nhiều hơn trong điều kiện ăn uống hoặc sinh hoạt trong
môi trường bị ô nhiễm khói thuốc lá, bức xạ hoặc những hoá chất độc
hại hoặc căng thẳng tâm lý. Về mặt hoá học, gốc tự do là những thành
phần phân tử có những nguyên tử bị thiếu mất l điện tử ở vòng ngoài
cùng. Do đó, phân tử nầy có khuynh hướng di chuyển tự do để chiếm
đoạt một điện tử của một phân tử khác để tự ổn định. Như vậy điều
nguy hiểm của gốc tự do không phải là huỷ diệt tế bào mà là làm tổn
thương tế bào để đến phiên tế bào bị tổn thương -một gốc tự do mới-
lại oxy hoá một tế bào khác và phản ứng dây chuyền cứ tiếp tục xảy
ra. Qua cơ chế nầy, các gốc tự do đã tham gia phản ứng với các chất
hửu cơ gây tổn thương màng tế bào, làm rối loạn quá trình trao đổi
chất giữa tế bào với bên ngoài và nguy hiểm hơn, các gốc tự do có thể
làm thay đổi cấu trúc gen của tế bào. Do đó các gốc tự do là mầm
mống quan trọng dẫn đến nhiều thứ bệnh tật khác nhau như tim mạch,

parkinson, alzheimer và cả ung thư.
Rau quả có màu xanh đậm, vàng hoặc đỏ là nguồn cung cấp
chất chống oxy hoá và ngăn chận ung thư quan trọng
Điều may mắn là thiên nhiên đã có sẳn một cơ chế để kềm hảm sự
phảt triển của những gốc tự do. Đó là những chất chống oxy hoá được
cung cấp từ các loại rau quả và ngủ cốc trong tự nhiên. Có hàng ngàn
chất chống oxy hoá khác nhau. Chúng thuộc 2 nhóm chính, nhóm
flavonoids và nhóm phytochemicals. Những chất chống oxy hoá ngoài
tác dụng trung hoà các gốc tự do bằng cách nhường một điện tử của
mình cho chúng qua đó có thể cắt đứt phản ứng dây chuyền, ngăn chận
tổn thương DNA do các độc chất gây ra còn có thể khống chế sự phát
triển của tế bào ung thư. Càng ngày càng có nhiều nghiên cứu về tác
dụng kỳ diệu của những chất chống oxy hoá. Nhiều sinh tố và khoáng
chất là những chất chống oxy hoá. Các chất quan trọng nhất là sinh tố
A, beta caroten (một sắc tố thực vật sẽ được cơ thể chuyển hoá thành
sinh tố A), sinh tố C, E, khoáng chất selenium. Thứ đến là sinh tố B2,
kẻm, đồng, magnesium, co-enzym Q10, các carotenoids lutein và
lycopen. Nhiều nghiên cứu khác nhau đã cho biết ăn rau quả nhiều có
thể giúp chống lại các loại ung thư, nhất là 2 loại ung thư vú và ung
thư tiền liệt tuyến. Các nhà khoa học đặc biệt lưu ý đến bông cải và
các loại cải bắp. Những loại thức ăn nầy đóng vai trò quan trọng giúp
ngăn ngừa ung thư vú cho những phụ nử sắp mãn kinh. Bông cải có
chứa nhiều sinh tố C, acid folic, potasium, nhiều carotenoids và chất
indole-3-carbinol, một chất cần thiết cho sự chuyển hoá các hormone
sinh dục. Cải bắp có nhiều sinh tố B1, C, E, acid folic, caroten và S-
methylmethionine, một chất có tác dụng kháng viêm. Bông cải và các
loại cải bắp còn có hàm lượng chất isothiocyanates, một loại
