BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
ĐINH THỊ PHƢƠNG THU
TƢ TƢỞNG THÂN DÂN
TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
TỪ THẾ KỈ X ĐẾN HẾT THẾ KỈ XVII
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
(Chuyên ngành Văn học Việt Nam)
HÀ NỘI - 2020
ii
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
ĐINH THỊ PHƢƠNG THU
TƢ TƢỞNG THÂN DÂN
TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
TỪ THẾ KỈ X ĐẾN HẾT THẾ KỈ XVII
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9.22.01.21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
(Chuyên ngành Văn học Việt Nam)
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS Lã Nhâm Thìn
HÀ NỘI – 2020
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai cơng bố trong cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Đinh Thị Phƣơng Thu
iv
LỜI CẢM ƠN
Tơi xin đƣợc bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy GS.TS. Lã Nhâm Thìn đã
ln tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo rất nhiều để tơi hồn thành luận án này.
Tơi cũng xin cảm ơn những nhận xét, góp ý của các nhà khoa học, của các thầy cô
trong Bộ môn Văn học trung đại Việt Nam, Khoa Ngữ văn, Phòng Sau Đại học, Ban
Giám hiệu trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho tôi học tập và thực
hiện luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới gia đình, bạn bè cũng nhƣ các thầy cơ,
đồng nghiệp, Bộ môn Khoa học Xã hội, Ban Giám hiệu trƣờng THPT Chuyên Khoa
học Tự nhiên, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội nơi tơi
đang cơng tác vì đã ln động viên và ủng hộ tơi để tơi hồn thành cơng trình này.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Đinh Thị Phƣơng Thu
v
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .........................................................................................................iii
LỜI CẢM ƠN ...............................................................................................................iv
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ VẤN
ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .................................................................................7
1.1. Giới thuyết khái niệm dân và tƣ tƣởng thân dân .................................................7
1.1.1. Giới thuyết khái niệm dân .....................................................................................7
1.1.2. Giới thuyết khái niệm tƣ tƣởng thân dân ...............................................................9
1.1.3. Tiêu chí xác định tƣ tƣởng thân dân trong tác phẩm văn học ...............................11
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ...........................................................................13
1.2.1. Nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân từ góc độ tƣ tƣởng, triết học, lịch sử liên quan
tới đề tài ...........................................................................................................................13
1.2.2. Nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân trong văn học ........................................................15
Tiểu kết chƣơng 1 .........................................................................................................21
Chƣơng 2. NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG
VĂN HỌC TỪ THẾ KỶ X ĐẾN HẾT THẾ KỶ XVII .........................................23
2.1. Tiền đề lịch sử, xã hội của tƣ tƣởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X
đến hết thế kỉ XVII ........................................................................................................23
2.1.1. Lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc .........................................................23
2.1.2. Chế độ giáo dục, khoa cử ......................................................................................26
2.2. Tiền đề tƣ tƣởng, văn hóa của tƣ tƣởng thân dân trong văn học từ thế kỉ
X đến hết thế kỉ XVII ....................................................................................................28
2.2.1. Tín ngƣỡng bản địa và văn hóa dân gian...............................................................28
2.2.2. Nho giáo và tƣ tƣởng thân dân ..............................................................................32
2.2.3. Phật giáo và tƣ tƣởng thân dân ..............................................................................34
Tiểu kết chƣơng 2 .........................................................................................................37
Chƣơng 3. TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG VĂN HỌC TỪ THẾ KỈ X
ĐẾN HẾT THẾ KỈ XIV ..............................................................................................38
3.1. Khái quát về tƣ tƣởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam .................38
3.2. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thời Lí ............................................................42
3.2.1. Trọng dân và hƣớng tới ƣớc nguyện của ngƣời dân .............................................42
3.2.2. Ý thức về trách nhiệm trƣớc ngƣời dân .................................................................47
vi
3.3. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thời Trần .......................................................53
3.3.1. Lấy dân làm gốc và khoan thứ sức dân trong thời Thịnh Trần .............................54
3.3.2. Thƣơng xót ngƣời dân và xót xa trƣớc thế sự trong văn học thời Vãn Trần........63
Tiểu kết chƣơng 3 .........................................................................................................79
Chƣơng 4. TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG VĂN HỌC THẾ KỶ XV .........81
4.1. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học nửa đầu thế kỷ XV........................................81
4.1.1. Thƣơng dân, đề cao vai trò sức mạnh của ngƣời dân trong văn học thời khởi
nghĩa Lam Sơn .................................................................................................................81
4.1.2. Ý thức về trách nhiệm của kẻ sĩ đối với ngƣời dân ...............................................89
4.1.3. Tƣ tƣởng thƣơng dân, trọng dân và ơn dân trong sáng tác của Nguyễn Trãi .......92
4.2. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học nửa cuối thế kỷ XV .......................................103
4.2.1. Tƣ tƣởng thân dân thể hiện qua tinh thần ca ngợi cuộc sống thái bình, trăm
họ yên vui ........................................................................................................................103
4.2.2. Tƣ tƣởng thân dân thể hiện qua tinh thần tự răn mình của đấng qn vƣơng:
Kính trời, thƣơng dân; trên dƣới đồng lòng, xã tắc bền vững .........................................110
Tiểu kết chƣơng 4 .........................................................................................................114
Chƣơng 5. TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG VĂN HỌC TỪ THẾ KỶ XVI
ĐẾN HẾT THẾ KỶ XVII...........................................................................................116
5.1. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thế kỉ XVI ......................................................116
5.1.1. Tƣ tƣởng thân dân trong sáng tác văn học của Nguyễn Bỉnh Khiêm ...................116
5.1.2. Tƣ tƣởng thân dân trong sáng tác văn học của Phùng Khắc Khoan .....................126
5.2. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thế kỉ XVII ....................................................134
5.2.1. Tƣ tƣởng trọng dân, thƣơng dân ............................................................................135
5.2.2. Cách nhìn lịch sử theo quan điểm của nhân dân, phù hợp với đạo lí, chính
nghĩa ................................................................................................................................143
Tiểu kết chƣơng 5 .........................................................................................................144
KẾT LUẬN ...................................................................................................................146
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CƠNG BỐ CĨ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN........................................151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................152
PHỤ LỤC TÁC GIẢ, TÁC PHẨM THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN .....165
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Về khoa học
Tƣ tƣởng thân dân là một tƣ tƣởng lớn trong lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam. Nhận
thức về vai trò, sức mạnh của dân đối với sự tồn vong, phát triển của mỗi quốc gia, dân
tộc và định ra những đƣờng lối chính trị, chính sách xã hội tiến bộ theo hƣớng thân dân
là một quá trình lâu dài trong lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam. Tƣ tƣởng “Thân dân”, “Lấy
dân làm gốc” cũng là một bài học chính trị và lời dặn dị q báu của ơng cha ta thể
hiện ở các triều đại trong lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc mấy nghìn năm của dân tộc
đồng thời khơng ngừng đƣợc kế thừa, phát triển và biến đổi phù hợp với thực tiễn đất
nƣớc ta. Tƣ tƣởng thân dân chiếm vị trí quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến đƣờng lối
chính trị của mỗi triều đại, mỗi chế độ, trong qua khứ cũng nhƣ trong hiện tại.
Tƣ tƣởng thân dân đƣợc phản ánh trong văn học trở thành nội dung lớn của văn
học Việt Nam, từ văn học dân gian đến văn học hiện đại. Nền văn học Việt Nam, do
hồn lịch sử đặc biệt, đã ln gắn bó máu thịt với vận mệnh đất nƣớc, với số phận con
ngƣời Việt Nam. Từng bƣớc đi của lịch sử dân tộc, từng niềm vui, nỗi buồn đau của đất
nƣớc, từng giọt nƣớc mắt hay nụ cƣời trong mỗi số phận nhân dân,... đều trở thành cảm
hứng sáng tác của nhiều tác giả. Vận mệnh dân tộc và vận mệnh nhân dân là những
nhân tố đƣợc quan tâm phản ánh trong sáng tác văn chƣơng. Ở từng thời kì lịch sử,
nƣớc và dân ln gắn bó mật thiết với nhau: có dân, dựng nƣớc, giữ nƣớc thắng lợi,
khơng dân nƣớc suy, nƣớc mất; dân là công dân trong quan hệ dân nƣớc, dân còn là con
ngƣời trong quan hệ dân - cộng đồng ngƣời. Tƣ tƣởng thân dân do đó là đạo lí và cũng
là thành phần của lí tƣởng thẩm mĩ dân tộc - một trong những thành phần cao đẹp có vị
trí lớn đối với văn học mn đời.
