BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
ĐINH THỊ PHƯƠNG THU
TƯ TƯỞNG THÂN DÂN
TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
TỪ THẾ KỈ X ĐẾN HẾT THẾ KỈ XVII
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
(Chuyên ngành Văn học Việt Nam)
HÀ NỘI - 2020
2
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
ĐINH THỊ PHƯƠNG THU
TƯ TƯỞNG THÂN DÂN
TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
TỪ THẾ KỈ X ĐẾN HẾT THẾ KỈ XVII
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9.22.01.21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
(Chuyên ngành Văn học Việt Nam)
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS Lã Nhâm Thìn
HÀ NỘI – 2020
2
3
3
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Đinh Thị Phương Thu
4
4
LỜI CẢM ƠN
Tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy GS.TS. Lã Nhâm Thìn đã
ln tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo rất nhiều để tơi hồn thành luận án này.
Tơi cũng xin cảm ơn những nhận xét, góp ý của các nhà khoa học, của các thầy cô
trong Bộ môn Văn học trung đại Việt Nam, Khoa Ngữ văn, Phòng Sau Đại học, Ban
Giám hiệu trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho tôi học tập và thực
hiện luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới gia đình, bạn bè cũng như các thầy cơ,
đồng nghiệp, Bộ môn Khoa học Xã hội, Ban Giám hiệu trường THPT Chuyên Khoa
học Tự nhiên, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội nơi tơi
đang cơng tác vì đã ln động viên và ủng hộ tơi để tơi hồn thành cơng trình này.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Đinh Thị Phương Thu
5
5
MỤC LỤC
6
6
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Về khoa học
Tư tưởng thân dân là một tư tưởng lớn trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nhận
thức về vai trò, sức mạnh của dân đối với sự tồn vong, phát triển của mỗi quốc gia, dân
tộc và định ra những đường lối chính trị, chính sách xã hội tiến bộ theo hướng thân dân
là một quá trình lâu dài trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Tư tưởng “Thân dân”, “Lấy
dân làm gốc” cũng là một bài học chính trị và lời dặn dị q báu của ơng cha ta thể
hiện ở các triều đại trong lịch sử dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm của dân tộc
đồng thời khơng ngừng được kế thừa, phát triển và biến đổi phù hợp với thực tiễn đất
nước ta. Tư tưởng thân dân chiếm vị trí quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến đường lối
chính trị của mỗi triều đại, mỗi chế độ, trong qua khứ cũng như trong hiện tại.
Tư tưởng thân dân được phản ánh trong văn học trở thành nội dung lớn của văn
học Việt Nam, từ văn học dân gian đến văn học hiện đại. Nền văn học Việt Nam, do
hồn lịch sử đặc biệt, đã ln gắn bó máu thịt với vận mệnh đất nước, với số phận con
người Việt Nam. Từng bước đi của lịch sử dân tộc, từng niềm vui, nỗi buồn đau của đất
nước, từng giọt nước mắt hay nụ cười trong mỗi số phận nhân dân,... đều trở thành cảm
hứng sáng tác của nhiều tác giả. Vận mệnh dân tộc và vận mệnh nhân dân là những
nhân tố được quan tâm phản ánh trong sáng tác văn chương. Ở từng thời kì lịch sử,
nước và dân ln gắn bó mật thiết với nhau: có dân, dựng nước, giữ nước thắng lợi,
khơng dân nước suy, nước mất; dân là công dân trong quan hệ dân nước, dân còn là con
người trong quan hệ dân - cộng đồng người. Tư tưởng thân dân do đó là đạo lí và cũng
là thành phần của lí tưởng thẩm mĩ dân tộc - một trong những thành phần cao đẹp có vị
trí lớn đối với văn học mn đời.
Tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam có những đặc điểm riêng so
với văn học hiện đại. Trải qua quá trình phát triển thăng trầm của các triều đại phong
kiến, các thế hệ Nho sĩ trí thức trung đại đã tiếp thu nguồn ảnh hưởng của hệ tư tưởng
Nho, Phật, Đạo đồng thời kết hợp với tinh thần dân tộc, tinh thần thời đại để đem đến
cho văn học những màu sắc phong phú của tư tưởng thân dân. Tư tưởng thân dân trong
văn học trung đại từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII phản ánh những vấn đề lớn của lịch sử
tư tưởng Việt Nam, văn học Việt Nam. Tìm hiểu tư tưởng thân dân góp phần tìm hiểu
7
7
sâu hơn những vấn đề về tác giả, tác phẩm, những qui luật phát triển của văn học trung
đại Việt Nam.
Với những ý nghĩa đó, luận án lựa chọn đề tài Tư tưởng thân dân trong văn học
trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII. Đề tài của chúng tôi vừa kế thừa
thành quả từ những cơng trình đi trước vừa hứa hẹn mang đến một cái nhìn hệ thống về
đặc điểm diện mạo, sự tiếp nối và mở rộng, sự tiếp nhận tinh hoa văn hóa nước ngồi và
yếu tố nội sinh trong tư tưởng thân dân ở các thế kỷ đầu của nền văn học viết Việt Nam.
1.2. Về thực tiễn
Văn học trung đại được giảng dạy với số lượng lớn ở nhà trường từ phổ thơng
đến đại học, đặc biệt là nhóm tác phẩm văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII liên
quan đến vấn đề tư tưởng thân dân. Đề tài có ý nghĩa thiết thực trong việc vận dụng vào
thực tiễn dạy - học và tiếp cận văn bản tác phẩm văn học trung đại.
Với xã hội, người dân là vấn đề lớn của lịch sử, đồng thời là vấn đề quan trọng
được quan tâm trong đời sống của đất nước, đời sống xã hội hiện nay. Đề tài từ góc độ
văn học góp phần lí giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Nhân dân vừa là chủ thể
lịch sử, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Vì vậy, bất cứ một giai cấp cầm quyền
nào muốn duy trì được sự ổn định của mình thì phải gắn bó với dân, phải có chính sách
dưỡng dân, giáo dân phù hợp. Điều này đã được chứng minh qua hàng ngàn năm lịch
sử, nếu được dân tin, dân theo, thì chính quyền sẽ bền vững, quốc gia được củng cố,
hưng thịnh.