phytochemical có tác dụng hoạt hoá một số enzym có khả năng làm vô
hiệu hoá những hoá chất gây ra ung thư. Một báo cáo của trường đại
học Illinois còn cho biết một loại isothiocyanate được tìm thấy trong

các loại bắp cải và bông cải có tên là sulphoraphane có tác dụng ngăn
chận sự phát triển của tế bào ung thư ở giai đoạn cuối. Qua nghiên
cứu chế độ ăn của 20.000 người, những nhà nghiên cứu thuộc viện ung
thư quốc gia Mỷ ở Maryland cho biết những người ăn nhiều bông cải
có thể giảm nguy cơ ung thư tiền liệt tuyến từ 45% đến 52%. Bông
cải, cải bắp, các loại rau xanh, những loại đậu và những sản phẩm từ
đậu nành còn có nhiều acid folic, một chất chống oxy hoá rất thiết yếu
cho cơ thể. Acid folic là một yếu tố quan trọng trong sự phân chia và
phát triển tế bào mới, trong sự tổng hợp DNA, sản xuất enzym và sinh
ra hồng cầu. Acid cũng đặc biệt hiệu quả để chống lại các vết loét
trong giai đoạn tiền ung thư. Về tầm quan trọng của acid folic trong
việc chống ung thư, Tiến sĩ Judith Christman, trường Đại học
Nebraska cho biết “Khi thức ăn thiếu acid folic, cơ cấu DNA của tế
bào sẽ bị phá vở. Lúc đó, các tế bào sẽ phát triển trên cơ sở những
thông tin sai lầm của cấu trúc mới nên ung thư xảy ra.”
Nhiều loại rau qủa khác cũng có tác dụng ngăn chận sự phát triển của
các loại ung thư ruột già, ung thư vòm họng, ung thư phổi hoặc bao
tử. Nhiều nghiên cứu đã đưa đến những kết quả giống nhau về những
loại rau quả, củ có lá màu xanh đậm, màu vàng hoặc màu đỏ như cà
chua, bông cải, cà rốt, sơ ri, gấc , bí đỏ, dưa hấu, khoai lang …Những
loại rau quả nầy đều có khả năng làm giảm nguy cơ các loại ung thư.
Riêng trong quả gấc, những nghiên cứu của công ty San Eigen FFI,
một công ty phẩm màu hàng đầu của Nhật bản đã cho biết ngoài hàm
lượng rất cao chất caroten, gấc còn có tỷ lệ chất lycopen cao gấp 10
lần so với rau quả thông thường. Lycopen có trong cà chua, dưa hấu,
dưa hồng, là hợp chất có tác dụng kềm hảm sự lan toả của tế bào ung
thư.
Những nhà khoa học trường Đại học Ohio, Mỷ còn đặc biệt lưu ý đến
những hợp chất tạo màu sắc sậm trong rau quả. Những thí nghiệm
trên chuột và người đều cho thấy chất tạo màu sẫm có hợp chất

anthocyanin trong các loại rau màu đỏ, màu tía và màu xanh có khả
năng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư. Chẳng hạn, chất
anthocyanin trong cà rốt và củ cải, quả dâu tây có thể làm giảm sự phát
triển của tế bào ung thư từ 50 đến 80%.
Ngoài ra, tập quán uống trà cũng có ảnh hưởng tốt đến việc phòng
chống ung thư. Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Weisburger, cả trà xanh
và trà đen đều có hàm lượng cao những chất phytochemicals là những
chất chống oxy hoá có khả năng hoá giải những gốc tự do và ngăn
chận tổn thương tế bào do khói thuốc lá hoặc những độc chất hoá học.
