Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Nghiên cứu quy trình lên men kết hợp để sản xuất bào tử nấm Metarhizium và khả năng diệt mối của bào tử nấm qua lây nhiễm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 50 trang )

Phần I
Mở đầu
1.1. Đặt vấn đề
Mối (isoptera) là loài côn trùng có phạm vi phân bố rộng, a nhiệt chúng sống
ở vùng có điều kiện khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Chúng sống trong thân đê,
thân đập, trong rừng, đồi, các thân cây gỗ, đồ dùng bằng gỗ..., khác với nhiều loại
côn trùng đơn sinh mỗi tổ mối là một đơn vị sống hoặc đợc coi là một xã hội
riêng biệt, trong mỗi tổ mối tuỳ theo từng loài có từ vài trăm đến chục triệu con,
chúng sinh sản rất nhanh và có phạm vi phân bố rộng. Trên thế giới đã giám định đợc
trên 2700 loài, ở nớc ta đã giám định đợc 106 loài. Thức ăn chủ yếu của mối là
xenllulo cho nên ngời ta đã khám phá đợc vai trò của mối nh nó giúp cho sự phân
huỷ thảm thực vật nhanh chóng, chúng góp phần cải tạo tính chất vật lí của đất thông
qua việc đào bới thờng xuyên. Ngoài ý nghĩa về mặt tự nhiên mối còn cung cấp
nguyên liệu cho ngành y tế nh làm thuốc chữa bệnh thấp khớp và tổ mối đợc các nhà
kiến trúc s áp dụng trong các công trình kiến trúc.... Nhng xét về tổng thể thì mối vẫn
là loài gây hại. Do mối là côn trùng chuyên dinh dỡng trên các nguồn thức ăn có
chứa xenlullo nên mối gây hại nhà cửa, công trình xây dựng bằng gỗ, đê điều nhng
đặc biệt nguy hiểm hơn mối đợc xem là ẩn hoạ thân đê, đe doạ nghiêm trọng đến
cuộc sống của con ngời. Theo nghiên cứu sơ bộ nớc ta thì sức phá hoại của chúng
thật ghê gớm. Ngoài ra, mối còn phá hại cây công nghiệp và cây hoa màu nh: cao su,
cà fê, chè, bông, cây lạc, sắn... làm cho cây chết hoặc sinh trởng kém, còi cọc từ đó
ảnh hởng đến năng suất, chất lợng cây trồng. Trong các loài mối gây hại phải kể đến
các loài mối nhà Coptotermes, chúng phá hại các trang thiết bị đồ dùng bằng gỗ, đặc
biệt hơn là các di tích lịch sử. Hàng năm mối làm cho hàng chục ngôi nhà và các di
tích lịch sử có nguy cơ bị sụp . Chính vì vậy chúng ta cần phòng và trừ mối.
Hiện nay có nhiều phơng pháp phòng và diệt mối nh phơng pháp hoá học, vật
lý, thủ công Tuy nhiên các ph ơng pháp trên còn tồn tại những hạn chế. Phơng pháp
hoá học do thuốc không thể tác dụng trực tiếp đến tổ mối đợc, khó tìm tổ mối chính,
mùi vị bị mối phát hiện nhanh chóng, chi phí cho mỗi lần nh thế tốn kém, đồng thời
dẫn đến tính kháng thuốc và nguy hiểm hơn là phơng pháp này ảnh hởng trực tiếp tới
sức khỏe con ngời và môi trờng nếu lợng thuốc sau xử lí thừa hoặc phân huỷ không


hết còn tồn d lại. Phơng pháp vật lí gặp khó khăn trong việc xác định tổ mối vì trên
các con đê đập tổ mối thờng nằm sâu trong lòng đất. Hiện nay, một hớng phòng trừ
mối mới đang đợc mở ra đó là biện pháp phòng trừ sinh học, hiện nay phơng pháp
này đã và đang có rất nhiều công trình khoa học ngiên cứu đã chỉ ra rằng mối cũng bị
kí sinh và gây bệnh do nấm (Metarhizium, Beauveria) và vi khuẩn Bacillus,...gây ra.
Trong các chủng vi sinh vật kể trên thì Metarhizium là chủng nấm có hiệu lực diệt
mối mạnh nhất. Mặt khác bào tử nấm có kích thớc bé (trung bình vài
m
à
) chúng lại
không có mùi vị nên mối khó phát hiện. Cơ chế gây hại của bào tử nấm Metarhizium
nh sau: Khi bào tử nấm bám dính trên cơ thể mối, gặp điều kiện thích hợp sau 24 giờ
sẽ nảy mầm thành ống đâm xuyên qua lớp vỏ kitin hút dinh dỡng đồng thời tiết chất
độc giết chết mối. Đây là cơ sở khả năng diệt mối một cách lâu dài, hiệu quả và rất
an toàn đối với môi trờng và con ngời. Đây là một phơng pháp diệt trừ mối rất hay
và đang là một hớng đi mới rất khả thi, tuy nhiên các công trình nghiên cứu trớc chỉ
mới giải quyết ở mức độ hoàn thành một khâu trong cả quá trình. Do vậy để khẳng
định và đánh giá hiệu lực diệt mối của chế phẩm Metarhizium. Vì vậy chúng tôi
quyết định thực hiện đề tài.
Nghiên cứu quy trình lên men kết hợp để sản xuất bào tử nấm Metarhizium và
khả năng diệt mối của bào tử nấm qua lây nhiễm
1.2. Mục đích và yêu cầu
1.2.1. Mục đích:
- Hoàn thành quy trình lên men kết hợp để sản xuất bào tử nấm Metarhizium
(m
4
; m
5
) trong phòng trừ mối.
- Đánh giá khả năng diệt mối bằng trực tiếp và lây nhiễm của chế phẩm

Metarhizium (m
4
; m
5
) sau lên men kết hợp.
1.2.2. Yêu cầu:
- Xác định đợc đặc điểm hình thái của nấm Metarhizium (M
4
; M
5
).
- Quan sát sự phát triển của bào tử nấm Metarhizium trên môi trờng nuôi cấy
kết hợp khác nhau.
- Xác định sự ảnh hởng của các yếu tố: Lợng mẫu, thời gian lên men kết hợp
đến sự hình thành bào tử nấm Metarhizium.
- Thử khả năng diệt mối của bào tử chủng Metarhizium (M
4
; M
5
) sau khi lên men
kết hợp bằng phơng pháp lây nhiễm và trực tiếp.
Phần II
Tổng quan tài liệu
2.1. Giới thiệu về Metarhizium anisopliae Sorok.
2.1.1. Sơ lợc về lịch sử ra đời của Metarhizium.
Từ những năm 70 của thế kỷ xix, các nhà khoa học trên thế giới đã nghiên
cứu và nhận thấy nhiều loại côn trìng bị nhiễm bệnh và chết bởi các chủng vi nấm
thuộc lớp nấm bất toàn (Deutermyceter).
Năm 1878, nhà bác học ngời Nga Metschnhikov trong khi nghiên cứu bệnh
của bọ cứng hại lúa mì để tìm phơng pháp phòng trừ đã phát hiện bệnh nấm xanh

