Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Đề thi học kì 1 môn Ngữ văn 11 năm 2020-2021 có đáp án - Trường THPT Lương Ngọc Quyến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.54 KB, 4 trang )

SỞ GD & ĐT THÁI NGUYÊN
ĐỀ KIỂM TRA HỌC KÌ I NĂM HỌC 2020 - 2021
TRƯỜNG THPT LƯƠNG NGỌC QUYẾN
Môn: Ngữ văn lớp 11
Đề kiểm tra có 02 trang
Thời gian làm bài: 90 phút, khhông kể thời gian phát đề
Họ và tên………………………………Lớp……….
Số báo danh…………………
PHẦN I: ĐỌC - HIỂU (4,0 điểm)
Anh/Chị hãy đọc bài thơ sau và trả lời các câu hỏi từ câu 1 đến câu 4:
Những mùa quả mẹ tôi hái được
Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng
Những mùa quả lặn rồi lại mọc
Như mặt trời, khi như mặt trăng
Lũ chúng tơi từ tay mẹ lớn lên
Cịn những bí và bầu thì lớn xuống
Chúng mang dáng giọt mồ hơi mặn
Rỏ xuống lịng thầm lặng mẹ tơi
Và chúng tơi một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ mong chờ được hái
Tơi hoảng sợ, ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh.
(Mẹ và quả - Nguyễn Khoa Điềm - Thơ Việt Nam 1945 - 1985, NXB Văn học, Hà Nội, 1985)
Câu 1: Chỉ ra các phương thức biểu đạt có trong bài thơ.
Câu 2: Từ "quả" trong những câu thơ nào được dùng với ý nghĩa tả thực? Từ "quả" trong
những câu thơ nào được dùng với ý nghĩa tượng trưng?
Câu 3: Xác định 02 biện pháp tu từ được tác giả sử dụng trong bốn dòng đầu của bài thơ
trên. Nêu tác dụng của hai biện pháp tu từ đó.
Câu 4: Nhận xét của anh/chị về tư tưởng của tác giả thể hiện trong hai dịng thơ cuối (trình
bày bằng một đoạn văn ngắn từ 5 đến 7 câu).
“Tôi hoảng sợ, ngày bàn tay mẹ mỏi


Mình vẫn cịn một thứ quả non xanh”.
PHẦN II: LÀM VĂN (6,0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về đoạn văn sau:
“...Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt. Bởi
vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự
nhiên cho cái gì. Hắn vẫn phải dọa nạt hay là giật cướp. Hắn phải làm cho người ta sợ. Hắn
nhìn bát cháo bốc khói mà bâng khng. Thị Nở thì chỉ nhìn trộm hắn rồi lại toe tt cười.
Trơng thị thế mà có dun. Tình u làm cho có dun. Hắn thấy vừa vui vừa buồn. Và một
cái gì nữa giống như là ăn năn. Cũng có thể như thế lắm. Người ta hay hối hận về tội ác khi
không đủ sức mà ác nữa. Thị Nở giục hắn ăn nóng. Hắn cầm lấy bát cháo đưa lên mồm. Trời
ơi cháo mới thơm làm sao! Chỉ khói xơng vào mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm. Hắn húp


một húp và nhận ra rằng: những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo
hành ăn rất ngon. Nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm mùi vị cháo?
(.....)
Bát cháo húp xong rồi, thị Nở đỡ lấy bát cháo và múc thêm bát nữa. Hắn thấy mình
đẫm bao nhiêu mồ hơi. Mồ hơi chảy ra trên đầu, trên mặt, những giọt to như giọt nước. Hắn
đưa tay áo quệt ngang một cái, quệt mũi, cười rồi lại ăn. Hắn càng ăn, mồ hôi lại càng ra
nhiều. Thị Nở nhìn hắn, lắc đầu, thương hại. Hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm
nũng với thị như với mẹ. Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập
đầu, rạch mặt mà đâm chém người? Đó là cái bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi, hay
trận ốm thay đổi hắn về sinh lí cũng thay đổi cả tâm lí nữa? Những người yếu đuối vẫn hay
hiền lành. Muốn ác phải là kẻ mạnh. Hắn đâu còn mạnh nữa. Và có lúc hắn ngẫm mình mà
lo. Xưa nay hắn chỉ sống bằng giật cướp và dọa nạt. Nếu khơng cịn sức mà giật cướp, dọa
nạt nữa thì sao? Đã đành, hắn chỉ mạnh vì liều. Nhưng hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có một lúc
mà người ta khơng thể liều được nữa. Bấy giờ mới nguy! Trời ơi! hắn thèm lương thiện, hắn
muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống n ổn
với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể khơng làm
hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người

lương thiện. Hắn băn khoăn nhìn thị Nở, như thăm dò. Thị vẫn im lặng, cười tin cẩn, hắn
thấy tự nhiên nhẹ người. Hắn bảo thị:
- Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?
Thị khơng đáp, nhưng cái mũi đỏ của thị như càng bạnh ra. Hắn thấy thế cũng khơng
có gì là xấu. Bằng một cái giọng nói và một vẻ mặt rất phong tình theo ý hắn, hắn bảo thị:
- Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.”
Thị lườm hắn. Một người thật xấu khi yêu cũng lườm. Hắn thích chí, khanh khách
cười. Lúc tỉnh táo, hắn cười nghe thật hiền. Thị Nở lấy làm bằng lịng lắm. Bây giờ thì mấy
bát cháo ý chừng đã ngấm. Hắn thấy lịng rất vui...”
(Trích Chí Phèo, Nam Cao, Ngữ văn 11, Tập một, NXBGD Việt Nam, 2020, tr 150 -151)
.......................Hết..........................
Học sinh không được sử dụng tài liệu. Giáo viên coi kiểm tra khơng giải thích gì thêm.