Mới đây, một thí nghiệm khoa học tại trường Đại học Arizona, Mỷ do
Tiến sĩ Sherry Chow chủ trì cũng cho thấy trà xanh có nhiều hoạt chất
epigallocatechin gallate, một chất chống oxy hoá. Những người uống
từ 8 đến 16 tách trà xanh mỗi ngày có thể bổ sung một lượng chất
epigallocatechin gallate đủ để làm gia tăng đến 80% loại enzym GST,
một enzym có tính năng giải độc và chống ung thư. GST có khả năng
biến đổi những phân tử gây ung thư thành những phân tử trơ không
ảnh hưởng đến chất liệu cấu tạo di truyền DNA. Người ta cho rằng
những dân tộc châu Á như Trung quốc, Nhật bản có tỷ lệ tim mạch và
ung thư thấp hơn so với người Âu Mỷ một phần có thể là nhờ vào tập
quán hay uống trà.
Vậy liệu ăn bao nhiêu thì đủ. Theo khuyến cáo của các chuyên viên
dinh dưỡng Liên Hiệp Quốc, mỗi người nên ăn khoảng 400g rau quả
mỗi ngày. Ngoài ra, điều cần lưu ý là giá trị của các loại rau quả
khác nhau không chỉ ở chủng loại mà còn ở cách trồng trọt, chăm
bón và cả qúa trình chế biến . Một nghiên cứu kéo dài 10 năm của
các nhà khoa học trường Đại học California, Mỷ đã cho biết cà chua
được chăm bón bằng phân hửu cơ theo lối truyền thống có hàm lượng
hợp chất flavonoids, một chất chống oxy hoá, cao gấp 2 lần so với
cách trồng trọt thông thường hiện nay. (Cách trồng hiện nay thường
xử dụng phân hoá học, thuốc trừ sâu rầy hoặc hoá chất kích thích tăng

trưởng) Ngoài ra, Hội Ung thư quốc gia Mỷ cũng nghiên cứu thấy
những người dùng các loại thực phẩm tự nhiên có chứa các sinh tố
B6, B12 và Folate sẽ giảm nguy cơ ung thư tuỵ tương ứng là 81%,
73% và 52%. Ngược lại những người dùng các viên sinh tố tổng hợp
có các sinh tố trên chẳng những không giảm mà còn tăng nguy cơ ung
thư tuỵ lên đến 139%. Những kết quả nầy cũng phù hợp với những
khuyến cáo cách đây trên 40 năm của Giáo sư Oshawa khi ông đề ra
Macrobiotics, một phương pháp chữa bệnh dưỡng sinh bằng cách ăn
các loại rau quả và ngủ cốc thô không có sự hổ trợ của hoá chất. Như
vậy, cùng một loại rau quả hoặc ngủ cốc, cùng một loại thổ nhưởng,
nhưng kết quả có thể khác nhau, hoặc có lợi hoặc có hại cho sức khoẻ
tuỳ theo quá trình chăm bón, bảo quản, vận chuyển có qua xử lý bằng
các loại hoá chất hay không.
Nguồn năng lượng chánh phòng chống ung thư đến từ ngủ cốc
và các loại hạt toàn phần
Ngủ cốc thô hay còn gọi là ngủ cốc toàn phần là những loại ngủ cốc
còn nguyên phần mài và lớp vỏ ngoài như gạo lức, lúa mạch, bắp
nguyên hạt, bánh mì đen. Ngủ cốc thô nên được dùng để thay thế dần
những loại gạo trắng hoặc thực phẩm tinh lọc như bún, mì, phở, hủ
tiếu, các loại bánh. Ngủ cốc thô là nguồn cung cấp năng lượng ở dạng
carbohydrate phức hợp bao gồm nhiều chất xơ, các sinh tố nhóm B,
khoáng chất và nhiều nguyên tố vi lượng cần thiết cho sức khoẻ. Đối
với tính năng chống ung thư, những nghiên cứu của các nhà khoa học
thuộc trường Đại học London cho biết chế độ ăn nhiều các loại đậu và
ngủ cốc thô có giá trị chống ung thư là do những thức ăn nầy chứa
nhiều hợp chất Inositol Pentakisphosphate có tính năng ức chế được
enzym phospho inositide 3-kinase vốn thúc đẩy sự phát triển các khối
u ung thư. Chất xơ có nhiều trong hạt và ngủ cốc toàn phần cũng có
giá trị đặc biệt. Chất xơ không bị hoà tan, không được hấp thu , góp
phần tạo ra chất bả có tác dụng kích thích nhu động ruột , thúc đẩy

nhanh sự lưu thông trong ruột già, chống táo bón, làm giảm thời gian
tiếp xúc của các chất gây ung thư với niêm mạc ruột, chất xơ còn có
thể kết dính những chất độc hại để bài tiết theo phân ra ngoài. Do đó
chất xơ cũng góp phần quan trọng trong việc phòng chống ung thư.