Tƣ tƣởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam có những đặc điểm riêng so
với văn học hiện đại. Trải qua quá trình phát triển thăng trầm của các triều đại phong
kiến, các thế hệ Nho sĩ trí thức trung đại đã tiếp thu nguồn ảnh hƣởng của hệ tƣ tƣởng
Nho, Phật, Đạo đồng thời kết hợp với tinh thần dân tộc, tinh thần thời đại để đem đến
cho văn học những màu sắc phong phú của tƣ tƣởng thân dân. Tƣ tƣởng thân dân trong
văn học trung đại từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII phản ánh những vấn đề lớn của lịch sử
tƣ tƣởng Việt Nam, văn học Việt Nam. Tìm hiểu tƣ tƣởng thân dân góp phần tìm hiểu
2
sâu hơn những vấn đề về tác giả, tác phẩm, những qui luật phát triển của văn học trung
đại Việt Nam.
Với những ý nghĩa đó, luận án lựa chọn đề tài Tƣ tƣởng thân dân trong văn học
trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII. Đề tài của chúng tôi vừa kế thừa
thành quả từ những cơng trình đi trƣớc vừa hứa hẹn mang đến một cái nhìn hệ thống về
đặc điểm diện mạo, sự tiếp nối và mở rộng, sự tiếp nhận tinh hoa văn hóa nƣớc ngồi và
yếu tố nội sinh trong tƣ tƣởng thân dân ở các thế kỷ đầu của nền văn học viết Việt Nam.
1.2. Về thực tiễn
Văn học trung đại đƣợc giảng dạy với số lƣợng lớn ở nhà trƣờng từ phổ thơng
đến đại học, đặc biệt là nhóm tác phẩm văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII liên
quan đến vấn đề tƣ tƣởng thân dân. Đề tài có ý nghĩa thiết thực trong việc vận dụng vào
thực tiễn dạy - học và tiếp cận văn bản tác phẩm văn học trung đại.
Với xã hội, ngƣời dân là vấn đề lớn của lịch sử, đồng thời là vấn đề quan trọng
đƣợc quan tâm trong đời sống của đất nƣớc, đời sống xã hội hiện nay. Đề tài từ góc độ
văn học góp phần lí giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Nhân dân vừa là chủ thể
lịch sử, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Vì vậy, bất cứ một giai cấp cầm quyền
nào muốn duy trì đƣợc sự ổn định của mình thì phải gắn bó với dân, phải có chính sách
dƣỡng dân, giáo dân phù hợp. Điều này đã đƣợc chứng minh qua hàng ngàn năm lịch
sử, nếu đƣợc dân tin, dân theo, thì chính quyền sẽ bền vững, quốc gia đƣợc củng cố,
hƣng thịnh.
Quan điểm tích cực của Nho gia “Đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” ln
có giá trị đối với mọi thời đại. Hiện nay, quan điểm “Lấy dân làm gốc” càng đƣợc cụ thể
hóa trong đời sống xã hội thành những phƣơng châm, mục tiêu có ý nghĩa thực tiễn, tiến
bộ nhƣ “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, “dân hƣởng”. Điều đó cho thấy, việc
đánh giá đúng đắn vị trí và vai trị của dân trong lịch sử có ý nghĩa quan trọng đến sự tồn
vong của mỗi hình thái xã hội trong lịch sử, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng,
phát triển đất nƣớc. Với những lý do trên, đề tài có tính cần thiết, thời sự, khoa học và
thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài nghiên cứu là làm nổi bật tƣ tƣởng thân dân trong văn học
trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XVII với sự vận động mang tính lịch sử qua các
3
giai đoạn với những khuynh hƣớng, tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Trong đó, luận án tập
trung phân tích, lý giải căn rễ của tƣ tƣởng thân dân, những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng
thân dân, xác định đặc trƣng cũng nhƣ khả năng tiếp nối, phát triển trong quá trình vận
động của tƣ tƣởng này qua các giai đoạn. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học trung đại Việt
Nam gợi những bài học về tƣ tƣởng thân dân trong thời hiện đại.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, luận án tập trung vào những nhiệm vụ nghiên
cứu chủ yếu:
- Khái niệm dân và tƣ tƣởng thân dân. Tiêu chí xác định tƣ tƣởng thân dân trong
tác phẩm văn học.
- Nghiên cứu những nội dung biểu hiện của tƣ tƣởng thân dân trong từng giai
đoạn văn học với các khuynh hƣớng, tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
- Đánh giá về đặc điểm của tƣ tƣởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam giai
đoạn X - XVII, sự vận động phát triển của tƣ tƣởng thân dân trong tiến trình lịch sử.
- Nghiên cứu những phƣơng diện nghệ thuật thể hiện tƣ tƣởng thân dân khi cần
thiết.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi tƣ liệu khảo sát
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là tìm hiểu tƣ tƣởng thân dân trong văn học
trung đại Việt Nam theo giai đoạn văn học với những khuynh hƣớng, tác giả, tác phẩm
tiêu biểu của văn học trung đại từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII. Ở bốn thế kỷ đầu, chủ
yếu tập trung khảo sát các tác giả thời Lí - Trần (từ sáng tác của các thiền sƣ, vua chúa,
tƣớng lĩnh cho tới sáng tác của các nhà nho, trong đó đi sâu vào hai tác giả Trần
Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh). Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thế kỷ XV thể hiện
qua sáng tác của các nhà văn thời kì khởi nghĩa Lam Sơn, thời Hồng Đức, trong đó tập
trung vào hai tác giả Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học
thế kỷ XVI - XVII biểu hiện ở các tác phẩm thơ, phú thời Lê trung hƣng, thời Mạc, tiêu
biểu là Nguyễn Bỉnh Khiêm; Phùng Khắc Khoan; hai tác phẩm khuyết danh Thiên Nam
minh giám, Thiên Nam ngữ lục,...
3.2. Phạm vi tư liệu khảo sát
Tác giả luận án sẽ khảo sát tập trung những sáng tác của các tác giả thể hiện tƣ
tƣởng thân dân từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII. Các nguồn tƣ liệu chính mà chúng tơi
4
lấy làm căn cứ để sử dụng trong quá trình nghiên cứu là: Thơ văn Lí - Trần [12,13,16];
Tổng tập văn học Việt Nam [116,134]; Nguyễn Trãi toàn tập [94]; Nguyễn Trãi toàn
tập. Tân biên [95,96,97]; Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông [52]; Hồng Đức quốc âm thi tập
[42]; Tuyển tập thơ phú thời Mạc [184]; Toàn Việt thi lục [45]; Thơ văn Nguyễn Bỉnh
Khiêm (Tổng tập) [164]; Phùng Khắc Khoan, Hợp tuyển thơ văn [129]; Thiên Nam ngữ
lục - Diễn ca lịch sử [117]; Thiên Nam minh giám [47]. Ngồi văn học viết luận án cịn
khảo sát thêm cả văn học dân gian.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
4.1. Phương pháp lịch sử
Sự phát triển của tƣ tƣởng thân dân là hiện tƣợng mang tính lịch sử. Để tìm hiểu
thấu đáo tƣ tƣởng thân dân trong văn học nhiều thế kỉ, chúng tôi vận dụng phƣơng pháp
lịch sử. Đặt văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII trong bối cảnh
chính trị, lịch sử Việt Nam thời trung đại để tìm hiểu cách nhìn, cách đánh giá của các tác
giả qua những tác phẩm tiêu biểu đề cập đến tƣ tƣởng thân dân. Phƣơng pháp lịch sử cũng
cho phép chúng tôi nghiên cứu đối tƣợng trong sự phát triển mang tính lịch sử. Vận dụng
phƣơng pháp lịch sử, luận án nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân phát triển qua các giai đoạn với
đặc điểm riêng của từng giai đoạn. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV là giai đoạn đầu tiên định
hình tƣ tƣởng thân dân với thành tựu chủ yếu tập trung ở văn học thời Lí - Trần. Tiếp đến,
tƣ tƣởng thân dân phát triển sang thế kỉ XV với khuynh hƣớng thể hiện mới, đầu thế kỉ tƣ
tƣởng thân dân mang âm hƣởng hào hùng với những tác giả thời khởi nghĩa Lam Sơn, tiêu
biểu là Nguyễn Trãi. Nửa sau thế kỉ XV, tƣ tƣởng thân dân gắn với âm hƣởng ngợi ca về
triều đại hƣng thịnh Lê Thánh Tông. Khi lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam có những
bƣớc chuyển mới ở thế kỉ XVI - XVII theo chiều hƣớng đi xuống, tƣ tƣởng thân dân vì thế
cũng chuyển từ cảm hứng ngợi ca sang phê phán hiện thực xã hội gắn liền với cách nhìn,
quan niệm của nhân dân.