Quan điểm tích cực của Nho gia “Đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” ln
có giá trị đối với mọi thời đại. Hiện nay, quan điểm “Lấy dân làm gốc” càng được cụ thể
hóa trong đời sống xã hội thành những phương châm, mục tiêu có ý nghĩa thực tiễn, tiến
bộ như “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, “dân hưởng”. Điều đó cho thấy, việc
đánh giá đúng đắn vị trí và vai trị của dân trong lịch sử có ý nghĩa quan trọng đến sự tồn
vong của mỗi hình thái xã hội trong lịch sử, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng,
phát triển đất nước. Với những lý do trên, đề tài có tính cần thiết, thời sự, khoa học và
thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài nghiên cứu là làm nổi bật tư tưởng thân dân trong văn học
trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XVII với sự vận động mang tính lịch sử qua các
8
8
giai đoạn với những khuynh hướng, tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Trong đó, luận án tập
trung phân tích, lý giải căn rễ của tư tưởng thân dân, những nội dung cơ bản của tư tưởng
thân dân, xác định đặc trưng cũng như khả năng tiếp nối, phát triển trong quá trình vận
động của tư tưởng này qua các giai đoạn. Tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt
Nam gợi những bài học về tư tưởng thân dân trong thời hiện đại.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án tập trung vào những nhiệm vụ nghiên
cứu chủ yếu:
- Khái niệm dân và tư tưởng thân dân. Tiêu chí xác định tư tưởng thân dân trong
tác phẩm văn học.
- Nghiên cứu những nội dung biểu hiện của tư tưởng thân dân trong từng giai
đoạn văn học với các khuynh hướng, tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
- Đánh giá về đặc điểm của tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam giai
đoạn X - XVII, sự vận động phát triển của tư tưởng thân dân trong tiến trình lịch sử.
- Nghiên cứu những phương diện nghệ thuật thể hiện tư tưởng thân dân khi cần
thiết.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tìm hiểu tư tưởng thân dân trong văn học
trung đại Việt Nam theo giai đoạn văn học với những khuynh hướng, tác giả, tác phẩm
tiêu biểu của văn học trung đại từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII. Ở bốn thế kỷ đầu, chủ
yếu tập trung khảo sát các tác giả thời Lí - Trần (từ sáng tác của các thiền sư, vua chúa,
tướng lĩnh cho tới sáng tác của các nhà nho, trong đó đi sâu vào hai tác giả Trần
Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh). Tư tưởng thân dân trong văn học thế kỷ XV thể hiện
qua sáng tác của các nhà văn thời kì khởi nghĩa Lam Sơn, thời Hồng Đức, trong đó tập
trung vào hai tác giả Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông. Tư tưởng thân dân trong văn học thế
kỷ XVI - XVII biểu hiện ở các tác phẩm thơ, phú thời Lê trung hưng, thời Mạc, tiêu
biểu là Nguyễn Bỉnh Khiêm; Phùng Khắc Khoan; hai tác phẩm khuyết danh Thiên Nam
minh giám, Thiên Nam ngữ lục,...
3.2. Phạm vi tư liệu khảo sát
Tác giả luận án sẽ khảo sát tập trung những sáng tác của các tác giả thể hiện tư
tưởng thân dân từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII. Các nguồn tư liệu chính mà chúng tơi
9
9
lấy làm căn cứ để sử dụng trong quá trình nghiên cứu là: Thơ văn Lí - Trần [12,13,16];
Tổng tập văn học Việt Nam [116,134]; Nguyễn Trãi toàn tập [94]; Nguyễn Trãi toàn
tập. Tân biên [95,96,97]; Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông [52]; Hồng Đức quốc âm thi tập
[42]; Tuyển tập thơ phú thời Mạc [184]; Toàn Việt thi lục [45]; Thơ văn Nguyễn Bỉnh
Khiêm (Tổng tập) [164]; Phùng Khắc Khoan, Hợp tuyển thơ văn [129]; Thiên Nam ngữ
lục - Diễn ca lịch sử [117]; Thiên Nam minh giám [47]. Ngồi văn học viết luận án cịn
khảo sát thêm cả văn học dân gian.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
4.1. Phương pháp lịch sử
Sự phát triển của tư tưởng thân dân là hiện tượng mang tính lịch sử. Để tìm hiểu
thấu đáo tư tưởng thân dân trong văn học nhiều thế kỉ, chúng tôi vận dụng phương pháp
lịch sử. Đặt văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII trong bối cảnh
chính trị, lịch sử Việt Nam thời trung đại để tìm hiểu cách nhìn, cách đánh giá của các tác
giả qua những tác phẩm tiêu biểu đề cập đến tư tưởng thân dân. Phương pháp lịch sử cũng
cho phép chúng tôi nghiên cứu đối tượng trong sự phát triển mang tính lịch sử. Vận dụng
phương pháp lịch sử, luận án nghiên cứu tư tưởng thân dân phát triển qua các giai đoạn với
đặc điểm riêng của từng giai đoạn. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV là giai đoạn đầu tiên định
hình tư tưởng thân dân với thành tựu chủ yếu tập trung ở văn học thời Lí - Trần. Tiếp đến,
tư tưởng thân dân phát triển sang thế kỉ XV với khuynh hướng thể hiện mới, đầu thế kỉ tư
tưởng thân dân mang âm hưởng hào hùng với những tác giả thời khởi nghĩa Lam Sơn, tiêu
biểu là Nguyễn Trãi. Nửa sau thế kỉ XV, tư tưởng thân dân gắn với âm hưởng ngợi ca về
triều đại hưng thịnh Lê Thánh Tông. Khi lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam có những
bước chuyển mới ở thế kỉ XVI - XVII theo chiều hướng đi xuống, tư tưởng thân dân vì thế
cũng chuyển từ cảm hứng ngợi ca sang phê phán hiện thực xã hội gắn liền với cách nhìn,
quan niệm của nhân dân.
4.2. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Tư tưởng thân dân trong văn học có mối quan hệ tới lịch sử, xã hội, tư tưởng,
văn hóa, triết học... Vì thế, để đưa ra được những đánh giá có tính tổng hợp, chúng tôi
cần đến phương pháp nghiên cứu liên ngành. Những tri thức này rất có ý nghĩa khi
chúng tơi tìm hiểu và lý giải nguyên nhân dẫn đến sự tương đồng, điểm khác biệt về tư
tưởng thân dân trong từng giai đoạn văn học hay ở các tác giả, khuynh hướng văn học.
10
10
4.3. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp quan trọng không thể thiếu khi nghiên cứu
về tư tưởng thân dân. Trong luận án, người viết sử dụng phương pháp so sánh để đối
chiếu lịch sử với văn học; so sánh các giai đoạn văn học; so sánh các tác gia văn học và
chủ đề, thể loại văn học. Từ đó, chỉ ra sự tiếp nối và phát triển của tư tưởng thân dân
qua các giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII.