Đối với nguồn chất đạm, các nghiên cứu về dinh dưỡng khuyên nên
dùng các loại đậu như đậu đen, đậu xanh, đậu đỏ, đậu Hoà lan, đặc
biệt là đậu nành. Đậu toàn phần là nguồn thực phẩm giàu chất đạm dễ
chuyển hoá lại chứa nhiều chất xơ, nhiều sinh tố nhóm B, khoáng chất
và những chất chống oxy hoá isoflovonoids góp phần chống lại các
bệnh ung thư.
Ngoài ra, thực đơn phòng chống ung thư còn xử dụng một số loại hạt
và quả hạch như quả óc chó , hạt lanh, hạt hạnh nhân, hạt dẻ, hạt mè,
hạt bí rợ, hạt hướng dương. Những loại hạt nầy là một nguồn cung
cấp năng lượng dưới dạng acid béo hửu ích. Trong nhiều loại hạt nầy
có chứa oestrogen thực vật thường gọi là lignan có tác dụng thu nhỏ
khối u ung thư. Một báo cáo tại cuộc hội thảo về ung thư vú vào tháng
12/2000 tại San Antonio, Mỷ đã cho biết các bệnh nhân ung thư vú
dùng 25g hạt lanh mỗi ngày trong khỏang 38 ngày đã có tác dụng làm
thu nhỏ khối u ung thư rõ rệt tương tự như những người đã dùng thuốc
tamoxifen. Ngoài oestrogen thực vật, các loại hạt nhiều chất béo còn
cung cấp chất xơ, nhiều chất chống oxy hoá như selenium,
magnesium, sinh tố E và acid béo omega 3 có lợi cho hoạt động của
tim mạch và hệ thần kinh. Cần dùng nhiều loại hạt cũng như nhiều
loại đậu và rau quả, củ khác nhau nhằm tạo sự đa dạng sinh học để đáp
ứng đủ những nhóm chất cần thiết cho nhu cầu biến dưỡng của cơ thể.
Liều các loại hạt và quả hạch được đề nghị là khoảng 25g đến 30g mỗi
ngày. Với chế độ dinh dưỡng lành mạnh, không dùng thịt cá, các
nguồn thực phẩm chủ yếu được khuyến cáo ở tỷ lệ 50% ngủ cốc, 20%
đậu, phần còn lại là rau quả, củ.
Giảm bớt hoặc chấm dứt hẳn việc tiếp xúc với các yểu tố gây

ung thư hoặc làm suy giảm hệ miển dịch
Việc tăng cường sức phòng vệ cơ thể thông qua những loại thực
phẩm có nhiều chất chống oxy hoá chỉ có ý nghĩa thiết thực khi được
thực hiện song song với những biện pháp nhằm giảm việc tiếp xúc với
các yếu tố gây ung thư hoặc làm gia tăng các gốc tự do trong cơ thể.
• Không hút thuốc. Thuốc lá là nguồn cung cấp những gốc tự do
lớn nhất. Có hàng ngàn chất độc hại trong những điếu thuốc lá.
Một so sánh còn nói rằng hút một hơi thuốc còn độc hại hơn gấp
600 lần so với hít phải một hơi khói thải từ xe cộ. Hút thuốc không
những gây hại cho bản thân mà còn làm khói thuốc lan toả có hại
cho những người chung quanh.