(nấm Entomophthora, nay đổi tên là Metarhizium anisopliae). ông đã cùng ngời
học trò của mình là Isac Craxinstic nghiên cứu môi trờng nuôi cấy loài nấm này cho
việc thử nghiệm hàng nghìn kilogram nấm để tách bào tử thuần khiết và đem thử
nghiệm sâu non bọ đầu dài (Boxthinoderes punctriventric) hại củ cải đờng. Kết quả
là sau khi dùng bào tử và chất bột nền để tung ra đồng ruộng diệt sâu non đã cho hiệu
quả gây chết 55-80% sau 10-14 ngày. Kể từ đó nhiều công trình nghiên cứu lớn, nhỏ
về khả năng ứng dụng Metarhizium cho phòng trừ nhiều đối tợng gây hại khác nhau
đã đợc tiến hành. Cho đến nay đã xác định đợc hơn 200 loài côn trùng là đối tợng tấn
công của loại nấm này trong đó có cả loài mối là loại côn trùng đặc biệt nguy hại đối
với chúng ta.
2.2.2. Đặc điểm hình thái của Metarhizium anisopliae
Metarhizium anisopliae thuộc họ moniliaceae, bộ nấm bông moniliales, lớp
nấm bất toàn Deuteromycetes (Fungi imperfecty), có kiểu phát sinh bào tử trần của
nhóm Hyphomycetes [4]. Trong chi Metarhizium có hai loại nấm đợc xác định nhiều
trong việc kí sinh gây bệnh cho côn trùng đó là Metarhizium anisopliae và
Metarhizium flavoviride.
Nấm Metarhizium có màu lục hoặc xanh lục nên ngời ta gọi là nấm lục cơng.
Đặc điểm hình thái: Sợi nấm phát triển trên bề mặt côn trùng có màu từ trắng đến
hồng, cuống sinh bào tử ngắn, mọc tỏa tròn trên đầu sợi nấm dày đặc. Bào tử trần hình
que 3,5 x 6, 4 x 7,2
m
à
. Màu từ lục xám đến oliu đến lục. Bào tử xếp thành hình chuỗi
khá chặt chẽ và nhìn bằng mắt thờng ngời ta có thể thấy bào tử đợc tạo ra trên bề mặt cơ
thể côn trùng một lớp phấn khá rõ màu xanh lục [14].
Nấm Metarhizium anisopliae có bào tử dạng hình trụ, hình hạt đậu, khuẩn lạc
có màu xanh hoặc hồng. Chúng phát triển nhanh trên môi trờng Czapek- Dox khi
nuôi ở nhiệt độ 28
o
C (nuôi trong tủ định ôn) sau 8 10 ngày nuôi cấy thì khuẩn lạc

có đờng kính 7 - 8,5 cm. Loại nấm Metarhizium anisopliae có hai loài là dạng bào tử
nhỏ và lớn. Tuy nhiên Metarhizium anisopliae là chủng gây bệnh mạnh nhất trên
côn trùng thuộc bộ cánh cứng Coleoptera.
2.1.3. Đặc điểm sinh lý sinh hoá của Metarhizium anisopliae.
Nấm Metarhizium anisopliae sinh trởng rất tốt trên nền cơ chất có kitin,
chúng sống đợc ở nhiệt độ thấp 8
0
C, có biên độ về độ ẩm rộng ở nơi tích lũy nhiều
CO
2
và thiếu O
2
chúng có thể sống tới 445 ngày. ở nhiệt độ nhỏ hơn 10
0
C và lớn hơn
45
0
C thì nấm không thể hình thành bào tử. Nhiệt độ thích hợp cho sự nảy mầm của
bào tử là 28
0
C và pH = 6,8 - 70 hoặc dao động từ 3,3 8,5. Nấm có khả năng phân
giải xenlulose và kitin (lông và lớp vỏ ngoài của côn trùng) [14].
Độc tố diệt côn trùng của nấm: Gồm một số độc tố có tên là DestruxinA, B, C,
hay D. Các ngoại độc tố này là sản phẩm thứ cấp vòng peptit, L-prolyn, L leucine,
anhydrie, L-prolyn, L-valine anhydride và Desmethyl Destruxin B [12].
2.1.4. Cơ chế gây bệnh của Metarhizium
Bào tử nấm phát tán trong gió hoặc lây nhiễm qua tiếp xúc giữa các cá thể
mang mầm bệnh. sau khi bám vào cơ thể côn trùng, gặp ẩm độ nhiệt độ thích hợp
(xâm nhập qua đờng hô hấp) bào tử nấm nảy mầm tiết ra độc tố Destruxin làm tê liệt
hệ thần kinh côn trùng và sử dụng dinh dỡng của côn trùng từ đó làm cho các cơ hệ

cơ quan côn trùng suy yếu dần đi và chết sau 2-5 ngày phụ thuộc vào kích cỡ của côn
trùng. Xác côn trùng chết thờng khô, không có mùi thối. Sau vài ngày sợi nấm sẻ
đâm qua lớp vỏ kitin lại phát tán bào tử ra ngoài và tiếp tục một chu trình gây bệnh
mới với côn trùng kế tiếp.
2.2. Tình hình nghiên cứu sử dụng Mertarhizium trong phòng trừ mối
2.2.1. Tình hình nghiên cứu sử dụng Metarhizium trên thế giới
Những năm cuối của thế kỷ xx, rất nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng
định trong điều kiện tự nhiên vi nấm là một nhân tố gây chết quan trọng đối với
nhiều loài côn trùng. Mỗi nhóm côn trùng có thể bị ảnh hởng bởi một số vi nấm nhất
định. Ngời ta đã xác định hơn 700 loài vi nấm là mầm bệnh cho các loài côn trùng.
Tuy nhiên, căn cứ vào mức độ gây chết, điều kiện nuôi cấy, điều kiện sản xuất và
phổ tác dụng, ngời ta chỉ tập trung nghiên cứu vào 4 nhóm vi nấm: Metarhizium,
Beauveria, Verticilum và Paecilomyces [14], [15].
Metarhizium đợc xác định là mầm bệnh nguy hiểm của hơn 200 loài côn
trùng. Tuy Metarhizium chỉ có 3 loài nhng lại có rất nhiều chủng khác nhau và mỗi
chủng thích nghi cao đối với nhóm côn trùng xác định. Trong nghiên cứu ứng dụng,
vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tuyển chọn đợc các chủng thích nghi, có hiệu lực
cao đối với một nhóm côn trùng xác định (Hanel 1982, Tanada và Kaya 1993) theo
Milner và cộng sự [15].
Những năm gần đây, xuất hiện ngày càng nhiều các công trình nghiên cứu sử
dụng vi nấm để diệt trừ côn trùng, nhất là nghiên cứu sử dụng Metarhizium để phòng
trừ mối. và kết quả là 11 chế phẩm vi nấm diệt côn trùng đã đợc đa vào sử dụng,
trong đó có 3 chế phẩm Metarhizium: chế phẩm BioBlast của Mỹ dùng để diệt mối
đất Đài Loan (Coptotermes formosanus); chế phẩm GreenMuscle của Nam Phi để
diệt châu chấu (Locusts); chế phẩm BioGreen của úc để diệt bọ ngô đầu đỏ (Red-
headed cokchafer).
ở úc, nhóm nghiên cứu thuộc viện nghiên cứu côn trùng của thành phố
Canbera, do tiến sỹ Milner (1998) chủ trì đã nghiên cứu tuyển chọn từ 97 chủng
Metarhizium, phân lập từ các nguồn khác nhau, nhng chỉ có 2 chủng FI-1186 và FI-
610 là có hiệu lực mạnh và ổn định đối với 2 loài mối Nasutitermes exitosus và