4.2. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Tƣ tƣởng thân dân trong văn học có mối quan hệ tới lịch sử, xã hội, tƣ tƣởng,
văn hóa, triết học... Vì thế, để đƣa ra đƣợc những đánh giá có tính tổng hợp, chúng tôi
cần đến phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành. Những tri thức này rất có ý nghĩa khi
chúng tơi tìm hiểu và lý giải nguyên nhân dẫn đến sự tƣơng đồng, điểm khác biệt về tƣ
tƣởng thân dân trong từng giai đoạn văn học hay ở các tác giả, khuynh hƣớng văn học.
5
4.3. Phương pháp so sánh
Phƣơng pháp so sánh là phƣơng pháp quan trọng không thể thiếu khi nghiên cứu
về tƣ tƣởng thân dân. Trong luận án, ngƣời viết sử dụng phƣơng pháp so sánh để đối
chiếu lịch sử với văn học; so sánh các giai đoạn văn học; so sánh các tác gia văn học và
chủ đề, thể loại văn học. Từ đó, chỉ ra sự tiếp nối và phát triển của tƣ tƣởng thân dân
qua các giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII.
4.4. Phương pháp hệ thống
Luận án vận dụng phƣơng pháp hệ thống để xác định tƣ tƣởng thân dân: thứ
nhất, xem xét vận động của tƣ tƣởng thân dân không chỉ qua văn học mà qua các yếu tố
khác nhƣ triết học, lịch sử, văn hóa,… từ đó thấy tƣ tƣởng thân dân là vấn đề có tính
lịch sử chịu chi phối, tác động của nhiều yếu tố khác nhau; thứ hai là nghiên cứu hệ
thống hóa các tác giả, tác phẩm, thể loại - quá trình tiếp thu, tiếp nối, tƣơng tác lẫn nhau
và mở rộng tƣ tƣởng thân dân ở các bình diện. Với quan điểm hệ thống, hƣớng nghiên
cứu của luận án là khai thác nội dung tƣ tƣởng và khi cần có thể chú ý tới khía cạnh
thẩm mỹ, hình ảnh, biểu tƣợng, hệ thống, điển tích, điển cố, văn liệu liên quan đến các
cấp độ Dân - Thân dân và “Tƣ tƣởng thân dân”.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án đƣợc hồn thành sẽ có những đóng góp sau:
- Xác lập và phân tích những tiền đề của tƣ tƣởng thân dân trong văn học từ thế
kỉ X đến hết thế kỉ XVII
- Làm sáng rõ sự vận động mang tính lịch sử của tƣ tƣởng thân dân trong văn
học thế kỉ thứ X - hết thế kỉ XVII, sự kế thừa, tiếp nối và phát triển của tƣ tƣởng thân
dân qua các giai đoạn thế kỉ X - thế kỉ XIV; thế kỉ XV; thế kỉ XVI - thế kỉ XVII. Phân
tích nội dung tƣ tƣởng thân dân ở từng giai đoạn, ở một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
- Từ tƣ tƣởng thân dân, luận án góp phần làm rõ hơn một số vấn đề mang tính
quy luật trong sự phát triển của văn học trung đại Việt Nam.
- Luận án là tài liệu tham khảo có ý nghĩa và thiết thực đối với công việc nghiên
cứu, giảng dạy văn học trung đại Việt Nam, đồng thời có thể hữu ích với những ngƣời
làm công tác xã hội quan tâm tới tƣ tƣởng thân dân.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án
gồm 5 chƣơng:
6
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và một số vấn đề liên quan đến đề tài
Chƣơng 2: Những tiền đề của tƣ tƣởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X đến hết thế
kỉ XVII
Chƣơng 3: Tƣ tƣởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV
Chƣơng 4: Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thế kỉ XV
Chƣơng 5: Tƣ tƣởng thân dân trong văn học từ thế kỉ XVI đến hết thế kỉ XVII
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Giới thuyết khái niệm dân và tƣ tƣởng thân dân
1.1.1. Giới thuyết khái niệm dân
Dân là một khái niệm rất cơ bản trong lịch sử tƣ tƣởng chính trị - xã hội. Chữ
dân民 trong lịch sử Hán ngữ đã có một q trình chuyển biến lâu dài qua các thời kỳ.
Theo giáp cốt văn: chữ này phần trên là hình một con mắt, phần dƣới là một vật nhọn
nhƣ kim đâm mù mắt. Dân là ngƣời bị đâm mù một mắt, nghi là gốc từ chữ Manh盲
cũng nghĩa là ngƣời mù. Vì sao Dân lại mù một mắt ? Họ hoặc là kẻ có tội, hoặc là tù
binh chiến tranh, hoặc là nô lệ của giai cấp thống trị. Bọn thống trị chọc mù một mắt đề
phòng họ bỏ trốn. Theo Quách Mạt Nhƣợc, thời cổ, chữ Dân 民 và chữ Thần 臣đều là
con mắt nhƣng hình tƣợng Thần là con mắt đứng, cịn hình tƣợng chữ Dân là con mắt
nằm ngang bị đâm thủng (vì ngƣời cổ xƣa hết sức coi trọng mắt). Mắt đứng (thần) biểu
thị sự cúi đầu nghe lệnh, thần phục; còn mắt ngang biểu thị sự chống lại mệnh lệnh, nên
phải chọc mù mắt,… Sang thời Tây Chu, chữ Dân chuyển nghĩa thành ngƣời dân bị
thống trị, có nghĩa “nhân dân”, “bách tính”. Nghĩa Dân bị mù một mắt dần mất đi.
Trong các sách từ điển tiếng Việt, cách nêu khái niệm dân của mỗi cuốn từ điển
có sự khác nhau. Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu (1942) nghĩa của từ dân đƣợc
chiết tự nhƣ sau: dân có nghĩa là ngƣời, dân, lồi ngƣời thuộc ở dƣới quyền chính trị
gọi là dân nhƣ: quốc dân - dân nƣớc. Trong cuốn Từ điển tiếng Việt (do Lê Văn Tân
chủ biên, Nxb Khoa học Xã hội, 1976) có nêu khái niệm dân với năm nghĩa nhƣ sau:
Từ dùng để gọi chung ngƣời trong một nƣớc: nhƣ Dân Việt Nam; Quần chúng đơng đảo
gồm có: cơng nhân, nơng dân, nhân dân lao động trong một nƣớc có bóc lột; Quần
chúng đơng đảo nói chung; Cơng dân trong một địa phƣơng: Dân Hà Nội; Những ngƣời
thuộc một tầng lớp xã hội;
Trong Từ điển tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên - 1994) nêu khái niệm dân với
ba nghĩa: Ngƣời sống trong một khu vực địa lý hành chính, trong quan hệ với khu vực
ấy (Ví dụ: Dân giàu nƣớc mạnh; Làm dân một nƣớc độc lập; Thành phố đông dân);
Ngƣời dân thuộc tầng lớp đông đảo nhất, trong quan hệ với bộ phận cầm quyền, bộ
phận lãnh đạo hoặc quân đội. Ví dụ: Ngƣời dân thƣờng; tình qn dân; Ngƣời cùng
8
nghề nghiệp, hoàn cảnh... làm thành một lớp ngƣời riêng (Ví dụ: Dân thợ, dân bn,
dân ngụ cƣ).
Để làm rõ khái niệm dân một cách thấu đáo hơn, chúng tôi trở về với quan niệm
của Nho giáo. Trong quan niệm của các nhà nho, dân bao gồm nhiều giai tầng khác
nhau, và về cơ bản, họ có cùng địa vị kinh tế, vai trò xã hội, là bộ phận nhiều nhất trong
dân cƣ, đối lập với tầng lớp khác - tầng lớp trị dân (gồm vua, quan). Khổng Tử, Mạnh
Tử, Tuân Tử luôn khẳng định địa vị xã hội của ngƣời dân là những ngƣời nô lệ, bị trị,
họ luôn chịu sự sai khiến, cai trị của tầng lớp thống trị. "Dân khả sử do chi, bất khả sử
tri chi" (Luận ngữ, Thái Bá) - (Dân, có thể khiến họ đi theo con đƣờng của chúng ta,
chứ không thể khiến họ biết đó là vì sao) [27, tr.56] là mang ý nghĩa nhƣ vậy.