• Không ăn các loại thực phẩm để qua đêm. Các loại thức ăn, thức
uống thiu, ôi có nhiều nấm mốc có thể tiết ra độc tố aflatoxin dễ dẫn
đến ung thư.
• Tránh ăn các loại thực phẩm đã qua chế biến với các phụ gia,
hoá chất, các loại đồ hộp, nước uống đóng chai. Các hoá chất
nitrits, nitrats hoặc bất cứ loại nào khác được xử dụng để làm cho
thực phẩm lâu hư, thêm độ dai, dòn, chất tẩy trắng hoặc chất tạo
màu đều là những tác nhân dễ dẫn đến các loại ung thư miệng, ung
thư thực quản, dạ dầy. Những loại dưa muối thường có hàm lượng
cao chất nitrosamin cũng được cho là có liên quan dến ung thư vòm
họng, dạ dầy.
• Giảm thiểu các loại thức ăn nướng, quay, hun khói. Các loại
thức ăn trực tiếp với lửa và những thực phẩm chiên, xào lâu hoặc
với độ nóng cao trên 250o dù với mở động vật hay với dầu thực vật
đều có thể sinh ra những chất độc hại dễ dẫn đến ung thư. Khi chiên
các loại thực phẩm, nên loại bỏ phần dầu thừa bằng cách dùng giấy
thấm chuyên dụng của nhà bếp để thấm qua một lần trên những
thức ăn vừa chiên xong.
• Giảm bớt việc ăn các loại thịt đỏ như thịt bò, thịt ngựa, thịt

cừu. Thống kê của tổ chức y tế thế giới cho biết bệnh tim mạch và
ung thư thường tỷ lệ thuận với việc ăn nhiều các loại thịt đỏ. Chẳng
hạn ung thư ruột dễ xuất hiện ở các cộng đồng ăn thịt nhiều ở Bắc
Mỷ và Tây Âu hơn là những vùng ăn chay ở Ấn độ. Dân Scotland
ăn thịt bò nhiều hơn 20% so với người Anh cũng có tỷ lệ ung thư
ruột cao nhất thế giới. Các chuyên viên tại viên ung thư Dana
Farber ở Mỷ đã tiến hành khảo sát 1009 bệnh nhân ung thư ruột già
giai đoạn 3 đã trải qua điều trị phẩu thuật và hoá trị. Kết quả cho
thấy những người ăn nhiều chất béo và thịt đỏ có nguy cơ tái phát
bệnh và tử vong cao gấp 3,3 lần so với những người ăn cá và rau
quả. Đối với người đang được điều trị ung thư tốt nhất là nên chấm
dứt hẳn việc ăn thịt đỏ. Nếu cần ăn chất đạm động vật, chỉ nên ăn
cá và một ít thịt trắng như gà, bồ câu đã bỏ da và nội tạng. Cá là
một nguồn chất đạm dễ tiêu hoá lại chứa nhiều acid béo omega 3.
Người ta khuyên nên ăn cá ít nhất 3 lần một tuần. Cá có tác dụng
giảm trầm uất và điều hoà được lượng cholesterol trong máu. Riêng
với trứng, người ta khuyên không nên ăn nhiều. Đối với người đang
được điều trị ung thư càng không nên ăn. Trứng là một nguồn đạm
động vật có hàm lượng cholesterol rất cao. Ăn trứng nhiều cũng có
liên quan đến các bệnh ung thư ruột, ung thư vú và ung thư tiền liệt
tuyến.
Ngòai ra, chế độ ăn uống phòng chống ung thư cũng bao gồm những
khuyến cáo thông thường của một chế độ ăn uống lành mạnh như
không ăn mặn, ăn ít đường, ít mở, hạn chế bia, rượu, năng vận động
thân thể và duy trì một tinh thần lạc quan và tâm lý thoải mái. Yếu
tố tâm lý luôn được xem trọng trong mọi giai đoạn của bệnh tật.