4.4. Phương pháp hệ thống
Luận án vận dụng phương pháp hệ thống để xác định tư tưởng thân dân: thứ
nhất, xem xét vận động của tư tưởng thân dân không chỉ qua văn học mà qua các yếu tố
khác như triết học, lịch sử, văn hóa,… từ đó thấy tư tưởng thân dân là vấn đề có tính
lịch sử chịu chi phối, tác động của nhiều yếu tố khác nhau; thứ hai là nghiên cứu hệ
thống hóa các tác giả, tác phẩm, thể loại - quá trình tiếp thu, tiếp nối, tương tác lẫn nhau
và mở rộng tư tưởng thân dân ở các bình diện. Với quan điểm hệ thống, hướng nghiên
cứu của luận án là khai thác nội dung tư tưởng và khi cần có thể chú ý tới khía cạnh
thẩm mỹ, hình ảnh, biểu tượng, hệ thống, điển tích, điển cố, văn liệu liên quan đến các
cấp độ Dân - Thân dân và “Tư tưởng thân dân”.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án được hồn thành sẽ có những đóng góp sau:
- Xác lập và phân tích những tiền đề của tư tưởng thân dân trong văn học từ thế
kỉ X đến hết thế kỉ XVII
- Làm sáng rõ sự vận động mang tính lịch sử của tư tưởng thân dân trong văn
học thế kỉ thứ X - hết thế kỉ XVII, sự kế thừa, tiếp nối và phát triển của tư tưởng thân
dân qua các giai đoạn thế kỉ X - thế kỉ XIV; thế kỉ XV; thế kỉ XVI - thế kỉ XVII. Phân
tích nội dung tư tưởng thân dân ở từng giai đoạn, ở một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
- Từ tư tưởng thân dân, luận án góp phần làm rõ hơn một số vấn đề mang tính
quy luật trong sự phát triển của văn học trung đại Việt Nam.
- Luận án là tài liệu tham khảo có ý nghĩa và thiết thực đối với công việc nghiên
cứu, giảng dạy văn học trung đại Việt Nam, đồng thời có thể hữu ích với những người
làm công tác xã hội quan tâm tới tư tưởng thân dân.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án
gồm 5 chương:
11
11
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và một số vấn đề liên quan đến đề tài
Chương 2: Những tiền đề của tư tưởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X đến hết thế
kỉ XVII
Chương 3: Tư tưởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV
Chương 4: Tư tưởng thân dân trong văn học thế kỉ XV
Chương 5: Tư tưởng thân dân trong văn học từ thế kỉ XVI đến hết thế kỉ XVII
12
12
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Giới thuyết khái niệm dân và tư tưởng thân dân
1.1.1. Giới thuyết khái niệm dân
Dân là một khái niệm rất cơ bản trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội. Chữ
dân 民 trong lịch sử Hán ngữ đã có một q trình chuyển biến lâu dài qua các thời kỳ.
Theo giáp cốt văn: chữ này phần trên là hình một con mắt, phần dưới là một vật nhọn
như kim đâm mù mắt. Dân là người bị đâm mù một mắt, nghi là gốc từ chữ Manh 民
cũng nghĩa là người mù. Vì sao Dân lại mù một mắt ? Họ hoặc là kẻ có tội, hoặc là tù
binh chiến tranh, hoặc là nô lệ của giai cấp thống trị. Bọn thống trị chọc mù một mắt đề
phòng họ bỏ trốn. Theo Quách Mạt Nhược, thời cổ, chữ Dân 民 và chữ Thần 民 đều là
con mắt nhưng hình tượng Thần là con mắt đứng, cịn hình tượng chữ Dân là con mắt
nằm ngang bị đâm thủng (vì người cổ xưa hết sức coi trọng mắt). Mắt đứng (thần) biểu
thị sự cúi đầu nghe lệnh, thần phục; còn mắt ngang biểu thị sự chống lại mệnh lệnh, nên
phải chọc mù mắt,… Sang thời Tây Chu, chữ Dân chuyển nghĩa thành người dân bị
thống trị, có nghĩa “nhân dân”, “bách tính”. Nghĩa Dân bị mù một mắt dần mất đi.
Trong các sách từ điển tiếng Việt, cách nêu khái niệm dân của mỗi cuốn từ điển
có sự khác nhau. Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu (1942) nghĩa của từ dân được
chiết tự như sau: dân có nghĩa là người, dân, lồi người thuộc ở dưới quyền chính trị
gọi là dân như: quốc dân - dân nước. Trong cuốn Từ điển tiếng Việt (do Lê Văn Tân
chủ biên, Nxb Khoa học Xã hội, 1976) có nêu khái niệm dân với năm nghĩa như sau:
Từ dùng để gọi chung người trong một nước: như Dân Việt Nam; Quần chúng đơng đảo
gồm có: cơng nhân, nơng dân, nhân dân lao động trong một nước có bóc lột; Quần
chúng đơng đảo nói chung; Cơng dân trong một địa phương: Dân Hà Nội; Những người
thuộc một tầng lớp xã hội;
Trong Từ điển tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên - 1994) nêu khái niệm dân với
ba nghĩa: Người sống trong một khu vực địa lý hành chính, trong quan hệ với khu vực
ấy (Ví dụ: Dân giàu nước mạnh; Làm dân một nước độc lập; Thành phố đông dân);
Người dân thuộc tầng lớp đông đảo nhất, trong quan hệ với bộ phận cầm quyền, bộ
phận lãnh đạo hoặc qn đội. Ví dụ: Người dân thường; tình qn dân; Người cùng
13
13
nghề nghiệp, hoàn cảnh... làm thành một lớp người riêng (Ví dụ: Dân thợ, dân bn,
dân ngụ cư).
Để làm rõ khái niệm dân một cách thấu đáo hơn, chúng tôi trở về với quan niệm
của Nho giáo. Trong quan niệm của các nhà nho, dân bao gồm nhiều giai tầng khác
nhau, và về cơ bản, họ có cùng địa vị kinh tế, vai trò xã hội, là bộ phận nhiều nhất trong
dân cư, đối lập với tầng lớp khác - tầng lớp trị dân (gồm vua, quan). Khổng Tử, Mạnh
Tử, Tuân Tử luôn khẳng định địa vị xã hội của người dân là những người nô lệ, bị trị,
họ luôn chịu sự sai khiến, cai trị của tầng lớp thống trị. "Dân khả sử do chi, bất khả sử
tri chi" (Luận ngữ, Thái Bá) - (Dân, có thể khiến họ đi theo con đường của chúng ta,
chứ không thể khiến họ biết đó là vì sao) [27, tr.56] là mang ý nghĩa như vậy.
Dân có khi được gọi là kẻ “lao lực”, tức là những người lao động chân tay, lực
lượng sản xuất ra của cải để duy trì tồn tại của xã hội, của mỗi người và của cả tầng lớp
thống trị. Có khi là kẻ “thứ dân”, “hạ dân”, “dã dân” - những người dân lao động
thuộc tứ dân bách tính bình thường trong xã hội. Tuy nhiên, cũng trong quan điểm của
Mạnh Tử, ông lại gọi người bị điều khiển, bị sai khiến, dân là “lê dân” (dân đen), “xích
tử” (con đỏ) để nói về người dân nghèo khổ. Khái niệm dân dần được mở rộng hơn để
chỉ bề tôi, tức thần dân trong thiên hạ, đối lập với nhà vua. Họ cịn được gọi là “bá
tính”, “thiên hạ”, tức là tất muôn dân, trăm họ sống trong cõi trời đất này: “Chư hầu chi
bảo tam: Thổ địa, nhân dân, chính sự. Bảo châu ngọc giả, ương tất cập thân” (Một vị
vua chư hầu nên quý trọng ba việc này: Thổ địa, nhân dân và chính sự. Nếu chê ba điều
ấy mà quý trọng châu ngọc, ắt thân mình phải vướng lấy tai ương” [27,tr.270].