Coptotermes lacteus. Họ đã tiến hành hàng loạt thí nghiệm và cho thấy rằng nấm
không lây nhiễm vào các vật chủ bằng con đờng tiêu hóa, mà nó trực tiếp xâm nhập
qua vỏ cơ thể, cho nên cả ấu trùng còn non cũng có thể bị tiêu diệt. Xác mối bị chết
do nấm sẽ khô cứng, đầy sợi nấm trắng, sau đó tạo thành thế hệ bào tử mới màu xanh
đậm. Các bào tử chỉ nảy mầm khi gặp độ ẩm cao và thời tiết thích hợp. Tuy nhiên các
thử nghiệm này mới chỉ đợc thực hiện trong phòng thí nghiệm ở quy mô nhỏ.
Tại Canada, nhóm nghiên cứu do tiến sỹ Bary H.Track (1999) đứng đầu thuộc
phòng thí nghiệm côn trùng học, trờng đại học tổng hợp Toronto đang thử nghiệm
một số chủng nấm Metarhizium để diệt các loài kiến và loài mối Reticulitermes
flavipes (loài mối gây hại nghiêm trọng cho công trình kiến trúc ở thành phố
Toronto). Họ đã phân lập đợc một số chủng vi nấm của loài Metarhizium anisopliae
có hoạt lực cao với mối Reticulitermes flavipes. Họ quan sát thấy bào tử vi nấm bám
lên vỏ cơ thể của mối, mọc xuyên vào các mô và hệ tuần hoàn, rồi giết chết mối
trong vòng 24-48 giờ, tùy thuộc vào liều lợng và tác dụng. Bào tử vi nấm có thể lây
truyền từ cá thể này sang cá thể khác thông qua hàng loạt các hoạt động tiếp xúc trực
tiếp với nhau giữa các cá thể trong quần thể nh việc trao đổi thức ăn, sự tiêu thụ chất
tiết, việc làm vệ sinh cho nhau... Vấn đề đang đợc họ quan tâm là nghiên cứu khả
năng phát hiện và ngăn chặn các con mối đã bị nhiễm bào tử vi nấm của quần thể
mối.
ở Mỹ, tại trung tâm của hiệp hội nghiên cứu mối ngầm Đài Loan, M.
Guadalupe Rojas và cộng sự (2000), đã chứng minh các bào tử của các loài vi nấm
này có thể bám vào vỏ kitin của cơ thể mối Coptotermes formosanus để nảy mầm,
sau đó sợi nấm phát triển đâm xuyên vào cơ thể mối và diệt mối rất tốt. Họ khẳng
định bào tử nấm không độc với ngời, động vật và môi trờng. Hớng nghiên cứu của họ
là sử dụng bào tử vi nấm trộn với diflubensuzon trong các vị trí đặt bả hỗn hợp.
Năm 2002, Tiến sỹ Haimanot Abebe đã tiến hành thử nghiệm bào tử
Metarhizium trên mối Macrotermes subhyalinus ở vùng Lenkemt Zuria (Ethiopia).
Ông đã thử nghiệm bào tử ở ba nồng độ là 4,6; 9,3 và 20 gram bào tử / tổ, các tổ
Macrotermes thử nghiệm có tuổi từ 2 đến 3 năm. Sau 60 ngày thử nghiệm tỷ lệ mối
chết đạt 61%, 64% và 74% ở các nồng độ tơng ứng. Sau 75 ngày tác giả còn quan sát

thấy nấm Xylaria mọc trên các tổ mối đã thí nghiệm.
Tại hội nghị hoá học của mỹ tháng 4/2002 ngời ta đã đa ra và nhất trí là phải
thay thế các phơng pháp phòng trừ mối và côn trùng, hiện nay bằng bã mối và các
chế phẩm sinh học nh vi nấm Metarhizium, beauveria và vi khuẩn bacillus. Chế
phẩm Bio Blast của mỹ do Ecoscience sản xuất bán ra thị trờng dựa vào kết quả thử
nghiệm trên mối Coptotemes fomosanus ở 1000 điểm khắp 11 bang bị mối hại ở nớc
mỹ, chế phẩm này đợc sản xuất theo phơng pháp lên men xốp và đợc sử dụng ở hai
dạng bột mịn và huyền phù, hiện nay ngời ta đang tiến hành nghiên cứu cho thêm
chất phụ gia để tăng tính dính bám và làm sao đa đợc lợng bào tử Metarhizium vào ít
nhất là 10% số cá thể của quần thể mối.
2.2.2. Nghiên cứu ở trong nớc
Việc nghiên cứu nấm gây bệnh trên côn trùng đã đợc các cán bộ khoa học kỹ
thuật ở một số trờng đại học và viện nghiên cứu bắt đầu tìm hiểu và đi sâu nghiên
cứu chúng từ những năm 70 của thập kỷ XX. Theo Phạm Bình Quyền (1994), cơ sở
khoa học của phòng trừ sinh học, phòng trừ tổng hợp là hiểu đúng quy luật cơ chế tự
nhiên của sự điều chỉnh số lợng côn trùng, nhằm sử dụng tối u các cơ chế đó vào việc
hạn chế tác hại do côn trùng gây nên nói chung và mối nói riêng. Tác giả đã phân
tích rất sâu sắc quan hệ giữa vật chủ và vật ký sinh thông qua yếu tố quần thể của vật
chủ và vật ký sinh. Đối với các nhóm côn trùng không có đời sống xã hội, vai trò
điều chỉnh số lợng côn trùng của dịch bệnh thờng chỉ thể hiện khi mật độ quần thể
gia tăng đến mức gần cực đại [12].
Năm 1981 GS.TS Nguyễn Lân Dũng nghiên cứu nấm lục cơng Metarhizium
mô tả hình thái, phân tích cơ chế tác dụng, hớng dẫn cách phân lập, nuôi cấy và ph-
ơng pháp sản xuất sinh khối Metarhizium [4].
Từ năm 1992, Phạm Thị Thùy và cộng sự thuộc viện Bảo vệ Thực vật đã phân
lập, nuôi cấy và thử nghiệm các chủng Metarhizium thuộc 2 loài Metarhizium
anisopliae và Metarhizium flavoviride để phòng trừ cho các loài sâu bọ hại cây
nông, lâm nghiệp bằng phơng pháp phun trực tiếp bào tử Metarhizium trên đồng
ruộng [5], [6], [7], [8].
Năm 1996, Tạ Kim Chỉnh đã phân lập, nuôi cấy một số chủng