Dân có khi đƣợc gọi là kẻ “lao lực”, tức là những ngƣời lao động chân tay, lực
lƣợng sản xuất ra của cải để duy trì tồn tại của xã hội, của mỗi ngƣời và của cả tầng lớp
thống trị. Có khi là kẻ “thứ dân”, “hạ dân”, “dã dân” - những ngƣời dân lao động
thuộc tứ dân bách tính bình thƣờng trong xã hội. Tuy nhiên, cũng trong quan điểm của
Mạnh Tử, ông lại gọi ngƣời bị điều khiển, bị sai khiến, dân là “lê dân” (dân đen), “xích
tử” (con đỏ) để nói về ngƣời dân nghèo khổ. Khái niệm dân dần đƣợc mở rộng hơn để
chỉ bề tôi, tức thần dân trong thiên hạ, đối lập với nhà vua. Họ cịn đƣợc gọi là “bá
tính”, “thiên hạ”, tức là tất muôn dân, trăm họ sống trong cõi trời đất này: “Chƣ hầu chi
bảo tam: Thổ địa, nhân dân, chính sự. Bảo châu ngọc giả, ƣơng tất cập thân” (Một vị
vua chƣ hầu nên quý trọng ba việc này: Thổ địa, nhân dân và chính sự. Nếu chê ba điều
ấy mà quý trọng châu ngọc, ắt thân mình phải vƣớng lấy tai ƣơng” [27,tr.270].
Từ khái niệm dân theo nghĩa gốc Hán và Nho giáo, ta thấy chữ dân và Nhân Dân
ngày nay đã đƣợc mở rộng nội hàm khái niệm, tƣơng đƣơng với chữ People trong tiếng
Anh, dùng để chỉ một tập hợp những ngƣời sống trong một nƣớc. Nó là số nhiều khơng
xác định của chữ Person (cá nhân). Bản Hiến pháp Mỹ mở đầu là 3 từ “We The
People…”. Dù People vẫn là khái niệm chƣa rõ ràng, song 3 chữ đặt ở vị trí đặc biệt
này cho thấy một hàm ý trang trọng, đề cao.
Ở thời kì hiện đại, dân là một khái niệm có tính chất chính trị, khơng phải là thực
thể. Dân bao gồm mọi tầng lớp trong xã hội, đối tƣợng chiếm số đông nhất vẫn là tầng
lớp nhân dân lao động - những ngƣời tạo ra của cải vật chất để duy trì đời sống xã hội,
họ có sức mạnh to lớn trong mọi lĩnh vực của quốc gia dân tộc. Tƣ tƣởng về dân cũng
có bƣớc tiến mới gắn liền với tƣ tƣởng dân chủ; phƣơng châm xây dựng một xã hội
9
cơng bằng, đất nƣớc do dân làm chủ, vì dân, lấy dân làm gốc. Tƣ tƣởng về dân gắn liền
với việc duy trì và bảo vệ Tổ quốc, gắn bó và hòa quyện với tƣ tƣởng yêu nƣớc, với thực
tiễn của công cuộc bảo vệ và xây dựng, phát triển quốc gia về mọi mặt.
Từ những điều đã trình bày ở trên, tác giả luận án xin rút ra mấy điểm chung về
khái niệm dân (ở đây là trong thời trung đại, bởi tƣ tƣởng “thân dân” mà luận án nghiên
cứu gắn với thời này) với ý nghĩa khoa học sau: Dân là một khái niệm xuất hiện và tồn
tại khi xã hội có giai cấp, có nhà nƣớc, dùng để chỉ những ngƣời lao động bình thƣờng,
đơng đảo, khơng có chức quyền và tƣơng phản với những ngƣời cầm quyền ở các địa
bàn lãnh thổ, các nghề nghiệp khác nhau trong lĩnh vực sản xuất vật chất và hoạt động
tinh thần của một xã hội nhất định. Do đó, khái niệm dân mang màu sắc và ý nghĩa
chính trị khá rõ rệt, phần nào phản ánh đƣợc các mối quan hệ xã hội. Trong xã hội
phong kiến, tuy không cịn bị xem là những cơng cụ lao động biết nói nhƣng dân vẫn
nằm trong điạ vị phụ thuộc mà chế độ phong kiến Trung Quốc gọi là “thần dân”. Nghĩa
đen của từ này chỉ ngƣời bề tôi, phải chịu sự khuất phục, chịu sự chi phối và phụ thuộc
của nhà vua và dĩ nhiên, theo trật tự xã hội, thần dân vẫn phải xếp dƣới tầng lớp quan
lại. Điều này không phải ở phƣơng Đông mà dƣới chế độ phong kiến ở các nƣớc
phƣơng Tây, tình hình này cũng diễn ra tƣơng tự. Thần dân, tiếng Pháp là Sujets (nghĩa
đen là thuộc, là phải phục tùng), tiếng Anh là Subjet (là khuất phục, là bắt phải chịu).
Theo tiếng Nga là люди (nghĩa là chịu, bị, ngả theo). Trong xã hội hiện đại, vai trò của
ngƣời dân mới đƣợc nhận thức đầy đủ hơn. Ngƣời dân đƣợc đặt trong mối quan hệ về
mặt quyền lợi và nghĩa vụ với nhà nƣớc. Ngƣời dân có quyền bầu cử, bầu ra những
ngƣời xứng đáng vào bộ máy nhà nƣớc, có thể đại diện cho quyền lợi của mình thì khi
đó dân mới có tƣ cách là cơng dân.
1.1.2. Giới thuyết khái niệm tư tưởng thân dân
Xuyên suốt hệ thống tƣ tƣởng quan điểm trong các sách kinh điển của nho gia ta
thấy có một điểm chung là đề cao ý nghĩa, vai trò quan trọng của dân, dân là thần dân
nên cần đƣợc chăm lo, dạy dỗ. Điều đó tạo nên giá trị nhân văn của tƣ tƣởng thân dân.
Các nhà nho quan niệm dân là những ngƣời “lao lực”, họ là lực lƣợng to lớn trong xã
hội, lực lƣợng chủ yếu sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Bởi vậy cho nên, ngƣời
cầm quyền phải quan tâm đến đời sống vật chất, đến những nhu cầu tối thiểu, thiết
thực, trực tiếp của ngƣời dân. Khổng Tử khuyên nhà cầm quyền phải giúp cho dân làm
giàu, muốn cai trị dân nhà cầm quyền cần phải có ba điều kiện này: “Túc thực, túc bình,
10
dân tín chi hỷ” (Lƣơng thực cho đủ để ni dân, binh lực cho mạnh để bảo vệ dân, lòng
tin cậy của dân đối với mình) (Luận ngữ) [27,tr.184]. Trong ba điều ấy Khổng Tử xếp
lòng tin là điều quyết định, rồi đến lƣơng thực và binh lực.
Nho giáo đề cao dân trong quan niệm coi dân còn là gốc nƣớc, là nền tảng, là cơ
sở của nền chính trị: “Dĩ dân vi bản” - (Khổng Tử), “dân vi bang bản” (Mạnh Tử).
“Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân là đáng quý nhất, xã tắc sau dân, vua
xem nhẹ hơn (dân và xã tắc) [27,tr.262]. Đây là tƣ tƣởng tiến bộ, đặc biệt là đối với một
xã hội mấy ngàn năm sống dƣới sự ngự trị của các triều vua. Cũng từ quan niệm này,
các Nho gia đều cho rằng, lòng tin của dân, sự ủng hộ của dân quyết định sự thịnh, suy,
tồn vong của một triều đại hay nền chính sự. Mạnh Tử đã nêu lên một tƣ tƣởng rất tiến
bộ và đi trƣớc cả thời đại ông: “Kiệt, Trụ chi thất thiên hạ giã, thất kỳ dân giã. Thất kỳ
dân giã, thất kỳ tâm giã. Đắc thiên hạ hữu đạo: Đắc kỳ dân, tƣ đắc thiên hạ hỹ. Đắc kỳ
dân hữu đạo: Đắc kỳ tâm, tƣ đắc dân hỹ. Đắc kỳ tâm hữu đạo: Sở dục, dữ chi tụ chi: Sở
ố, vật thi nhĩ dã.” (Kiệt và Trụ mất thiên hạ tức mất ngơi thiên tử, ấy vì mất dân chúng.
Mất dân chúng, ấy vì mất lịng dân. Muốn đƣợc thiên hạ, có một phƣơng pháp nên theo:
Hễ đƣợc lòng dân, tự nhiên sẽ đƣợc dân chúng. Muốn đƣợc dân chúng, có một phƣơng
pháp nên theo: dân muốn việc gì nhà cầm quyền nên cung cấp cho họ; dân ghét việc gì
nhà cầm quyền đừng thi thố cho họ” (Mạnh Tử) [27, tr.18]. Tuân Tử lấy hình ảnh ẩn dụ
“thuyền” và “nƣớc” để nêu bật sức mạnh của nƣớc, cũng là khẳng định vai trò to lớn
của dân trong việc ổn định xã hội: “Quân giả chu dã, thứ nhân giả thủy dã; thủy tắc tái
chu, thủy tắc phúc chu” (Vua là thuyền, dân là nƣớc; nƣớc có thể chở thuyền, nƣớc có
thể lật thuyền” (Tuân Tử) [88, tr.121].