Từ khái niệm dân theo nghĩa gốc Hán và Nho giáo, ta thấy chữ dân và Nhân
Dân ngày nay đã được mở rộng nội hàm khái niệm, tương đương với chữ People trong
tiếng Anh, dùng để chỉ một tập hợp những người sống trong một nước. Nó là số nhiều
khơng xác định của chữ Person (cá nhân). Bản Hiến pháp Mỹ mở đầu là 3 từ “We The
People…”. Dù People vẫn là khái niệm chưa rõ ràng, song 3 chữ đặt ở vị trí đặc biệt
này cho thấy một hàm ý trang trọng, đề cao.
Ở thời kì hiện đại, dân là một khái niệm có tính chất chính trị, khơng phải là thực
thể. Dân bao gồm mọi tầng lớp trong xã hội, đối tượng chiếm số đông nhất vẫn là tầng
lớp nhân dân lao động - những người tạo ra của cải vật chất để duy trì đời sống xã hội,
họ có sức mạnh to lớn trong mọi lĩnh vực của quốc gia dân tộc. Tư tưởng về dân cũng
có bước tiến mới gắn liền với tư tưởng dân chủ; phương châm xây dựng một xã hội
14
14
cơng bằng, đất nước do dân làm chủ, vì dân, lấy dân làm gốc. Tư tưởng về dân gắn liền
với việc duy trì và bảo vệ Tổ quốc, gắn bó và hòa quyện với tư tưởng yêu nước, với thực
tiễn của công cuộc bảo vệ và xây dựng, phát triển quốc gia về mọi mặt.
Từ những điều đã trình bày ở trên, tác giả luận án xin rút ra mấy điểm chung về
khái niệm dân (ở đây là trong thời trung đại, bởi tư tưởng “thân dân” mà luận án nghiên
cứu gắn với thời này) với ý nghĩa khoa học sau: Dân là một khái niệm xuất hiện và tồn
tại khi xã hội có giai cấp, có nhà nước, dùng để chỉ những người lao động bình thường,
đơng đảo, khơng có chức quyền và tương phản với những người cầm quyền ở các địa
bàn lãnh thổ, các nghề nghiệp khác nhau trong lĩnh vực sản xuất vật chất và hoạt động
tinh thần của một xã hội nhất định. Do đó, khái niệm dân mang màu sắc và ý nghĩa
chính trị khá rõ rệt, phần nào phản ánh được các mối quan hệ xã hội. Trong xã hội
phong kiến, tuy không cịn bị xem là những cơng cụ lao động biết nói nhưng dân vẫn
nằm trong điạ vị phụ thuộc mà chế độ phong kiến Trung Quốc gọi là “thần dân”. Nghĩa
đen của từ này chỉ người bề tôi, phải chịu sự khuất phục, chịu sự chi phối và phụ thuộc
của nhà vua và dĩ nhiên, theo trật tự xã hội, thần dân vẫn phải xếp dưới tầng lớp quan
lại. Điều này không phải ở phương Đông mà dưới chế độ phong kiến ở các nước
phương Tây, tình hình này cũng diễn ra tương tự. Thần dân, tiếng Pháp là Sujets (nghĩa
đen là thuộc, là phải phục tùng), tiếng Anh là Subjet (là khuất phục, là bắt phải chịu).
Theo tiếng Nga là люди (nghĩa là chịu, bị, ngả theo). Trong xã hội hiện đại, vai trò
của người dân mới được nhận thức đầy đủ hơn. Người dân được đặt trong mối quan hệ
về mặt quyền lợi và nghĩa vụ với nhà nước. Người dân có quyền bầu cử, bầu ra những
người xứng đáng vào bộ máy nhà nước, có thể đại diện cho quyền lợi của mình thì khi
đó dân mới có tư cách là cơng dân.
1.1.2. Giới thuyết khái niệm tư tưởng thân dân
Xuyên suốt hệ thống tư tưởng quan điểm trong các sách kinh điển của nho gia ta
thấy có một điểm chung là đề cao ý nghĩa, vai trò quan trọng của dân, dân là thần dân
nên cần được chăm lo, dạy dỗ. Điều đó tạo nên giá trị nhân văn của tư tưởng thân dân.
Các nhà nho quan niệm dân là những người “lao lực”, họ là lực lượng to lớn trong xã
hội, lực lượng chủ yếu sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Bởi vậy cho nên, người
cầm quyền phải quan tâm đến đời sống vật chất, đến những nhu cầu tối thiểu, thiết
thực, trực tiếp của người dân. Khổng Tử khuyên nhà cầm quyền phải giúp cho dân làm
giàu, muốn cai trị dân nhà cầm quyền cần phải có ba điều kiện này: “Túc thực, túc bình,
15
15
dân tín chi hỷ” (Lương thực cho đủ để ni dân, binh lực cho mạnh để bảo vệ dân, lòng
tin cậy của dân đối với mình) (Luận ngữ) [27,tr.184]. Trong ba điều ấy Khổng Tử xếp
lòng tin là điều quyết định, rồi đến lương thực và binh lực.
Nho giáo đề cao dân trong quan niệm coi dân còn là gốc nước, là nền tảng, là cơ
sở của nền chính trị: “Dĩ dân vi bản” - (Khổng Tử), “dân vi bang bản” (Mạnh Tử).
“Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân là đáng quý nhất, xã tắc sau dân, vua
xem nhẹ hơn (dân và xã tắc) [27,tr.262]. Đây là tư tưởng tiến bộ, đặc biệt là đối với một
xã hội mấy ngàn năm sống dưới sự ngự trị của các triều vua. Cũng từ quan niệm này,
các Nho gia đều cho rằng, lòng tin của dân, sự ủng hộ của dân quyết định sự thịnh, suy,
tồn vong của một triều đại hay nền chính sự. Mạnh Tử đã nêu lên một tư tưởng rất tiến
bộ và đi trước cả thời đại ông: “Kiệt, Trụ chi thất thiên hạ giã, thất kỳ dân giã. Thất kỳ
dân giã, thất kỳ tâm giã. Đắc thiên hạ hữu đạo: Đắc kỳ dân, tư đắc thiên hạ hỹ. Đắc kỳ
dân hữu đạo: Đắc kỳ tâm, tư đắc dân hỹ. Đắc kỳ tâm hữu đạo: Sở dục, dữ chi tụ chi: Sở
ố, vật thi nhĩ dã.” (Kiệt và Trụ mất thiên hạ tức mất ngơi thiên tử, ấy vì mất dân chúng.