Metarhiziumanisopliae và thử nghiệm để diệt châu chấu di c và các loài sâu bệnh hại
cây nông nghiệp. Tác giả cũng thử nghiệm bào tử M. anisopliae trên mối
Coptotermes formosanus và cho biết mối chết do nấm sau 3 ngày là 91,35% ở mật
độ 18 x 10
7
bào tử / ml. Ngoài ra, tác giả còn thử nghiệm trên châu chấu di c
(Locusta mirgratioria) và hiệu quả đạt tới 92,2%.
Năm 1997, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nghiệm thu đề tài: Nghiên cứu vi
nấm Metarhizium ansopliae chống mối hại cây trồng. Trong đó đã phân lập đợc nhiều
chủng nấm có khả năng chống mối quan trọng và đợc bảo quản tại Bảo tàng giống vi
sinh vật của trờng.
Năm 1998 Dơng Ngọc Khê và cộng sự thuộc viện khoa học lâm nghiệp đã
nghiên cứu và tuyển chọn một số chủng nấm Metarhizium để thử khả năng diệt mối
coptotemes fomosanus trong phòng thí nghiệm, các nghiên cứu đã đa ra đợc các chế
phẩm LT
50
, LT
100
, LD
50
, LD
100
của các chủng Metarhizium đã tuyển chọn đối với
Coptotemes fomosanus và cho biết có 3 chủng có hiệu lực diệt mối cao nhất [2]
Phạm Thị Thùy và cộng sự (2002- 2003) đã nghiên cứu sử dụng nấm
Metarhizium anisopliae để diệt bọ hại dừa cho tỉnh Bình Định bằng phơng pháp
phun trực tiếp. Kết quả cho thấy chế phẩm nấm Metarhizium anisopliae đều có hiệu
quả cao với sâu non và trởng thành của bọ dừa, đặc biệt là hiệu quả kéo dài đến 8
tuần sau phun, hiệu quả thể hiện rõ khi cây dừa phục hồi màu xanh trở lại, điểm giá
trị nhất của chế phẩm nấm là hiệu quả kéo dài, nấm không gây ô nhiễm môi trờng và

nguy hiểm đối với con ngời, không làm mất đi những loài kí sinh thiên địch có ích
khác.
Từ năm 1998 đến năm 2002, Trịnh Văn Hạnh và cộng sự ở Trung tâm nghiên
cứu phòng trừ mối đã nghiên cứu tuyển chọn các chủng Metarhizium có hiệu lực cao
để phòng trừ các loài mối gây hại điển hình ở nớc ta, nh loài mối nhà nguy hiểm nhất
Coptotermes formosanus Shiraki; loài mối hại đê Odontotermes hainanensis và loài
mối hại đập Macrotermes annandalei. Khi nuôi cấy trên môi trờng Czapek - Dox và
môi trờng Sabouraud có bổ sung kitin đã thu đợc hàng trăm gram bào tử với khối l-
ợng trung bình từ 1,9 x 10
9
đến 8,25 x 10
10
bào tử/g. Kết quả thử nghiệm trực tiếp và
lây nhiễm đối với mối trong điều kiện phòng thí nghiệm và trên mô hình nh sau [9],
[10].
Từ 23 chủng vi nấm thu thập và phân lập từ các nguồn khác nhau đã tuyển chọn
đợc 9 chủng Metarhizium trong đó có 2 chủng phân lập từ tổ mối chết ngoài hiện trờng
có khả năng gây bệnh làm chết mối trong điều kiện phòng thí nghiệm. Với 3 chủng
chọn lọc có hiệu lực diệt mối cao nhất là M
1
, M
2
, M
3
thì LT
50
đối với mối Coptotermes
formosanus trung bình là 2,6 ngày sau khi nhiễm bào tử Metarhizium.
Bào tử của các chủng M
1

, M
2
, M
3
không chỉ có khả năng diệt mối C.
formosanus khi tiếp xúc trực tiếp mà còn đợc truyền từ cá thể này sang cá thể khác
trong đàn mối, tỷ lệ số cá thể mối bị nhiễm bào tử lúc đầu đóng vai trò quyết định.
Hiệu quả của phơng pháp thử nghiệm diệt mối C. formosanus bằng lây nhiễm
bào tử M
1
rất rõ ràng. Tỷ lệ nhà dân thử nghiệm hết mối đạt gần 90%. Kết quả này
mở ra triển vọng trong việc nghiên cứu sản xuất chế phẩm diệt mối C. formosanus
bằng lây nhiễm thay thế các biện pháp dùng hoá chất nh hiện nay.
Mối cánh O. hainanensis bị chết 100% sau 5 - 10 ngày ở trong đất đã rắc bào
tử M
3
cho phép nghĩ tới khả năng nghiên cứu sản xuất chế phẩm để phun phòng mối
cánh trên mặt đê vào mùa mối bay phân đàn.
Một phần của kết quả nghiên cứu trên đã đợc trình bày tại Hội nghị Quốc tế về
Vi sinh vật tại Bangkok, Thái Lan tháng 7 / 2000.
Năm 1997 đại học quốc gia hà nội đã nghiệm thu đề tài nghiên cứu vi nấm
Metarhizium anisopliae chống mối hại cây trồng. Trong đó đã phân lập đợc nhiều
chủng nấm có khả năng chống mối quan trọng và đợc bảo quản tại bảo tàng giống vi
sinh vật của trờng.
Đã có nhiều công trình đi sâu nghiên cứu về hoạt tính của Enzym ngoại bào
của các chủng nấm Metarhizium nh là:
- Năm 1995 tác giả Smithson S.L và cộng sự đã nhân vô tính và đặc trng của
gen mã hoá enzym Protease phân giải cutin từ nấm gây bệnh cho côn trùng
Metarhizium anisopliae [17].
- Năm 2000 tác giả Gillespie J.P; Charnley A.K đã nêu vai trò của Protease