Stress làm suy giảm hệ miển dịch và làm gia tăng nhu cầu chất
chống oxy hoá. Ngược lại, sự thư giãn và lạc quan giúp điều hoà
nội tiết, nội tạng, gia tăng sức đề kháng và làm giảm nhu cầu chuyển
hoá. Tuy nhiên, một cơn giận có thể chưa đủ để gây ra bệnh tật.

Thỉnh thoảng ăn một bửa ăn thịnh soạn với thịt nướng hoặc vài món
ăn có hoá chất phụ gia cũng khó đưa đến ung thư. Điều quan trọng
là sự hiểu biết và cảnh giác cần thiết trong chế độ ăn uống sinh hoạt
thường nhật để xây dựng được một chính khí đủ mạnh để vượt
thắng những tà khí bất chợt thỉnh thoảng vẫn gặp phải trong cuộc
sống.
Có trường hợp ung thư nào được chữa khỏi chỉ bằng liệu pháp
tự nhiên?
Như đã nói ở phần đầu bài viết, nếu vừa tăng cường được hệ miển
dịch và chống lại sự phát triển của bệnh bằng những chất chống oxy
hoá, vừa chấm dứt việc tiếp xúc với các yếu tố gây ung thư thì việc
khỏi bệnh chỉ là một quy luật tự nhiên. Ngày nay có rất nhiều người
đã tự chữa khỏi bệnh chỉ bằng cách nầy. Tại Việt Nam, thỉnh thoảng
báo chí có đưa tin và bài về những trường hợp cụ thể đã khỏi bệnh ung
thư bằng “gạo lức muối mè”. Trên bình diện quốc tế có lẻ 3 trường
hợp sau đây được nhắc đến nhiều nhất.
• Giáo sư Oshawa (1893-1965) là một người Nhật, ông bị ung thư
phổi và dạ dầy từ năm 17 tuổi. Ông đã tự chữa khỏi cho mình bằng
chế độ ăn uống cân bằng Âm Dương, nhiều ngủ cốc và rau quả toàn
phần không có hoá chất. Sau đó ông đã viết sách và đi nhiều nơi
trên thế giới để diển giảng và quảng bá về cách chữa bệnh nầy. Cần
nói thêm, những lý thuyết về gốc tự do và những chất chống oxy
hoá chưa được đề cập đến trong thời gian nầy.
• Bác sĩ Anthony Sattilaro, một người Mỷ, là Giám Đốc một Bệnh
viện lớn Philadelphia. Ông đã từng bị ung thư di căn đến nhiều bộ
phận trong cơ thể, đã trải qua 3 lần giải phẫu. Ông đã khỏi bệnh
hoàn toàn sau 7 tháng được hướng dẫn điều trị theo cách của ông
Oshawa.
• Ian Gawler là một Bác sĩ thú y người Úc. Ông đã bị ung thư
xương và đã bị cưa chân vào năm 1975 khi ông chỉ mới 25 tuổi.

Vào cuối năm đó, ông bắt đầu một chương trình tự điều trị ung thư
cho mình bằng liệu pháp chỉnh thể của phương Đông dưới hình thức
ăn chay, thái độ sống tích cực, thiền và sinh hoạt nhóm. Đến năm
1978, Gawler hoàn toàn bình phục. Trên cơ sở những kinh nghiệm
của mình, ông đã lập nên nhóm hành động hổ trợ ung thư (Cancer
Support Group). Đến năm l983, tổ chức The Gawler Foundation,
một tổ chức phi chánh phủ, phi lợi nhuận được chính thức ra đời
nhằm tư vấn, giúp đở cho những bệnh nhân, đặc biệt là những bệnh
nhân ung thư. Đến nay trên 50.000 người đã tham dự những
chương trình huấn luyện hoặc giới thiệu về thiền, về lối sống lành
mạnh để phòng bệnh hoặc chữa bệnh của tổ chức nầy.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×