Mất dân chúng, ấy vì mất lịng dân. Muốn được thiên hạ, có một phương pháp nên theo:
Hễ được lòng dân, tự nhiên sẽ được dân chúng. Muốn được dân chúng, có một phương
pháp nên theo: dân muốn việc gì nhà cầm quyền nên cung cấp cho họ; dân ghét việc gì
nhà cầm quyền đừng thi thố cho họ” (Mạnh Tử) [27, tr.18]. Tuân Tử lấy hình ảnh ẩn dụ
“thuyền” và “nước” để nêu bật sức mạnh của nước, cũng là khẳng định vai trò to lớn
của dân trong việc ổn định xã hội: “Quân giả chu dã, thứ nhân giả thủy dã; thủy tắc tái
chu, thủy tắc phúc chu” (Vua là thuyền, dân là nước; nước có thể chở thuyền, nước có
thể lật thuyền” (Tuân Tử) [88, tr.121].
Trong lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc cổ đại, có hai khái niệm “thân dân”
và “tân dân”, trong đó chữ tân có khi là viết tắt của chữ thân. “Tân dân” là giác ngộ dân
chúng để dân chúng đổi mới; “Thân dân” là làm cho dân giàu có, an thuần. Vấn đề làm
cho dân giàu có và vấn đề giáo dục dạy dỗ dân chúng là hai vấn đề song song, Thượng
Thư, Kinh Thi, Quản tử, Luận ngữ, Đổng Trọng Thư đề cao “tiên phú hậu giáo” (trước
làm cho dân giàu, sau giáo dục dân, đi từ phú đến giáo, với các khái niệm dưỡng dân,
khang dân, dụ dân, bảo dân, thứ chi - phú chi - giáo chi); Giản Nghị nhấn mạnh trước
giáo dục, sau làm cho dân giàu. Chu Hy nhấn mạnh “nội thánh” (bậc đế vương phải
gương mẫu đạo đức, “tu kỉ” để giáo dục dân chúng, minh minh đức), còn Vương
Dương Minh chú ý đến “ngoại vương” (bậc đế vương phải “an bách tính”). Khổng Tử
16
16
nêu rõ các phép tắc của người cai trị thiên hạ, trong đó ơng đặc biệt nhấn mạnh lịng
nhân đức, từ ái đối với dân “Tử thứ dân, tắc bá tính khuyến” (Mình thương dân chúng
như con, thì bá tính rủ nhau phục tùng theo mệnh lệnh mình). (Luận ngữ) [27, tr. 252].
Mạnh Tử tiếp nối tư tưởng của Khổng Tử, ơng giải thích rõ hơn chính sách giáo dân:
“Thiện chính bất như thiện giáo chi đắc dân giã. Thiện chính, dân úy chi; thiện giáo,
dân ái chi. Thiện chính, đắc dân tài; thiện giáo đắc dân tâm” (Lời nói có nhân làm cho
người ta cảm động chẳng sâu xa bằng danh tiếng có nhân. Cai trị giỏi thâu hoạch dân
chúng chẳng bằng giáo hóa hay. Cai trị giỏi khiến dân sợ sệt; giáo hóa hay làm cho dân
yêu mến. Cai trị giỏi làm cho dân được giàu có no đủ; giáo hóa hay thì được lịng dân)
[27, tr.224]. Tư tưởng thân dân đó gắn với chủ nghĩa nhân đạo và có nhiều điểm tiến bộ
so với thời đại.
Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm tư tưởng thân dân, luận án đề xuất nội hàm cơ bản
của khái niệm tư tưởng thân dân như sau: Tư tưởng thân dân được hiểu là quan niệm,
nhận thức về dân, cách ứng xử với dân theo hướng: gần gũi, gắn bó với dân; thương
dân, đề cao sức mạnh của dân (trọng dân), ơn dân. Tính chất phức tạp, nhiều chiều
trong khái niệm tư tưởng thân dân còn thể hiện ở việc xác định chủ thể của tư tưởng
thân dân. Đây là tư tưởng của giai cấp thống chí và của cả các sĩ phu, nho sĩ trí thức.
Tầng lớp thống trị dùng tư tưởng này để quản trị đất nước. Với họ, dân có khi là mục
đích, có khi là phương tiện. Dân là mục đích khi người cầm quyền hướng tới người dân
(thấy được sức mạnh của người dân để quan tâm tới họ). Dân là phương tiện khi người
cầm quyền hướng tới người dân nhưng mục đích là để duy trì địa vị giai cấp thống trị
(không để dân khổ để dân không làm loạn, thấy được sức mạnh người dân, tìm cách
chăn dân, vỗ về dân, “yên dân” để giữ yên địa vị của giai cấp thống trị. Tư tưởng thân
dân của các sĩ phu – trí thức phong kiến thì trong tư tưởng ấy có gửi gắm những mong
ước, khát vọng của quần chúng. Vì vậy, nội hàm “tư tưởng thân dân” ở từng triều đại
tương ứng với khái niệm “dân” ở mỗi thời, qua đó cũng thể hiện trình độ, nhận thức của
tầng lớp “quân tử” thời ấy. Qua tư tưởng thân dân, có thể đánh giá được sự tiến bộ, văn
minh hay bảo thủ, lạc hậu của các triều đại.
1.1.3. Tiêu chí xác định tư tưởng thân dân trong tác phẩm văn học
Từ việc phân tích các mối quan hệ, các bình diện, các khía cạnh khác nhau trong
khái niệm dân và tư tưởng thân dân, luận án xác định tìm hiểu tư tưởng thân dân trong
văn học trung đại Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII với các nội dung: Tư tưởng
17
17
thân dân thể hiện một cách trực tiếp là khi nói đến người dân, đây là nội dung chủ yếu
mà đề tài quan tâm nghiên cứu. Tư tưởng thân dân thể hiện một cách gián tiếp là khi
viết về đất nước, xã hội,… nhưng qua đó gửi gắm nguyện vọng về cuộc sống của người
dân. Khi viết về người dân trong cảnh đói khổ nhưng đồng thời bày tỏ niềm mơ ước về
một đất nước hịa bình, thịnh vượng để người dân đỡ khổ. Vì thế, có những trường hợp,
tư tưởng thân dân và tư tưởng yêu nước giao thoa với nhau. Tuy nhiên, đây lại là hai
phạm trù bởi lẽ, tư tưởng thân dân nhìn từ góc độ mục đích viết về người dân cơ bản
đứng trên lập trường nhân bản - nhân đạo về quyền sống con người. Còn tư tưởng yêu
nước về cơ bản đứng trên lập trường dân tộc.