phân giải cutin từ nấm gây bệnh cho côn trùng Metarhizium anisopliae. Mở ra hớng
nghiên cứu mới cho công nghệ sinh học trong việc phòng chống bệnh do côn trùng
gây ra [18].
Mới đây, sinh viên Lê Thùy Quyên, trờng i hc Phng ông, đã nghiên
cứu thành công tài: Nghiên cứu công ngh sn xut ch phm nm Metarhizium
anisopliae sorok ng dng phòng tr sâu hại cây trng.
Chế phẩm nấm Metarhizium từ nghiên cứu của Lê Thuỳ Quyên diệt trừ các
loài sâu xanh bớm trắng, sâu khoang ăn lá và đặc biệt là khả năng tiêu diệt đợc một
số loài côn trùng hại cây sống trong đất nh bọ hung, mối đất... ứng dụng thực tế của
nấm Metarhizium để tiêu diệt bọ hung đen ăn mía, mối đất ăn thông trắng, bồ đề, hại
cây điều, cây ăn quả, sâu xanh bớm trắng ăn su hào, bắp cải, sâu khoang hại cà
chua... cho kết quả diệt trừ sâu bệnh hơn 70%.
Một hớng mới đang đợc các nhà khoa học nghiên cứu để sản xuất sinh khối
của nấm Metarhizium trên các nguồn cơ chất rẻ tiền mà vẫn thu đợc sinh khối lớn
[5].
Nghiên cứu sử dụng Metarhizium để phòng trừ mối là một hớng nghiên cứu
đang đợc nhiều nhà khoa học trong và ngoài nớc quan tâm. Các kết quả nghiên cứu
về phân lập, nuôi cấy, tuyển chọn và thử nghiệm bào tử thuần khiết để diệt trừ trực
tiếp một cá thể mối nhất định trong điều kiện phòng thí nghiệm đã làm sáng tỏ cơ
chế gây bệnh và hiệu lực diệt mối cao của nấm đối với mối. Tuy nhiên, điều quan
trọng không chỉ là tuyển chọn đợc các chủng Metarhizium có hiệu lực diệt mối cao
trong phòng thí nghiệm mà còn phải nghiên cứu đợc quy trình lên men để sản xuất
thu bào tử đợc nhiều. Trong quá trình sản xuất thu bào tử phải sử dụng đợc nguồn
nguyên liệu thô, rẻ tiền mà vẫn thu đợc lợng bào tử nhiều từ đó lựa chọn ra đợc môi
trờng thích hợp nhất để sản xuất trên qui mô rộng với một giá thành phải rẻ. Để lựa
chọn đợc quy trình lên men kết hợp thích hơp cho sự sinh trởng và phát triển của các
chủng Metarhizium thì đề tài chúng tôi đáp ứng đợc một phần tuy nhiên để có quy
trình lên men kết hợp thích hơp nhất thì cần nghiên cứu thêm.
2.2. Mối nhà Coptotermes foramsanus Shiraki
Loài mối Coptotermes là giống mối phân bố rộng rãi trên thế giới. Chúng

thuộc họ Rhinotermitidae hay còn gọi là nhóm mối ngầm đô thị (Urban subterranean
termite). Đến nay đã xác định đợc 28 loài thuộc giống mối này [1], [3].
Đặc trng của giống mối này là mối lính có hình ovan hoặc hình trứng. Trên
đầu có một lỗ trán lồi ra phía trớc. Từ đó mối lính tiết ra dịch màu trắng sữa. Dịch
này sẽ chuyển thành một chất co giãn nh cao su khi tiếp xúc với không khí. Râu có
từ 14-16 đốt, tấm lng ngực trớc bằng phẳng. Mối cánh đầu hình trứng, râu có từ
18-23 đốt. Tấm lng ngực trớc hẹp hơn đầu, vẩy cánh trớc hẹp hơn phía cánh sau, gân
cánh hình lới màu nhạt, mặt cánh có lông [1].
Coptotermes là giống mối gây nhiều thiệt hại cho con ngời do khả năng thích
nghi cao với điều kiện môi trờng. Chúng có thể tấn công trực tiếp các vật liệu, đồ dùng
bằng gỗ hoặc đi xuyên qua mạch vữa xi măng mác thấp, đi ngầm dới lớp bê tông, nhựa
đờng vào làm tổ trong các công trình xây dựng, gây ảnh hởng đến sự ổn định, an toàn
và mỹ quan công trình. Vì vậy, mối Coptotermes đợc xếp vào nhóm mối hại công
trình xây dựng (còn gọi là mối nhà). Tuy nhiên, một số loài thuộc nhóm này còn gây
hại cho cây và làm tổ trong thân đê, đập [11].
2.2.1. đặc tích sinh học:
Trong các loài thuộc giống Coptotermes thì Coptotermes formosanus Shiraki
là loài có phân bố rộng nhất trên thế giới. Loài mối này có nguồn gốc từ Đài Loan
(Trung Quốc), làm tổ ngầm trong đất và các cấu trúc khác của công trình, nên còn có
tên gọi chung là mối ngầm Đài Loan (Formosan subterranean termite-FST). Nó đợc
đa vào nhật bản, Guam, Srilanka, Nam Phi và Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ hai,
những chiếc tàu thủy là phơng tiện chở loài mối ngầm này phát tán đi khắp thế giới.
Đến nơi ở mới, nhờ sự thích ứng cao và khả năng sinh sản lớn mối Coptotermes
formosanus đã nhanh chóng phát triển và mở rộng vùng phân bố của mình. Tuy mối
Coptotermes formosanus là một loài bay yếu, nhng với khả năng thay thế mối chúa
và phân đàn nhanh chóng cùng với việc con ngời di chuyển đất vật liệu đã bị nhiễm
mối cũng góp phần tạo ra sự lan tràn trong nội địa của loài mối này.
Phần lớn các đàn mối Coptotermes formosanus làm tổ ngầm dới đất hay trong
các cấu trúc công trình xây dựng. Tổ của chúng khá lớn, xốp thờng có hình nón hoặc
có thể có hình dạng khác phụ thuộc vào vị trí làm tổ, có màu nâu đen hoặc màu xám