ĐÁP ÁN VÀ THANG ĐIỂM MÔN NGỮ VĂN 11
PHẦN

CÂU

I
1
2
3

4

II

NỘI DUNG


ĐIỂM

ĐỌC - HIỂU
Các phương thức biểu đạt có trong bài thơ: Tự sự, miêu tả, biểu cảm.
- Từ "quả" có ý nghĩa tả thực trong các câu thơ 1,3.
- Từ "quả" có ý nghĩa tượng trưng trong các câu thơ 9,12.
- 02 biện pháp tu từ được tác giả sử dụng trong bốn dòng đầu của bài
thơ:
+ Điệp cấu trúc câu: Những mùa quả mẹ tôi hái được/Những mùa
quả lặn rồi lại mọc.
+ So sánh: Như mặt trời, như mặt trăng.
- Tác dụng: Gợi lên hình ảnh người mẹ tần tảo bao năm sớm hơm
chăm sóc cho vườn quả, cho các con mà không quản nhọc nhằn.
- Hai câu thơ không chỉ hàm ý về lòng biết ơn mà còn là sự ân hận
của một người con về sự trưởng thành chậm trễ của mình. Mình chưa
làm thỏa được niềm vui của mẹ. Đó là suy nghĩ của một người con có
hiếu.
- Hai câu thơ cũng là nỗi lịng của biết bao kẻ làm con nên có sức ám
ảnh, khiến người đọc khơng khỏi trăn trở, tự nhìn lại chính mình.
(Học sinh có thể diễn đạt theo cách khác nhưng phải hợp lí, có sức
thuyết phục)
LÀM VĂN
Cảm nhận của anh/chị về đoạn văn...
1. Đảm bảo cấu trúc của một bài văn nghị luận: Có đầy đủ mở bài,
thân bài, kết luận. Mở bài giới thiệu được tác giả, tác phẩm, vấn đề
nghị luận; Thân bài triển khai được các luận điểm để làm sáng tỏ vấn
đề; Kết bài khái quát được nội dung nghị luận.
2. Xác định đúng vấn đề nghị luận: Sự thức tỉnh, hồi sinh của nhân
vật Chí Phèo khi được Thị Nở quan tâm, chăm sóc.
3. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm: học sinh lựa

chọn các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn
chứng để triển khai vấn đềnghị luận theo nhiều cách nhưng cần làm
rõ những ý sau:
a. Giới thiệu về tác giả Nam Cao và truyện ngắn Chí Phèo.
b. Từ người nơng dân hiền lành lương thiện, Chí Phèo đã bị tha
hóa, trở thành thằng lưu manh, con quỷ dữ của làng Vũ Đại
c. Sự thức tỉnh, hồi sinh của nhân vật Chí Phèo khi được Thị Nở
quan tâm, chăm sóc.
* Nội dung:
- Ngạc nhiên khi thấy Thị Nở đem “một nồi cháo hành còn nóng
ngun” vào.
- Thấy “mắt mình hình như ươn ướt” (xúc động), bâng khuâng vì lần
đầu tiên “hắn được một người đàn bà cho”
- Thấy Thị Nở có duyên
- Có những xúc cảm vừa vui vừa buồn vừa ăn năn
- Thấy cháo hành thật thơm và ngon.
- Thấy lòng thành trẻ con, muốn làm nũng với Thị như với mẹ.
- Hối hận về những việc làm trước kia của mình và mơ hồ nghĩ tới
tình trạng thê thảm của mình trong tương lai.
- Khao khát được làm hòa với mọi người, mong muốn được trở lại
làm người lương thiện. Hy vọng Thị Nở sẽ là người mở đường cho
mình.

4.0đ
0,5
0,75
1,25

1,5


6,0
0,25

0,5
4,5

0,5
0,5
3,0
2,5


- Khao khát hạnh phúc về một mái ấm gia đình: “Giá cứ thế này mãi
thì thích nhỉ ?”, “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”
- Khanh khách cười, cái cười nghe thật hiền, thấy lịng rất vui.
⇒ Sự quan tâm, chăm sóc đầy tình yêu thương của Thị Nở đã giúp
Chí Phèo cởi bỏ cái vỏ “quỷ dữ” để được sống với những xúc cảm
của một con người và khát khao hoàn lương.
* Nghệ thuật:
- Xây dựng nhân vật điển hình trong hồn cảnh điển hình.
- Miêu tả và phân tích diễn biến tâm lý của nhân vật.
- Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, linh hoạt.
- Ngôn ngữ sống động, giản dị.
d. Nhận xét, đánh giá:
- Nam Cao khẳng định sức sống bất diệt của “thiên lương”. Lương
thiện, khao khát hạnh phúc là bản tính tự nhiên, tốt đẹp và mạnh mẽ
của mỗi con người, khơng thế lực bạo tàn nào có thể hủy diệt, ngay
cả khi con người bị tha hóa, đẩy vào con đường lưu manh.
- Đoạn văn đã góp phần thể hiện sinh động tư tưởng của Nam Cao:
tin tưởng vào khả năng cảm hóa của tình người. Sống trên đời cần có

sự quan tâm, chia sẻ và tình cảm u thương giữa con người với con
người. Chỉ có tình người mới cứu được tính người.
=> Giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
4. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về
vấn đề nghị luận.
5. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo đúng quy tắc, quy định trong
tiếng Việt
Tổng điểm toàn bài: Câu I + II = 10,00 điểm

0,5

0,5

0,5
0,25



×