Luận án của chúng tôi đề cập đến tư tưởng thân dân trong văn học tập trung qua
ba phương diện:
Thứ nhất, thân dân là thương dân (ái dân). Đây là nền tảng cũng là gốc rễ của tư
tưởng thân dân. Xuất phát từ những tình cảm chân thành, nhân ái mà xúc động, rung
cảm, đồng cảm với những niềm vui, nỗi buồn, nỗi đau khổ trong cuộc sống của người
dân. Chỉ khi gần gũi và chia sẻ có tình cảm mới hiểu và biết yêu, thương dân.
Thứ hai, thân dân là trọng dân, tức là đề cao người dân, coi trọng vai trị, vị trí
của người dân; coi dân là gốc của nước. Trong đời sống xã hội, người dân ln ln có
một vị trí quyết định, sáng tạo ra những giá trị của cải vật chất và tinh thần. Trọng dân
thì mới phát huy được sức mạnh của dân. Do đó, trọng dân là mức độ thứ hai, tiến lên
một bước khi nhận ra vai trò, ý nghĩa của dân trong kiến tạo xã hội.
Thứ ba, thân dân là ơn dân. Khi giới cầm quyền biết “ơn dân” là vị thế của dân
đã được đánh giá cao và được tôn trọng thật sự. Thái độ “biết ơn” dân là thái độ của kẻ
dưới đối với người trên. Chỉ khi có nhận thức cao mới có suy nghĩ và tình cảm biết ơn
này và khi “biết ơn” mới có cách hành xử, đối xử tương ứng. Về cơ bản nội dung này
chỉ xuất hiện ở Nguyễn Trãi. Tư tưởng của Nguyễn Trãi về dân là tư tưởng vượt lên thời
đại ơng và rất có ý nghĩa đối với thời hiện đại khi mà vai trị và vị trí cũng như nhận
thức về dân đã có những bước tiến bộ vượt bậc.
Rõ ràng, tư tưởng thân dân là một trong những tư tưởng lớn và quan trọng của
lịch sử chính trị phương Đơng nói chung, ở Trung Quốc và Việt Nam nói riêng. Tư
tưởng thân dân cũng có sự phát triển và nó thể hiện sự phát triển của các triều đại phong
kiến. Tư tưởng thân dân dù nằm trong lằn ranh của những vấn đề chính trị, xã hội, văn
hóa mang những tính chất phức tạp, song nếu xét sự biểu hiện trong văn học thì tư
18
18
tưởng thân dân vẫn được tiếp cận theo hướng thuận chiều nhiều hơn là trái chiều. Thuận
chiều thể hiện sự đóng góp của các tác giả khi nhìn nhận rõ vai trị tích cực của người
dân, phản ánh một cách sâu sắc các “tiêu chí” trên của tư tưởng thân dân trong quan
điểm và các sáng tác văn học. Trái chiều lại theo hướng xa dời, thậm chí có quan điểm,
cách nhìn coi thường vị thế của người dân, đi ngược lại với các “tiêu chí” của tư tưởng
thân dân.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nhìn chung có những hướng nghiên cứu sau liên quan tới đề tài của luận án:
1.2.1. Nghiên cứu tư tưởng thân dân từ góc độ tư tưởng, triết học, lịch sử liên quan
tới đề tài
Các tài liệu nghiên cứu tư tưởng thân dân từ góc độ tư tưởng, triết học, lịch sử là
yếu tố tiền đề giúp chúng tơi hình dung về diễn tiến của tư tưởng thân dân trong mối
quan hệ với văn học. Các nhà nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt Nam một mặt chỉ ra
rằng “thân dân” là một tư tưởng lớn của thời đại, nó có liên quan chặt chẽ với lịch sử, tư
tưởng, văn hóa, triết học, tơn giáo, đặc biệt là Nho giáo, Phật giáo, mặt khác, tư tưởng
thân dân còn là tinh hoa trong truyền thống yêu nước, nhân đạo và văn hóa Việt Nam
được kết tinh trong sáng tác của nhiều tác gia lớn trong văn học trung đại Việt Nam. Có
thể kể tới các tài liệu tiêu biểu sau: Lịch sử tư tưởng Việt Nam (1967 - 1970) của nhà
nghiên cứu Nguyễn Đăng Thục [186]; Tư tưởng phương Đơng gợi những điểm nhìn
tham chiếu của tác giả Cao Xuân Huy [68]; Tư tưởng Việt Nam thời Trần (2014) của
Trần Thuận [185]; Khái lược lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam (2016) của nhà nghiên
cứu Nguyễn Tài Đông, Nguyễn Tài Thư và nhiều tác giả khác [46]; Vấn đề con người
trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thế kỉ XV- XVIII của tác giả Nguyễn Bá Cường [29],…
Ngồi những cơng trình nghiên cứu trên đây, liên quan đến nội dung đề tài luận
án còn có các luận văn, luận án triết học, các bài báo in trên Tạp chí đã được cơng bố
như Quan niệm về dân và tư tưởng thân dân trong “Luận ngữ”,“Mạnh Tử” của Trần
Quang Ánh [3]; Một số nội dung cơ bản của Nho giáo Việt Nam thời Trần [208] của Vũ
Văn Vinh; Đặc trưng thời đại Lí Trần [106] của Nguyễn Cơng Lý (Tạp chí Nghiên cứu
Phật học, HN, số 3 - 2000), … Đáng chú ý là trong bài Chữ dân trong di cảo văn
chương của Nguyễn Trãi Phan Quý Bích nhấn mạnh tư tưởng “trọng dân” ở Nguyễn
Trãi: “không phải nhà nho nào cũng được như Nguyễn Trãi - kiên trì với tư tưởng trọng
“dân” đến mức, xem dân là động lực của mọi biến cố xã hội” [10,tr.4]. Nhà nghiên cứu
19
19
Dỗn Chính trong bài Về tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi đã rất chú ý tới tư tưởng
thương dân của ông: “Đối với Nguyễn Trãi “yêu nước là thương dân, để cứu nước phải
dựa vào dân, và cứu nước là để cứu dân, đem lại thái bình cho dân, cho mọi người”…
Nguyễn Trãi là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nói đến “dân đen con đỏ” một
cách tha thiết, cảm động và chân thành” [20,tr.35-36]. Tác giả Trần Thị Hương với đề
tài nghiên cứu triết học Tư tưởng thân dân trong lịch sử tư tưởng Việt Nam đến đầu thế
kỉ XX đã đi sâu phân tích nguồn gốc và nội dung của tư tưởng thân dân trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam từ tư tưởng lấy dân làm gốc của Trần Quốc Tuấn; tư tưởng thân dân
của Nguyễn Trãi; tư tưởng dân chủ của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đến tư tưởng
thân dân, “lấy dân làm gốc” của Hồ Chí Minh [70].