tro [1], [3]. Mối sử dụng chất tiết trộn với gỗ vụn và đất làm nguyên liệu xây tổ. Cấu
trúc tổ tuân theo một quy định khá chặt chẽ. Các cột đất đợc xây theo dạng những
cánh sao và đợc nối với nhau một cách tinh vi, thuận lợi cho mối di chuyển, nhng
lại cản trở cho những kẻ muốn xâm nhập. Phía dới đáy tổ, mối tạo ra nhiều phiến
mỏng xếp chồng lên nhau, trên các phiến có những lỗ nhỏ để mối có thể chui qua.
Giữa các phiến là các khe, hốc rỗng, sống ổn định ở một trong những khoang đó, đợc
gọi là hoàng cung. Coptotermes formosanus là loài mối không làm vờn cấy nấm,
nên tổ của chúng có cấu trúc rỗng và đơn giản hơn các loài mối làm tổ có vờn cấy
nấm. Việc điều tiết vi khí hậu trong tổ cũng đơn giản. Chúng tập trung số lợng cá thể
về tổ khi nhiệt môi trờng xuống thấp và phân tán khi nhiệt độ lên quá cao [1].
Hàng năm vào khoảng tháng 4, tháng 5 và tháng 6 có khi sớm hơn đây là lúc
mà thời tiết, cũng nh khí hậu thuận lợi cho mối bay ra giao hoan, đây là khoảng thời
gian mà những tổ mối mới bắt đầu đợc hình thành. Mối thờng bay vào lúc hoàng
hôn, độ ẩm khoảng 95%. Vào mùa mối bay có thể bắt gặp hàng ngàn mối cánh bay ở
ngoài cửa sổ, xung quanh nguồn sáng cố định. Sau một vài giờ bay, chúng hạ cánh
xuống đất hay bất kỳ vị trí nào để tự rụng cánh và cặp đôi. Mỗi tổ Coptotermes
formosanus có số lợng mối cánh trởng thành lớn nhng chỉ có một số ít mối cánh có
thể cặp đôi và xây dựng tổ đợc, số còn lại bị chết hoặc làm nguồn thức ăn cho đối t-
ợng khác.
Coptotermes formosanus thờng chọn nơi có độ ẩm thích hợp, kín đáo và yên
tĩnh bên trong các công trình kiến trúc để làm tổ. Tổ có thể làm sâu trong đất từ
0.5-1.5m. Một số nghiên cứu còn cho biết đã tìm thấy tổ của chúng ở độ sâu 1.8-3m.
Ngoài loại tổ chìm trong đất khá phổ biến, Coptotermes formosanus còn xây dựng tổ
không trực tiếp tiếp xúc với đất, đợc gọi là tổ nổi (Aerial colonies). Khi một cặp mối
cánh thành công trong việc tìm thấy một vị trí thích hợp để xây dựng tổ nh nguồn
thức ăn, độ ẩm trong tòa nhà, chúng bắt đầu hình thành một quần thể mà không cần
liên hệ với đất. Cũng có trờng hợp do một điều kiện bất lợi nào đó (chẳng hạn nh nền
nhà bị ngập nớc), mối di c tổ từ dới đất vào trong kết cấu của công trình xây dựng.
Ngời ta thống kê đợc 25% tổ mối Coptotermes formosanus tìm thấy ở các thành phố
phía đông Nam bang Florida thuộc về loại tổ không tiếp xúc với đất.

2.2.2. Các thành phần đẳng cấp trong tổ mối:
Mối, Ong, Kiến đ ợc xếp vào côn trùng xã hội khác với nhiều loài côn trùng
đơn sinh, mỗi tổ mối là một đơn vị sống hoặc đợc coi là một xã hội riêng biệt trong
mỗi tổ mối tuỳ theo từng loại có từ vài trăm đến hàng chục triệu con. Sỡ dĩ mối đợc
xem nh là con trùng xã hội vì mỗi nhóm cá thể đóng vai trò riêng biệt, đàn mối chỉ
tồn tại khi đủ các nhóm này, mỗi nhóm là một đẳng cấp có chức năng riêng nh xã hội
con ngời, là loại côn trùng có sự phân chia công việc trong đời sống xã hội, tổ chức
theo bản năng, có sự chuyên hoá về hình thái và chức năng.
Mối có hai loại hình lớn: Mối sinh sản và mối không sinh sản mỗi loại hình
này chia ra nhiều đẳng cấp khác nhau.
Mối sinh sản: Loại mối này có thân hình tơng đối lớn nhất là mối chúa có
bụng rất to cơ thể của chúng có cơ quan phát dục hoàn chỉnh gồm mối vua, mối chúa
mối cánh nguyên thủy và mối cánh ngắn hay còn gọi là mối chúa thay thế. Chúng có
chức năng sinh sản hoặc sẽ làm nhiệm vụ sinh sản trong tơng lai.
Các đẳng cấp này có mặt đầy đủ ở các quần thể trởng thành, tỷ số lợng cá thể
của mỗi đẳng cấp thay đổi tùy thuộc vào loài và tuổi đàn mối [1].
Mối cánh có 2 loại: Mối cánh nguyên thủy (còn gọi là mối cánh thực thụ) và
mối cánh ngắn (còn gọi là mối cánh thay thế hay mối cánh bổ sung).
Cơ thể mối cánh nguyên thủy thờng có màu vàng nâu, dài 12- 15mm và có
cánh, mối cánh là do mối non trải qua một số lần lột xác mà thành chúng cũng đi
kiếm ăn nh mối thợ, trên cánh có rất nhiều lông nhỏ và hệ gân cánh đặc trng có thể
dùng để phân biệt với các loài khác, chúng có lớp vỏ bao bọc cơ thể dày nên chúng
có thể sống trong điều kiện khô vài ngày và chúng có khả năng bay giao hoan để tạo
thành tổ mối mới. Hàng năm vào cuối mùa xuân khi áp suất không khí thích hợp,
nhất là vào lúc trớc các cơn ma giông hoặc lúc hoàng hôn, thời điểm các loài động
vật ăn côn trùng ban ngày hoặc ban đêm cha hoạt đi kiếm ăn hoặc đi rất ít. Do vậy
thời điểm này tránh đợc những nguy hiểm đem lại cho chúng, chúng bay ra khỏi tổ
và hớng tới những nơi có ánh sáng, sau 10 đến 15 phút thì rụng cánh và chúng cặp
đôi con đực với con cái, con nọ nối đuôi con kia, con cái đi trớc con đực theo sau,
con cái sẽ dẫn đi tìm một nơi c trú. Nếu thoát đợc nguy hiểm và tìm thấy đợc các vết