Trong lịch sử tƣ tƣởng chính trị Trung Quốc cổ đại, có hai khái niệm “thân dân”
và “tân dân”, trong đó chữ tân có khi là viết tắt của chữ thân. “Tân dân” là giác ngộ dân
chúng để dân chúng đổi mới; “Thân dân” là làm cho dân giàu có, an thuần. Vấn đề làm
cho dân giàu có và vấn đề giáo dục dạy dỗ dân chúng là hai vấn đề song song, Thƣợng
Thƣ, Kinh Thi, Quản tử, Luận ngữ, Đổng Trọng Thƣ đề cao “tiên phú hậu giáo” (trƣớc
làm cho dân giàu, sau giáo dục dân, đi từ phú đến giáo, với các khái niệm dƣỡng dân,
khang dân, dụ dân, bảo dân, thứ chi - phú chi - giáo chi); Giản Nghị nhấn mạnh trƣớc
giáo dục, sau làm cho dân giàu. Chu Hy nhấn mạnh “nội thánh” (bậc đế vƣơng phải
gƣơng mẫu đạo đức, “tu kỉ” để giáo dục dân chúng, minh minh đức), còn Vƣơng
Dƣơng Minh chú ý đến “ngoại vƣơng” (bậc đế vƣơng phải “an bách tính”). Khổng Tử
11
nêu rõ các phép tắc của ngƣời cai trị thiên hạ, trong đó ơng đặc biệt nhấn mạnh lịng
nhân đức, từ ái đối với dân “Tử thứ dân, tắc bá tính khuyến” (Mình thƣơng dân chúng
nhƣ con, thì bá tính rủ nhau phục tùng theo mệnh lệnh mình). (Luận ngữ) [27, tr. 252].
Mạnh Tử tiếp nối tƣ tƣởng của Khổng Tử, ơng giải thích rõ hơn chính sách giáo dân:
“Thiện chính bất nhƣ thiện giáo chi đắc dân giã. Thiện chính, dân úy chi; thiện giáo,
dân ái chi. Thiện chính, đắc dân tài; thiện giáo đắc dân tâm” (Lời nói có nhân làm cho
ngƣời ta cảm động chẳng sâu xa bằng danh tiếng có nhân. Cai trị giỏi thâu hoạch dân
chúng chẳng bằng giáo hóa hay. Cai trị giỏi khiến dân sợ sệt; giáo hóa hay làm cho dân
yêu mến. Cai trị giỏi làm cho dân đƣợc giàu có no đủ; giáo hóa hay thì đƣợc lịng dân)
[27, tr.224]. Tƣ tƣởng thân dân đó gắn với chủ nghĩa nhân đạo và có nhiều điểm tiến bộ
so với thời đại.
Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm tƣ tƣởng thân dân, luận án đề xuất nội hàm cơ bản
của khái niệm tƣ tƣởng thân dân nhƣ sau: Tƣ tƣởng thân dân đƣợc hiểu là quan niệm,
nhận thức về dân, cách ứng xử với dân theo hƣớng: gần gũi, gắn bó với dân; thƣơng
dân, đề cao sức mạnh của dân (trọng dân), ơn dân. Tính chất phức tạp, nhiều chiều
trong khái niệm tƣ tƣởng thân dân còn thể hiện ở việc xác định chủ thể của tƣ tƣởng
thân dân. Đây là tƣ tƣởng của giai cấp thống chí và của cả các sĩ phu, nho sĩ trí thức.
Tầng lớp thống trị dùng tƣ tƣởng này để quản trị đất nƣớc. Với họ, dân có khi là mục
đích, có khi là phƣơng tiện. Dân là mục đích khi ngƣời cầm quyền hƣớng tới ngƣời dân
(thấy đƣợc sức mạnh của ngƣời dân để quan tâm tới họ). Dân là phƣơng tiện khi ngƣời
cầm quyền hƣớng tới ngƣời dân nhƣng mục đích là để duy trì địa vị giai cấp thống trị
(không để dân khổ để dân không làm loạn, thấy đƣợc sức mạnh ngƣời dân, tìm cách
chăn dân, vỗ về dân, “yên dân” để giữ yên địa vị của giai cấp thống trị. Tƣ tƣởng thân
dân của các sĩ phu – trí thức phong kiến thì trong tƣ tƣởng ấy có gửi gắm những mong
ƣớc, khát vọng của quần chúng. Vì vậy, nội hàm “tƣ tƣởng thân dân” ở từng triều đại
tƣơng ứng với khái niệm “dân” ở mỗi thời, qua đó cũng thể hiện trình độ, nhận thức của
tầng lớp “quân tử” thời ấy. Qua tƣ tƣởng thân dân, có thể đánh giá đƣợc sự tiến bộ, văn
minh hay bảo thủ, lạc hậu của các triều đại.
1.1.3. Tiêu chí xác định tư tưởng thân dân trong tác phẩm văn học
Từ việc phân tích các mối quan hệ, các bình diện, các khía cạnh khác nhau trong
khái niệm dân và tƣ tƣởng thân dân, luận án xác định tìm hiểu tƣ tƣởng thân dân trong
văn học trung đại Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII với các nội dung: Tƣ tƣởng
12
thân dân thể hiện một cách trực tiếp là khi nói đến ngƣời dân, đây là nội dung chủ yếu
mà đề tài quan tâm nghiên cứu. Tƣ tƣởng thân dân thể hiện một cách gián tiếp là khi
viết về đất nƣớc, xã hội,… nhƣng qua đó gửi gắm nguyện vọng về cuộc sống của ngƣời
dân. Khi viết về ngƣời dân trong cảnh đói khổ nhƣng đồng thời bày tỏ niềm mơ ƣớc về
một đất nƣớc hịa bình, thịnh vƣợng để ngƣời dân đỡ khổ. Vì thế, có những trƣờng hợp,
tƣ tƣởng thân dân và tƣ tƣởng yêu nƣớc giao thoa với nhau. Tuy nhiên, đây lại là hai
phạm trù bởi lẽ, tƣ tƣởng thân dân nhìn từ góc độ mục đích viết về ngƣời dân cơ bản
đứng trên lập trƣờng nhân bản - nhân đạo về quyền sống con ngƣời. Còn tƣ tƣởng yêu
nƣớc về cơ bản đứng trên lập trƣờng dân tộc.
Luận án của chúng tôi đề cập đến tƣ tƣởng thân dân trong văn học tập trung qua
ba phƣơng diện:
Thứ nhất, thân dân là thƣơng dân (ái dân). Đây là nền tảng cũng là gốc rễ của tƣ
tƣởng thân dân. Xuất phát từ những tình cảm chân thành, nhân ái mà xúc động, rung
cảm, đồng cảm với những niềm vui, nỗi buồn, nỗi đau khổ trong cuộc sống của ngƣời
dân. Chỉ khi gần gũi và chia sẻ có tình cảm mới hiểu và biết yêu, thƣơng dân.
Thứ hai, thân dân là trọng dân, tức là đề cao ngƣời dân, coi trọng vai trị, vị trí
của ngƣời dân; coi dân là gốc của nƣớc. Trong đời sống xã hội, ngƣời dân ln ln có
một vị trí quyết định, sáng tạo ra những giá trị của cải vật chất và tinh thần. Trọng dân
thì mới phát huy đƣợc sức mạnh của dân. Do đó, trọng dân là mức độ thứ hai, tiến lên
một bƣớc khi nhận ra vai trò, ý nghĩa của dân trong kiến tạo xã hội.
Thứ ba, thân dân là ơn dân. Khi giới cầm quyền biết “ơn dân” là vị thế của dân
đã đƣợc đánh giá cao và đƣợc tôn trọng thật sự. Thái độ “biết ơn” dân là thái độ của kẻ
dƣới đối với ngƣời trên. Chỉ khi có nhận thức cao mới có suy nghĩ và tình cảm biết ơn
này và khi “biết ơn” mới có cách hành xử, đối xử tƣơng ứng. Về cơ bản nội dung này
chỉ xuất hiện ở Nguyễn Trãi. Tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi về dân là tƣ tƣởng vƣợt lên
thời đại ơng và rất có ý nghĩa đối với thời hiện đại khi mà vai trị và vị trí cũng nhƣ
nhận thức về dân đã có những bƣớc tiến bộ vƣợt bậc.