Khi nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng đã chú ý
tới sự ảnh hưởng và tác động rất to lớn của Nho giáo, Phật giáo đối với sự hình thành tư
tưởng của con người Việt Nam cũng như tư tưởng thân dân. Các tài liệu có đóng góp
lớn là: Nho giáo (1930) [81] của Trần Trọng Kim; Nho giáo và văn học Việt Nam trung
cận đại (1998) [71] của Trần Đình Hượu; Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và
ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỉ XI đến nửa đầu thế kỉ XIX) (2007) [14] của tác
giả Nguyễn Thanh Bình; Việt Nam Phật giáo sử luận (1979) [86] của Nguyễn Lang
(Thích Nhất Hạnh); Ảnh hưởng Phật giáo trong đời sống người Việt (1996) [148] của
Thích Nguyên Tạng,… Các nhà nghiên cứu Trần Trọng Kim, Trần Đình Hượu đã chỉ ra
sự ảnh hưởng nhiều mặt của Nho giáo đối với văn học Việt Nam. Trong phần viết về
Nguyễn Trãi và Nho giáo, tác giả Trần Đình Hượu nhấn mạnh: “khơng chỉ bàn về hình
thức Nho trong tư tưởng Nguyễn Trãi mà bàn về khâu nhà Nho Nguyễn Trãi trong lịch
sử du nhập Nho giáo, trong lịch sử phát triển tư tưởng Việt Nam” [71,tr. 77]. Tác giả
cũng chỉ ra: “Suốt đời Nguyễn Trãi làm việc với tinh thần nhập thế có trách nhiệm,
ln luôn để ý đến nhân dân, lo trước điều lo của thiên hạ … Đó là tinh thần vốn có
của Nho gia” [71,tr.95]. Nguyễn Lang (Thích Nhất Hạnh) khi bàn về sự phát triển của
Phật giáo đời Lí, đời Trần nhấn mạnh đến những nhân vật như Trần Nhân Tông (vị tổ
thứ nhất của thiền phái Trúc Lâm), sở dĩ được nhân dân ủng hộ và tơn kính cũng là vì
vua có tư tưởng thân dân - cố kết được lịng dân, từ đó đem đạo Phật truyền bá đến
mn dân một cách tự nhiên: “Một ông vua đã từng đánh bại cuộc xâm lăng của nhà
Nguyên, một ông vua đã đem hịa bình và thịnh trị về cho dân, một ông vua như thế khi
đi xuất gia chắc chắn đã gây nên một tiếng vang lớn và khiến tất cả mọi người trong
20
20
nước hướng nhìn về ngọn núi Yên Tử. Đạo Phật trở thành yếu tố tâm lý liên kết toàn
dân lại trong mục đích xây dựng và bảo vệ quốc gia.” [86, tr.256]. Thích Nguyên Tạng
khẳng định rằng đạo lí Phật giáo tác động tới truyền thống tư tưởng của người Việt
Nam: “Đạo lí ảnh hưởng nhất là giáo lí từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật
giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của người Việt” [148, tr35].
Nghiên cứu tư tưởng thân dân từ góc độ lịch sử, chúng tơi chú ý tới cuốn Đại
Việt sử kí tồn thư - bộ sử kí lớn của nước ta thời trung đại mang tinh thần Nho giáo
đậm nét [98]. Bức tranh lịch sử cụ thể của các triều đại phong kiến Việt Nam đã được
ghi chép tường tận trong các thế kỷ X đến hết thế thế kỷ XV. Sự vô giá của bộ sử này ở
nhiều khía cạnh, nhưng trong đó chúng tơi quan tâm tới thái độ nhìn nhận thẳng thắn,
trung thực, nghiêm khắc của người chép sử đối với những sự kiện lịch sử, những triều
đại vua, việc hay làm được cho dân và kể cả phê phán những việc dở dẫn đến sự suy
vong của triều đại ấy. Đại Việt sử kí tồn thư cho ta thấy cả những khía cạnh thực tế
chính trị, lịch sử là điều kiện quan trọng để hiểu nội dung tư tưởng thân dân trong các
văn bản văn học trung đại. Tư tưởng thân dân, lấy dân làm gốc là tư tưởng lớn, trở
thành cảm hứng sâu sắc trong tác phẩm văn học nhưng trên phương diện lịch sử xã hội,
nó đối lập với chế độ chuyên chế độc đoán, kể cả tàn bạo của các triều đại phong kiến
Việt Nam.
1.2.2. Nghiên cứu tư tưởng thân dân trong văn học
1.2.2.1. Nghiên cứu tư tưởng thân dân trong sự phát triển của lịch sử văn học Việt Nam
Những đóng góp vào việc nghiên cứu tư tưởng thân dân trong sự phát triển của
lịch sử văn học Việt Nam được thể hiện trong các giáo trình văn học sử của trường Đại
học Sư phạm và Đại học Tổng hợp (nay là Đại học KHXHNV - ĐH Quốc gia Hà Nội).
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu về lịch sử văn học trung đại Việt Nam đều nhấn
mạnh tư tưởng thân dân là một truyền thống trong văn học Việt Nam. Có thể kể đến các
tài liệu nghiên cứu của tác giả Đinh Gia Khánh trong Hợp tuyển Văn học Việt Nam từ
thế kỉ X - XVII (1962) [73]; Văn học Việt Nam (Thế kỉ X - nửa đầu thế kỉ XVIII) (1978)
[76]; Văn chương Nguyễn Trãi (1984) [126,tr.485] của nhà nghiên cứu Bùi Văn
Nguyên; Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (2003) của Trần Nho Thìn
[177]. Văn học trung đại Việt Nam, Tập 1, (2011) [175] của Lã Nhâm Thìn; Văn học
trung đại Việt Nam (Thế kỉ X - cuối thế kỉ XIX) (2006) [199] của Đoàn Thị Thu Vân,…
21
21
Tác giả Đinh Gia Khánh đánh giá về văn học đời Lí đã nhấn mạnh rằng các nhà
nho đời Lí rất chú ý đến trách nhiệm của mình đối với dân “không ngừng trau đức để
yên dân” [73,tr.65]. Các nhà vua thời Lí đã nhận thức được mối quan hệ giữa vận mệnh
của nhân dân với vận mệnh của triều đại trong các bài Chiếu dời đơ của Lí Cơng Uẩn,
Nam quốc sơn hà (khuyết danh), Văn bia chùa Linh Xứng. Đến thời Trần, các tác giả
càng nhận thức sâu sắc hơn về vai trò, sức mạnh của nhân dân đối với cuộc kháng chiến
của dân tộc chống giặc Mông - Nguyên. Đặc biệt phải kể đến tư tưởng khoan thư sức
dân được Trần Quốc Tuấn coi như thượng sách giữ nước. Đến cuối đời Trần khi triều
đại có biểu hiện suy vi, các tác giả thể hiện niềm đau xót trước tình cảnh khổ cực của
người dân như Chu Văn An, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh.