nứt do lún hoặc một điểm thích hợp chúng sẽ tạo ra một tổ mới. Một tổ Coptotermes
formosanus trởng thành có thể sinh ra 70.000 mối cánh, nhng thờng chỉ có 1 tỷ lệ ít
mối cánh lập đôi và xây đợc tổ, số còn lại đều bị tiêu diệt bởi những con vật khác nh
tắc kè, nhện, cóc, chim... [3]. Nhiều đôi không bị ăn thịt nhng cũng không tồn tại đợc
do gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình xây tổ nh điều kiện môi trờng, thức ăn, độ
ẩm ở nơi chúng ẩn náu.
Khi đào đợc một khoảng nhỏ cho mình, đôi mối chúa bắt đầu đẻ trứng, mối
chúa có trọng lợng lớn hơn 300 lẫn so với mối thợ, mối chúa đảm nhiệm chức năng
sinh sản chính trong tổ, mối chúa đợc ví nh một cỗ máy đẻ, cả cuộc đời trởng thành
của nó đợc dành cho việc đẻ trứng với nhịp độ hơn 1 quả trong 1 phút. Đợt đầu mối
cái đẻ khoảng 15-30 trứng. Sau khoảng 2-4 tuần trứng nở thành mối non. Mối cánh
sẽ chăm sóc cho mối non đến khi mối non đợc 3 tháng tuổi (sau 3 lần lột xác). Rồi
mối cái mới đẻ tiếp đợt thứ 2, mối non đẻ ra từ những quả trứng này sẽ đợc nhóm
mối đợt đầu trông nom, chăm sóc. Từ đó, mối cái đẻ liên tục nh một cái máy và sau
khoảng 3-5 năm từ một tổ mối ban đầu nh vậy sẽ phát triển thành một tổ mối trởng
thành có tới vài triệu cá thể [3]. Vào giai đoạn này chúng gây thiệt hại lớn cho công
trình xây dựng, nơi chúng làm tổ và những công trình lân cận. Từ đây trong tổ xuất
hiện mối cánh nguyên thủy và mối cánh ngắn.
Mối cánh ngắn đợc coi nh một nguồn hậu bị để sinh sản thay thế cho mối vua
và mối chúa khi cần thiết. Loại mối này cánh bị tiêu giảm, mắt mù và màu sắc cơ thể
nhạt hơn so với mối cánh nguyên thủy. Chúng không bao giờ rời khỏi tổ và chỉ trở
thành các cá thể sinh sản khi mối vua hoặc mối chúa bị chết hoặc không đáp ứng đợc
khả năng sinh sản cần thiết của quần thể. Nhờ sự có mặt của mối chúa thay thế nên
khi một phần quần thể của loài mối này bị tách biệt khỏi cá thể sinh sản nguyên thủy
vẫn có thể sinh sản và tồn tại để phát triển thành tổ mới [1].
Mối không sinh sản: Gồm có hai loại mối thợ và mối lính
Mối thợ (hay còn gọi là mối lao động), cũng từ mối non trải qua 5 đến 7 lần
lột xác mà thành, mối thợ có màu trắng sữa đồng đều từ đầu đến bong, chúng là
thành phần quan trọng trong tổ là đẳng cấp đông nhất chiếm 80-90% số lợng cá thể
của quuần thể mối. Mối thợ gồm mối thợ lớn và mối thợ nhỏ làm nhiệm vụ kiếm

thức ăn, xây tổ và chăm sóc mối vua, mối chúa, mối non, vận chuyển trứng mối...để
duy trì sự sống cho quần thể. Ngoài ra còn một số chức năng nh dự báo thời vụ giao
hoan và thông tin giữa các cá thể.
Mối thợ của loài Reticulitermes fukiensis có tới 5 loại khác nhau: ấu trùng, ấu
trùng lớn, thợ nhỏ, thợ trung bình, và thợ lớn. Nhng ở Coptotermes formosanus chỉ
thấy ấu trùng, mối thợ lớn, mối thợ nhỏ. Mối thợ của loài Coptotermes formosanus
cũng bị mù, tuy vậy chúng di chuyển rất nhanh nhẹn, cơ thể của mối thợ thờng nhỏ,
màu trắng nhạt, chúng làm mọi công việc để duy trì sự phát triển của đàn. Có thể
thấy mối thợ là lực lợng lao động chính trong quần thể Coptotermes formosanus.
Mối thợ có thể sống trung bình khoảng 2- 4 năm [1].
Mối lính (còn gọi là mối bảo vệ): Chiếm 10-15% số lợng cá thể trong quần thể
nối. Đầu của chúng có màu vàng chanh, hình ovan, hàm cong, thân có màu trắng
nhạt. Khi bị tác động cơ học hoặc hóa học chúng thờng tiết ra dịch màu trắng từ lỗ
fontanell ở phía trớc đầu. Tác dụng của chất dịch này có thể gây cản trở sự di chuyển
của vi sinh vật khác, làm yếu sinh vật bị tấn công. Vì vậy chất tiết này có tác dụng tự
vệ. Do sự chuyển hóa, hàm của mối lính Coptotermes formosanus chỉ đợc dùng nh
một thứ vũ khí tấn công kẻ thù. Do đó, mối lính không tự kiếm thức ăn đợc mà cần
phải đợc mối thợ cho ăn. Công việc của mối lính là bảo vệ tổ và bảo vệ đàn mối thợ
khi đi kiếm thức ăn khỏi sự tấn công của các sinh vật khác. ở vị trí đờng mui và hang
giao thông bị vỡ, mối phát các tín hiệu báo động, tập trung mối lính xung quanh, sẵn
sàng tấn công bất kể kẻ nào muốn xâm phạm vào tổ của chúng. Ngoài ra mối lính
còn vây quanh và bảo vệ lỗ vũ hóa khi mối cánh chuẩn bị bay giao hoan. Trong quần
thể Coptotermes formosanus các cá thể thờng xuyên trao đổi thức ăn và các chất tiết,
đây là hoạt động sống bình thờng để tăng cờng hiệu quả sử dụng thức ăn của chúng.
Sự trao đổi thức ăn và chất tiết này gọi là quá trình dinh dỡng tơng hỗ (trophallaxis).
Nhờ quá trình này mà các vi khuẩn cộng sinh trong ruột mối đợc truyền qua nhau
giữa các cá thể mối trong quần thể. Ngoài ra, mối còn có tập tính làm sạch cơ thể của
mỗi cá thể và giữa các cá thể đồng loại với nhau khi trên cơ thể có vật lạ bị phát hiện
[3].
Mối Coptotermes formosanus là loài có số lợng cá thể khá lớn so với nhiều