Rõ ràng, tƣ tƣởng thân dân là một trong những tƣ tƣởng lớn và quan trọng của
lịch sử chính trị phƣơng Đơng nói chung, ở Trung Quốc và Việt Nam nói riêng. Tƣ
tƣởng thân dân cũng có sự phát triển và nó thể hiện sự phát triển của các triều đại phong
kiến. Tƣ tƣởng thân dân dù nằm trong lằn ranh của những vấn đề chính trị, xã hội, văn
hóa mang những tính chất phức tạp, song nếu xét sự biểu hiện trong văn học thì tƣ
13
tƣởng thân dân vẫn đƣợc tiếp cận theo hƣớng thuận chiều nhiều hơn là trái chiều. Thuận
chiều thể hiện sự đóng góp của các tác giả khi nhìn nhận rõ vai trị tích cực của ngƣời
dân, phản ánh một cách sâu sắc các “tiêu chí” trên của tƣ tƣởng thân dân trong quan
điểm và các sáng tác văn học. Trái chiều lại theo hƣớng xa dời, thậm chí có quan điểm,
cách nhìn coi thƣờng vị thế của ngƣời dân, đi ngƣợc lại với các “tiêu chí” của tƣ tƣởng
thân dân.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nhìn chung có những hƣớng nghiên cứu sau liên quan tới đề tài của luận án:
1.2.1. Nghiên cứu tư tưởng thân dân từ góc độ tư tưởng, triết học, lịch sử liên quan
tới đề tài
Các tài liệu nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân từ góc độ tƣ tƣởng, triết học, lịch sử là
yếu tố tiền đề giúp chúng tơi hình dung về diễn tiến của tƣ tƣởng thân dân trong mối
quan hệ với văn học. Các nhà nghiên cứu về lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam một mặt chỉ ra
rằng “thân dân” là một tƣ tƣởng lớn của thời đại, nó có liên quan chặt chẽ với lịch sử, tƣ
tƣởng, văn hóa, triết học, tơn giáo, đặc biệt là Nho giáo, Phật giáo, mặt khác, tƣ tƣởng
thân dân còn là tinh hoa trong truyền thống yêu nƣớc, nhân đạo và văn hóa Việt Nam
đƣợc kết tinh trong sáng tác của nhiều tác gia lớn trong văn học trung đại Việt Nam. Có
thể kể tới các tài liệu tiêu biểu sau: Lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam (1967 - 1970) của nhà
nghiên cứu Nguyễn Đăng Thục [186]; Tƣ tƣởng phƣơng Đơng gợi những điểm nhìn
tham chiếu của tác giả Cao Xuân Huy [68]; Tƣ tƣởng Việt Nam thời Trần (2014) của
Trần Thuận [185]; Khái lƣợc lịch sử tƣ tƣởng triết học Việt Nam (2016) của nhà nghiên
cứu Nguyễn Tài Đông, Nguyễn Tài Thƣ và nhiều tác giả khác [46]; Vấn đề con ngƣời
trong lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam thế kỉ XV- XVIII của tác giả Nguyễn Bá Cƣờng [29],…
Ngồi những cơng trình nghiên cứu trên đây, liên quan đến nội dung đề tài luận
án còn có các luận văn, luận án triết học, các bài báo in trên Tạp chí đã đƣợc cơng bố
nhƣ Quan niệm về dân và tƣ tƣởng thân dân trong “Luận ngữ”,“Mạnh Tử” của Trần
Quang Ánh [3]; Một số nội dung cơ bản của Nho giáo Việt Nam thời Trần [208] của Vũ
Văn Vinh; Đặc trƣng thời đại Lí Trần [106] của Nguyễn Cơng Lý (Tạp chí Nghiên cứu
Phật học, HN, số 3 - 2000), … Đáng chú ý là trong bài Chữ dân trong di cảo văn
chƣơng của Nguyễn Trãi Phan Quý Bích nhấn mạnh tƣ tƣởng “trọng dân” ở Nguyễn
Trãi: “không phải nhà nho nào cũng đƣợc nhƣ Nguyễn Trãi - kiên trì với tƣ tƣởng trọng
“dân” đến mức, xem dân là động lực của mọi biến cố xã hội” [10,tr.4]. Nhà nghiên cứu
14
Dỗn Chính trong bài Về tƣ tƣởng triết học của Nguyễn Trãi đã rất chú ý tới tƣ tƣởng
thƣơng dân của ông: “Đối với Nguyễn Trãi “yêu nƣớc là thƣơng dân, để cứu nƣớc phải
dựa vào dân, và cứu nƣớc là để cứu dân, đem lại thái bình cho dân, cho mọi ngƣời”…
Nguyễn Trãi là ngƣời đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nói đến “dân đen con đỏ” một
cách tha thiết, cảm động và chân thành” [20,tr.35-36]. Tác giả Trần Thị Hƣơng với đề
tài nghiên cứu triết học Tƣ tƣởng thân dân trong lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam đến đầu thế
kỉ XX đã đi sâu phân tích nguồn gốc và nội dung của tƣ tƣởng thân dân trong lịch sử tƣ
tƣởng Việt Nam từ tƣ tƣởng lấy dân làm gốc của Trần Quốc Tuấn; tƣ tƣởng thân dân
của Nguyễn Trãi; tƣ tƣởng dân chủ của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đến tƣ tƣởng
thân dân, “lấy dân làm gốc” của Hồ Chí Minh [70].
Khi nghiên cứu về lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng đã chú ý
tới sự ảnh hƣởng và tác động rất to lớn của Nho giáo, Phật giáo đối với sự hình thành tƣ
tƣởng của con ngƣời Việt Nam cũng nhƣ tƣ tƣởng thân dân. Các tài liệu có đóng góp
lớn là: Nho giáo (1930) [81] của Trần Trọng Kim; Nho giáo và văn học Việt Nam trung
cận đại (1998) [71] của Trần Đình Hƣợu; Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và
ảnh hƣởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỉ XI đến nửa đầu thế kỉ XIX) (2007) [14] của tác
giả Nguyễn Thanh Bình; Việt Nam Phật giáo sử luận (1979) [86] của Nguyễn Lang
(Thích Nhất Hạnh); Ảnh hƣởng Phật giáo trong đời sống ngƣời Việt (1996) [148] của
Thích Nguyên Tạng,… Các nhà nghiên cứu Trần Trọng Kim, Trần Đình Hƣợu đã chỉ ra
sự ảnh hƣởng nhiều mặt của Nho giáo đối với văn học Việt Nam. Trong phần viết về
Nguyễn Trãi và Nho giáo, tác giả Trần Đình Hƣợu nhấn mạnh: “khơng chỉ bàn về hình
thức Nho trong tƣ tƣởng Nguyễn Trãi mà bàn về khâu nhà Nho Nguyễn Trãi trong lịch
sử du nhập Nho giáo, trong lịch sử phát triển tƣ tƣởng Việt Nam” [71,tr. 77]. Tác giả
cũng chỉ ra: “Suốt đời Nguyễn Trãi làm việc với tinh thần nhập thế có trách nhiệm, luôn
luôn để ý đến nhân dân, lo trƣớc điều lo của thiên hạ … Đó là tinh thần vốn có của Nho
gia” [71,tr.95]. Nguyễn Lang (Thích Nhất Hạnh) khi bàn về sự phát triển của Phật giáo
đời Lí, đời Trần nhấn mạnh đến những nhân vật nhƣ Trần Nhân Tông (vị tổ thứ nhất
của thiền phái Trúc Lâm), sở dĩ đƣợc nhân dân ủng hộ và tơn kính cũng là vì vua có tƣ
tƣởng thân dân - cố kết đƣợc lịng dân, từ đó đem đạo Phật truyền bá đến muôn dân một
cách tự nhiên: “Một ông vua đã từng đánh bại cuộc xâm lăng của nhà Nguyên, một ông
vua đã đem hịa bình và thịnh trị về cho dân, một ông vua nhƣ thế khi đi xuất gia chắc
chắn đã gây nên một tiếng vang lớn và khiến tất cả mọi ngƣời trong nƣớc hƣớng nhìn
15
về ngọn núi Yên Tử. Đạo Phật trở thành yếu tố tâm lý liên kết tồn dân lại trong mục
đích xây dựng và bảo vệ quốc gia.” [86, tr.256]. Thích Nguyên Tạng khẳng định rằng
đạo lí Phật giáo tác động tới truyền thống tƣ tƣởng của ngƣời Việt Nam: “Đạo lí ảnh
hƣởng nhất là giáo lí từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật giáo đã ảnh
hƣởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của ngƣời Việt” [148, tr35].
Nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân từ góc độ lịch sử, chúng tôi chú ý tới cuốn Đại
Việt sử kí tồn thƣ - bộ sử kí lớn của nƣớc ta thời trung đại mang tinh thần Nho giáo
đậm nét [98]. Bức tranh lịch sử cụ thể của các triều đại phong kiến Việt Nam đã đƣợc
ghi chép tƣờng tận trong các thế kỷ X đến hết thế thế kỷ XV. Sự vơ giá của bộ sử này ở
nhiều khía cạnh, nhƣng trong đó chúng tơi quan tâm tới thái độ nhìn nhận thẳng thắn,
trung thực, nghiêm khắc của ngƣời chép sử đối với những sự kiện lịch sử, những triều
đại vua, việc hay làm đƣợc cho dân và kể cả phê phán những việc dở dẫn đến sự suy
vong của triều đại ấy. Đại Việt sử kí tồn thƣ cho ta thấy cả những khía cạnh thực tế
chính trị, lịch sử là điều kiện quan trọng để hiểu nội dung tƣ tƣởng thân dân trong các
văn bản văn học trung đại. Tƣ tƣởng thân dân, lấy dân làm gốc là tƣ tƣởng lớn, trở
thành cảm hứng sâu sắc trong tác phẩm văn học nhƣng trên phƣơng diện lịch sử xã hội,
nó đối lập với chế độ chuyên chế độc đoán, kể cả tàn bạo của các triều đại phong kiến
Việt Nam.
1.2.2. Nghiên cứu tư tưởng thân dân trong văn học
1.2.2.1. Nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân trong sự phát triển của lịch sử văn học Việt Nam
Những đóng góp vào việc nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân trong sự phát triển của
lịch sử văn học Việt Nam đƣợc thể hiện trong các giáo trình văn học sử của trƣờng Đại
học Sƣ phạm và Đại học Tổng hợp (nay là Đại học KHXHNV - ĐH Quốc gia Hà Nội).
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu về lịch sử văn học trung đại Việt Nam đều nhấn
mạnh tƣ tƣởng thân dân là một truyền thống trong văn học Việt Nam. Có thể kể đến các
tài liệu nghiên cứu của tác giả Đinh Gia Khánh trong Hợp tuyển Văn học Việt Nam từ
thế kỉ X - XVII (1962) [73]; Văn học Việt Nam (Thế kỉ X - nửa đầu thế kỉ XVIII) (1978)
[76]; Văn chƣơng Nguyễn Trãi (1984) [126,tr.485] của nhà nghiên cứu Bùi Văn
Nguyên; Văn học trung đại Việt Nam dƣới góc nhìn văn hóa (2003) của Trần Nho Thìn
[177]. Văn học trung đại Việt Nam, Tập 1, (2011) [175] của Lã Nhâm Thìn; Văn học
trung đại Việt Nam (Thế kỉ X - cuối thế kỉ XIX) (2006) [199] của Đoàn Thị Thu Vân,…
16
Tác giả Đinh Gia Khánh đánh giá về văn học đời Lí đã nhấn mạnh rằng các nhà
nho đời Lí rất chú ý đến trách nhiệm của mình đối với dân “không ngừng trau đức để
yên dân” [73,tr.65]. Các nhà vua thời Lí đã nhận thức đƣợc mối quan hệ giữa vận mệnh
của nhân dân với vận mệnh của triều đại trong các bài Chiếu dời đơ của Lí Cơng Uẩn,
Nam quốc sơn hà (khuyết danh), Văn bia chùa Linh Xứng. Đến thời Trần, các tác giả
càng nhận thức sâu sắc hơn về vai trò, sức mạnh của nhân dân đối với cuộc kháng chiến
của dân tộc chống giặc Mông - Nguyên. Đặc biệt phải kể đến tƣ tƣởng khoan thƣ sức
dân đƣợc Trần Quốc Tuấn coi nhƣ thƣợng sách giữ nƣớc. Đến cuối đời Trần khi triều
đại có biểu hiện suy vi, các tác giả thể hiện niềm đau xót trƣớc tình cảnh khổ cực của
ngƣời dân nhƣ Chu Văn An, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh.
Văn học thế kỉ XV tiếp tục thể hiện mạnh mẽ ý thức về vai trị của dân, nói lên
hồi bão của ngƣời trí thức về dân nhƣ Nguyễn Mộng Tuân, Lí Tử Tấn. Tiêu biểu nhất
ở thời kì này là Nguyễn Trãi: “Tấm lòng ƣu quốc ái dân suốt đời cuồn cuộn nhƣ “nƣớc
triều đông” ấy của Nguyễn Trãi quả là đã thể hiện trong sự nghiệp cứu quốc cũng nhƣ
sự nghiệp văn học của ông” [73,tr.215]. Tác giả Bùi Văn Nguyên đánh giá cao tƣ tƣởng
thân dân của Nguyễn Trãi: “Cái mà Nguyễn Trãi nói: cái “khó và bền của ngƣời quân
tử”, cái “mạnh và gắng của kẻ trƣợng phu” chính là cái chất kiên cƣờng và liêm khiết
của ngƣời anh hùng biết tự hào và tự trọng, luôn luôn mang nặng lòng lo nƣớc thƣơng
dân nhƣ thủy triều ngày đêm tn ra bể” [126,tr.499].
Vấn đề tƣ tƣởng thân dân nhìn chung đã đƣợc các nhà nghiên cứu chú ý nhƣng
mới đặt ra ở mức độ sơ lƣợc, khái quát vì đó chƣa phải là những cơng trình nghiên cứu
chun sâu về tƣ tƣởng thân dân trong văn học. Vì vậy, cần có sự tìm hiểu rõ hơn, hệ
thống hơn về tƣ tƣởng thân dân ở những tác giả, tác phẩm văn học cụ thể.
1.2.3.1. Nghiên cứu về các tác gia văn học, đặc biệt là các tác gia lớn có đề cập đến tƣ
tƣởng thân dân
Nghiên cứu về tƣ tƣởng thân dân từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII chúng tơi nhận
thấy các cơng trình, tài liệu nghiên cứu tập trung bàn luận đến các tác gia lớn là Trần
Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tơng, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Phùng Khắc Khoan, …Nhìn chung các ý kiến đều đánh giá cao tƣ tƣởng thân dân của
các nhà nho trung đại Việt Nam.
Nguyễn Trãi là tác giả tiêu biểu nhất của văn học thế kỷ XV. Chúng tơi nhận
thấy số lƣợng cơng trình, bài viết nghiên cứu về thơ văn của Nguyễn Trãi rất phong phú
17
và đề cập đến nhiều phƣơng diện về cuộc đời, con ngƣời, tƣ tƣởng cũng nhƣ nghệ thuật
thơ văn của ông. Thành tựu lớn trong nghiên cứu về Nguyễn Trãi đƣợc đánh dấu bằng
cơng trình Nguyễn Trãi khí phách và tinh hoa dân tộc (1980) do Viện Văn học biên
soạn. Các tác giả đã bàn luận về nhiều vấn đề khác nhau nhƣng hƣớng chung là giải
thích thời đại lịch sử tạo nên Nguyễn Trãi và đi sâu vào hai khía cạnh: Nguyễn Trãi nhà tƣ tƣởng, và Nguyễn Trãi - nhà văn. Điểm gặp gỡ chung của các nhà nghiên cứu là
đều đánh giá cao về giá trị tƣ tƣởng, tình cảm vĩ đại của Nguyễn Trãi, coi ơng là biểu
tƣợng của ngƣời trí thức dân tộc cũng nhƣ tinh hoa văn hóa Việt. Trong đó, nguồn gốc
và cơ sở trong tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi chính là tƣ tƣởng thân dân. Chúng tôi chú ý
đến ý kiến đánh giá của Vũ Khiêu, theo ông để làm nên tầm vóc vĩ đại của ngƣời anh
hùng dân tộc Nguyễn Trãi thì một lí do quan trọng là từ sức mạnh của nhân dân:
“Nguyễn Trãi đã suốt đời gắn bó với nhân dân. Ở ông, Tổ quốc và nhân dân là một.
[…] Nguyễn Trãi vĩ đại khơng chỉ ở tình cảm sâu sắc của ơng đối với nhân dân, mà
cịn ở chỗ ông nhận thức đƣợc sức mạnh to lớn của chính nhân dân” [193,tr.75]. Ý kiến
của nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi nêu rõ: “Tóm lại, trong quan niệm của nhà trí
thức Nguyễn Trãi, rõ ràng nhân nghĩa có một nội dung xác định: yêu thƣơng dân
chúng; có một mục đích tự thân sáng rõ: vì hạnh phúc của tồn dân mà phấn đấu; và
chính nó là một tiêu chuẩn hàng đầu của chủ nghĩa anh hùng” [193,tr.126]. Phần
nghiên cứu về thơ văn của Nguyễn Trãi các nhà nghiên cứu đều đánh giá Nguyễn Trãi
là một nhà văn xuất sắc cả về tƣ tƣởng và nghệ thuật trên nhiều loại hình văn học.
Chúng tơi đánh giá đây là một cơng trình khoa học cơng phu gợi mở rất nhiều vấn đề
trong quá trình thực hiện luận án.
Năm 1996, tác giả Võ Xuân Đàn khi nghiên cứu Tƣ tƣởng Nguyễn Trãi trong
tiến trình lịch sử Việt Nam đã khẳng định: “Nội dung tƣ tƣởng thân dân là nét biểu hiện
tập trung trong tồn bộ tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi. Nó phản ánh xu thế đang trỗi dậy
của quần chúng nhân dân đầu thế kỉ XV, muốn thoát khỏi chế độ điền trang thái ấp để
trở thành nông dân tự do… tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi đã phản ánh tính chất
quần chúng đơng đảo - tính chất cơ bản nhất của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn” [39,128].
Đặc biệt, tác giả Lã Nhâm Thìn trong cuốn “Văn học trung đại Việt Nam”, Nxb
Đại học Sƣ phạm Hà Nội, ở chƣơng viết về Nguyễn Trãi đã khẳng định Ức Trai là tác
giả đầu tiên nói lên chữ “ơn dân”: “Ơng là ngƣời đầu tiên xem yếu tố văn hiến, yếu tố
truyền thống lịch sử là hạt nhân cơ bản để xác định dân tộc, là ngƣời đƣa chữ “dân”
18
vào phạm trù “ái quốc”… Nguyễn Trãi là một trong những tác giả văn học viết đầu
tiên nói lên hai tiếng “ơn dân”, mà lại là ơn những ngƣời lao động chân lấm tay bùn:
“Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cầy”. [175,tr.146].
Một cơng trình bề thế đáng chú ý nữa về Nguyễn Trãi đó là Nguyễn Trãi về tác
gia và tác phẩm (2000) do Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, trong cuốn sách,
ta bắt gặp khá nhiều bài viết đề cập đến lòng thƣơng dân yêu nƣớc, nỗi đau đời của
Nguyễn Trãi qua những sáng tác của ông từ Qn trung từ mệnh tập, Bình Ngơ đại cáo
đến Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập. Đáng chú ý là các bài viết của Đinh Gia Khánh,
Phạm Thế Ngũ, Vũ Khiêu, Trần Văn Giàu, Mai Quốc Liên, Lê Trí Viễn, Trần Thị Băng
Thanh, Nguyễn Huệ Chi, Xuân Diệu, Hồi Thanh, Tầm Vũ,…. Có thể xem đó là những
cách tiếp cận liên quan đến tƣ tƣởng thân dân. Miễn Trai đi vào tìm hiểu “hai cảnh
ngộ, một tâm tình của nhà thơ Nguyễn Trãi”. [143,tr.366]. Trƣơng Chính khám phá
“những vần thơ nặng suy tƣ” [143,tr.378] trong Ức Trai thi tập và nhận thấy tấm lịng
vì dân vì nƣớc của Nguyễn Trãi hơn là “chất lửa trong lị”. Lê Trí Viễn phát hiện ra
“chất Đại Việt trong Ức Trai thi tập” [143,tr.409] và khẳng định thiên tài Nguyễn Trãi
quả phong phú, đúng là “một tâm hồn rộng mở bốn phƣơng nhƣng quy về một hƣớng
dân chủ - hƣớng yêu nƣớc thƣơng dân, hƣớng Việt Nam truyền thống. Thiết tƣởng đó là
chỗ vĩ đại của Nguyễn Trãi” [143,tr.424]. Nguyễn Huệ Chi xác định chiều sâu “niềm
thao thức lớn trong thơ Nguyễn Trãi” [143,tr.466]. Hồi Thanh cảm nhận tấm lịng vì
dân vì nƣớc là điều quý giá nhất của Nguyễn Trãi qua thơ Nôm. Đặc biệt Tầm Vu
khẳng định: “Nguyễn Trãi, ngƣời đứng đầu một văn phái yêu nƣớc, thân dân, có lí
tƣởng xã hội cao cả” [143,tr.786], và cũng chỉ ra mấy điểm sau: Trong văn chƣơng
Nguyễn Trãi ngƣời dân chiếm vị trí trọng yếu, Nguyễn Trãi chân thành thân dân và
ln hƣớng tới xã hội lí tƣởng cao q,… Ngồi ra, Trần Thị Băng Thanh cịn tìm hiểu
thơ chữ Hán của Ức Trai trong mối quan hệ với thơ chữ Hán đời Trần. Nhà nghiên cứu
cho rằng: “Nguyễn Trãi đã tiếp thu nét ƣu tƣ, thƣơng dân, băn khoăn về trách nhiệm
của kẻ sĩ của các nhà thơ cuối Trần mà nổi bật là Trần Nguyên Đán và Nguyễn Phi
Khanh” [143, tr.425]. Từ đó xác định điểm mới trong tƣ tƣởng thân dân ở Nguyễn Trãi
so với các tác giả đời Trần nhƣ Trần Minh Tông, Nguyễn Phi Khanh là “thƣơng dân, lo
nghĩ phƣơng sách để trị dân yên”, khẳng định vai trò của ngƣời dân.
Năm 2009, trong Về tƣ tƣởng triết học của Nguyễn Trãi nhà nghiên cứu Dỗn
Chính nhấn mạnh tƣ tƣởng thân dân là điểm nổi bật trong tƣ tƣởng nhân nghĩa của
19
Nguyễn Trãi. Tác giả viết: “Nguyễn Trãi nhắc đến dân rất nhiều lần trong các tác
phẩm của ông - 155 lần. Nguyễn Trãi là ngƣời đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nói đến
“dân đen con đỏ” một cách tha thiết, cảm động và chân thành” [20,tr.36].
Trần Nho Thìn trong bài viết Tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi đăng trên Tạp
chí Cửa Việt, Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Trị số 261, tháng 6/2016 đánh giá: “Nói
đến nhà văn hóa lớn Nguyễn Trãi, điều đầu tiên chúng ta nghĩ đến là một nhà tƣ tƣởng
thân dân vĩ đại […]. Tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi về bản chất là tƣ tƣởng đƣợc
phát biểu từ góc độ ngƣời dân. Nội dung lớn của văn hóa chính trị mà Nguyễn Trãi suốt
đời theo đuổi chính là nhân nghĩa. […] Khơng nói thân dân, nhân nghĩa chung chung,
sách vở, Nguyễn Trãi dựa vào thực tiễn để đấu tranh ngoại giao với kẻ thù tàn bạo, xảo
quyệt” [180, tr.42].
Có thể thấy, nghiên cứu về tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi, nhìn chung các
tác giả đều đánh giá cao vị trí và tầm ảnh hƣởng lớn lao của Nguyễn Trãi trong nền văn
học dân tộc. Trên cơ sở tiếp thu nguồn tƣ liệu của những ngƣời đi trƣớc, luận án tập
trung làm sáng tỏ hơn tƣ tƣởng thân dân của đại thi hào Nguyễn Trãi kết tinh qua toàn
bộ sự nghiệp văn chính luận và thơ ca của ơng.
Bên cạnh Nguyễn Trãi, nhà tƣ tƣởng - nhà văn kiệt xuất đầu thế kỷ XV, Lê
Thánh Tông cũng là một tác giả nổi bật của văn học nửa cuối thế kỷ XV. Các ý kiến của
các nhà nghiên cứu đều khẳng định Lê Thánh Tơng là một tác giả có tƣ tƣởng thân dân
sâu sắc. Mai Xuân Hải (Chủ biên) trong cuốn Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông đánh giá:
“Tƣ tƣởng tiến bộ ấy đã kế thừa đƣợc từ tƣ tƣởng “thân dân”, “an dân” của những tác
giả tiến bộ lớp trƣớc nhƣ Trần Hƣng Đạo, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi,… và đã tiếp
thu đƣợc ở phần tƣ tƣởng tích cực “dân là gốc nƣớc, gốc vững thì nƣớc mới bền” (dân
vi bang bản, bản cố bang ninh) trong Kinh Thƣ” [52,tr.22].
Năm 2007, trong “Lê Thánh Tông về tác gia và tác phẩm” (Bùi Duy Tân, Lại
Văn Hùng tuyển chọn và giới thiệu), các tác giả đều đánh giá cao cuộc đời và sự nghiệp
vì nƣớc vì dân của hồng đế Lê Thánh Tông, đồng thời đề cao tƣ tƣởng thân dân trong
thơ văn chữ Nôm và chữ Hán của ông. Nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân trong bài Lê
Thánh Tông - Vị hồng đế anh minh, nhà văn hóa lỗi lạc, một văn hào dân tộc đánh giả
rất cao tƣ tƣởng thân dân của Lê Thánh Tông: Thân dân không phải là đạo đức hoặc
tình cảm riêng tƣ của vua tơi Lê Thánh Tơng, mà là đƣờng lối chính trị cơ bản của các
vƣơng triều phong kiến, trƣớc khi có những thể chế dân chủ hiện đại ra đời. Rút kinh