loài mối khác. Su. N-Y và R.H. Scheffrahn (1998) đã sử dụng phơng pháp thả ra bắt
lại các cá thể đánh dấu để nghiên cứu số lợng cá thể trong 7 tổ mối Coptotermes
formosanus ở vùng Đông Nam Bruward của nớc Mỹ với diện tích 800.000m
2
. Kết
quả cho thấy số lợng cá thể của 7 tổ mối dao động trong khoảng 1,4 - 6,8 triệu con,
lớn hơn rất nhiều so với loài làm tổ chìm khác nh Hetrotermes aureus là 20.000 cá
thể, Reticulitermes flavipes là 200.000 cá thể, Microtermes sp là 50.000 cá thể. Chỉ
có loài Macrotermes darwinensis là có số lợng tơng đơng 7x10
6
cá thể. Bên cạnh
việc xác định số lợng cá thể, nghiên cứu của Su. N-Y và R.H. Scheffrahn cũng xác
định đợc sinh khối của 7 tập đoàn Coptotermes formosanus nói trên. Tập đoàn có
sinh khối lớn nhất là 34.3kg và tập đoàn có sinh khối nhỏ nhất là 4.5kg .
Phạm vi kiếm thức ăn của một tổ mối Coptotermes formosanus cũng đã đợc
nhiều tác giả đề cập đến. Theo King và Spin (1969), Lai (1997), Li và cộng sự
(1967), loài Coptotermes có thể đi kiếm thức ăn theo một quãng đờng dài tới hơn
100m so với vị trí làm tổ. Su. N-Yvà R.H. Scheffrahn cũng xác định chiều dài của
quãng đờng kiếm ăn và phạm vi phân bố của 7 tập đoàn nghiên cứu. Tập đoàn đi
kiếm ăn xa nhất là 115m với diện tích vùng kiếm ăn là 3.571m
2
, tập đoàn đi kiếm
thức ăn gần nhất là 43m với diện tích vùng kiếm ăn là 162m
2
. Nghiên cứu của
Thosmas G.Shelton đã xác định vùng kiếm thức ăn của một tập đoàn rộng tới 16.150
m
2
[20].
2.2.3. Vai trò của mối đối với đời sống con ngời

2.1.3.1. Lợi ích của mối
Mối cũng nh nhiều loài côn trùng cũng đóng vai trò quan trọng mang lại nhiều
lợi ích cho con ngời và môi trờng tự nhiên. Kết quả nghiên cứu của một số nhà khoa
học cho thấy: Narariff (1931) quan sát ở ăngola thấy sự hình thành đá ong có sự
tham gia của mối, ở Trinidad cũng thấy mối Nasutitermet có liên quan với đá
lateritic (Grifith, 1953). Các đá ong này ở châu phi kết thành từng mảng lớn. Quan
sát ở Xuđăng, Erhart (1951-1953) nhận thấy trong quá trình hình thành đá Lateritic
có sự tác động của mối đối với đất rừng.
Một trong những đặc điểm có lợi dễ nhận thấy của mối là ăn những chất có
hàm lợng xenlulose cao giúp phân giải thảm thực vật trong rừng. Sự hoạt động của
chúng là điều kiện rất tốt cho tự nhiên. Thứ nhất chúng giúp dời chuyển từ bề mặt đất
các xác chết và thối rữa của thực vật, biến chúng thành những phần đơn giản không
có mùi vị khó chịu và tẩy trừ chất có hại cho môi trờng và con ngời. Thứ hai chúng
giữ một phần rất quan trọng là phân giải xác động vật, thực vật thành chất đơn giản
có thể đợc sử dụng thành nguồn dinh dỡng cho thực vật phát triển chính vì vậy ngời
ta ví mối nh một ngời dọn dẹp trong tự nhiên[1].
Bên cạnh những lợi ích phân giải xenlullo thì chúng làm tơi xốp những phần
đất cứng bằng việc mang chúng lên bề mặt, đặt chúng ra phơi nắng thông qua việc
đào bới làm đờng hầm. Một số lợng lớn các đờng hầm, đờng mui nổi do mối tạo ra
đã làm thuận tiện cho việc thông khí trong đất việc này rất cần thiết cho sự phát triển
của thực vật. Mối có thể đào sâu từ 1.5 đến 3m điều này rất cần sự vận động mao dẫn
của đất. Xác mối chết và các sản phẩm phụ của chúng rơi xuống đất làm đất tơi xốp
[3].
ở Burkinafaso đất nông nghiệp đã bạc màu trơ cứng ra nh đá, ngời dân trộn
mối với phân hữu cơ và nhào vào các lỗ đào trên mặt đất, từ đó mối sẽ tạo ra vô số
hầm hào dới lòng đất giúp đất dẫn nớc tốt hơn trong mùa ma, các nhà khoa học đã đi
sâu nghiên cứu phần nội tạng của mối và đã phân tích kỹ thấy bộ máy tiêu hoá của
mối chiếm 70% trọng lợng cơ thể, hoạt động giống nh nhà máy hoá chất, khi làm tổ
mối giữ lại vật chất hữu cơ làm cho quá trình khoáng hoá chậm lại và các hợp chất
khó phân huỷ sẽ phân huỷ dễ dàng hơn, giúp cho cây trồng hấp thụ tốt hơn, cấu trúc

của tổ mối giúp cho đất đai bào mòn ít hơn và ngăn ngừa rửa trôi tốt hơn
Ngoài ra mối còn có tác dụng khác nh:
Mối có hàm lợng dinh dỡng rất cao, do vậy hiện nay trên thế giới đã có một số
nghiên cứu sử dụng mối làm thức ăn và chữa bệnh (mối cánh ngâm rợu chữa bệnh
thấp khớp). Tại bờ biển ngà ngời ta lấy tổ mối gồm hỗn hợp đất, nớc bọt và phân của
mối đợc dùng làm bột chỉnh hình chữa sai khớp, ngời dân ở đây cũng dùng hỗn hợp
này để làm thuốc chữa bệnh thuỷ đậu và bệnh quai bị. ở Benin, mối còn là món ăn a
thích rất đợc trẻ em a chuộng. Hiện nay, ngời ta còn thu bắt và nuôi mối để làm thức
ăn cho gà, chim...
Mối cũng đang là đối tợng nghiên cứu của các nhà khoa học trong việc
khảo sát đánh giá hiệu quả của các biện pháp tác động lên côn trùng xã hội...
Các nhà kiến trúc s đang nghiên cứu tổ mối có cấu trúc thông khí rất tốt,
không khí bên ngoài luồn vào tổ qua các lỗ trên mặt đất, ban đầu không khí se lạnh
lại, sau đó tiếp xúc với bầy mối ở sâu bên trong nên nóng dần lên, nhẹ hơn và thoát
ra ngoài, chính vì vậy tại Mali các đền thờ hồi giáo đợc xây dựng theo thiết kế rất
giống với cấu trúc tổ mối.
Hiện nay các nhà khoa học đang đi sâu phân tích và làm rõ thành phần vi sinh
vật của mối để từ đó phân lập ra đợc những vi sinh vật có ích để tạo ra chế phẩm sinh
học trong việc xử lí rác thải có hàm lợng xenlullo cao, một cách an toàn, mang lại
hiệu quả cao và nhanh nhất.
Đối với các nhà địa chất thì qua phân tích đất của các tổ mối đùn từ dới lòng
đất độ sâu 20m nên cứ quan sát ngời ta có thể tìm thấy các khoáng chất và kim loại
quý.

×