Văn học thế kỉ XV tiếp tục thể hiện mạnh mẽ ý thức về vai trị của dân, nói lên
hồi bão của người trí thức về dân như Nguyễn Mộng Tuân, Lí Tử Tấn. Tiêu biểu nhất
ở thời kì này là Nguyễn Trãi: “Tấm lòng ưu quốc ái dân suốt đời cuồn cuộn như “nước
triều đông” ấy của Nguyễn Trãi quả là đã thể hiện trong sự nghiệp cứu quốc cũng như
sự nghiệp văn học của ông” [73,tr.215]. Tác giả Bùi Văn Nguyên đánh giá cao tư tưởng
thân dân của Nguyễn Trãi: “Cái mà Nguyễn Trãi nói: cái “khó và bền của người quân
tử”, cái “mạnh và gắng của kẻ trượng phu” chính là cái chất kiên cường và liêm khiết
của người anh hùng biết tự hào và tự trọng, luôn luôn mang nặng lòng lo nước thương
dân như thủy triều ngày đêm tn ra bể” [126,tr.499].
Vấn đề tư tưởng thân dân nhìn chung đã được các nhà nghiên cứu chú ý nhưng
mới đặt ra ở mức độ sơ lược, khái quát vì đó chưa phải là những cơng trình nghiên cứu
chun sâu về tư tưởng thân dân trong văn học. Vì vậy, cần có sự tìm hiểu rõ hơn, hệ
thống hơn về tư tưởng thân dân ở những tác giả, tác phẩm văn học cụ thể.
1.2.3.1. Nghiên cứu về các tác gia văn học, đặc biệt là các tác gia lớn có đề cập đến tư
tưởng thân dân
Nghiên cứu về tư tưởng thân dân từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII chúng tơi nhận
thấy các cơng trình, tài liệu nghiên cứu tập trung bàn luận đến các tác gia lớn là Trần
Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tơng, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Phùng Khắc Khoan, …Nhìn chung các ý kiến đều đánh giá cao tư tưởng thân dân của
các nhà nho trung đại Việt Nam.
Nguyễn Trãi là tác giả tiêu biểu nhất của văn học thế kỷ XV. Chúng tơi nhận thấy
số lượng cơng trình, bài viết nghiên cứu về thơ văn của Nguyễn Trãi rất phong phú và
22
22
đề cập đến nhiều phương diện về cuộc đời, con người, tư tưởng cũng như nghệ thuật
thơ văn của ông. Thành tựu lớn trong nghiên cứu về Nguyễn Trãi được đánh dấu bằng
cơng trình Nguyễn Trãi khí phách và tinh hoa dân tộc (1980) do Viện Văn học biên
soạn. Các tác giả đã bàn luận về nhiều vấn đề khác nhau nhưng hướng chung là giải
thích thời đại lịch sử tạo nên Nguyễn Trãi và đi sâu vào hai khía cạnh: Nguyễn Trãi nhà tư tưởng, và Nguyễn Trãi - nhà văn. Điểm gặp gỡ chung của các nhà nghiên cứu là
đều đánh giá cao về giá trị tư tưởng, tình cảm vĩ đại của Nguyễn Trãi, coi ơng là biểu
tượng của người trí thức dân tộc cũng như tinh hoa văn hóa Việt. Trong đó, nguồn gốc
và cơ sở trong tư tưởng của Nguyễn Trãi chính là tư tưởng thân dân. Chúng tôi chú ý
đến ý kiến đánh giá của Vũ Khiêu, theo ơng để làm nên tầm vóc vĩ đại của người anh
hùng dân tộc Nguyễn Trãi thì một lí do quan trọng là từ sức mạnh của nhân dân:
“Nguyễn Trãi đã suốt đời gắn bó với nhân dân. Ở ông, Tổ quốc và nhân dân là một.
[…] Nguyễn Trãi vĩ đại khơng chỉ ở tình cảm sâu sắc của ơng đối với nhân dân, mà
cịn ở chỗ ông nhận thức được sức mạnh to lớn của chính nhân dân” [193,tr.75]. Ý kiến
của nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi nêu rõ: “Tóm lại, trong quan niệm của nhà trí
thức Nguyễn Trãi, rõ ràng nhân nghĩa có một nội dung xác định: u thương dân
chúng; có một mục đích tự thân sáng rõ: vì hạnh phúc của tồn dân mà phấn đấu; và
chính nó là một tiêu chuẩn hàng đầu của chủ nghĩa anh hùng” [193,tr.126]. Phần
nghiên cứu về thơ văn của Nguyễn Trãi các nhà nghiên cứu đều đánh giá Nguyễn Trãi
là một nhà văn xuất sắc cả về tư tưởng và nghệ thuật trên nhiều loại hình văn học.
Chúng tơi đánh giá đây là một cơng trình khoa học công phu gợi mở rất nhiều vấn đề
trong quá trình thực hiện luận án.
Năm 1996, tác giả Võ Xuân Đàn khi nghiên cứu Tư tưởng Nguyễn Trãi trong
tiến trình lịch sử Việt Nam đã khẳng định: “Nội dung tư tưởng thân dân là nét biểu hiện
tập trung trong tồn bộ tư tưởng của Nguyễn Trãi. Nó phản ánh xu thế đang trỗi dậy
của quần chúng nhân dân đầu thế kỉ XV, muốn thoát khỏi chế độ điền trang thái ấp để
trở thành nông dân tự do… tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi đã phản ánh tính chất
quần chúng đơng đảo - tính chất cơ bản nhất của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn” [39,128].
Đặc biệt, tác giả Lã Nhâm Thìn trong cuốn “Văn học trung đại Việt Nam”, Nxb
Đại học Sư phạm Hà Nội, ở chương viết về Nguyễn Trãi đã khẳng định Ức Trai là tác
giả đầu tiên nói lên chữ “ơn dân”: “Ơng là người đầu tiên xem yếu tố văn hiến, yếu tố
truyền thống lịch sử là hạt nhân cơ bản để xác định dân tộc, là người đưa chữ “dân”
23
23
vào phạm trù “ái quốc”… Nguyễn Trãi là một trong những tác giả văn học viết đầu
tiên nói lên hai tiếng “ơn dân”, mà lại là ơn những người lao động chân lấm tay bùn:
“Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cầy”. [175,tr.146].
Một cơng trình bề thế đáng chú ý nữa về Nguyễn Trãi đó là Nguyễn Trãi về tác
gia và tác phẩm (2000) do Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, trong cuốn sách,
ta bắt gặp khá nhiều bài viết đề cập đến lòng thương dân yêu nước, nỗi đau đời của
Nguyễn Trãi qua những sáng tác của ông từ Qn trung từ mệnh tập, Bình Ngơ đại cáo
đến Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập. Đáng chú ý là các bài viết của Đinh Gia Khánh,
Phạm Thế Ngũ, Vũ Khiêu, Trần Văn Giàu, Mai Quốc Liên, Lê Trí Viễn, Trần Thị Băng
Thanh, Nguyễn Huệ Chi, Xuân Diệu, Hồi Thanh, Tầm Vũ,…. Có thể xem đó là những
cách tiếp cận liên quan đến tư tưởng thân dân. Miễn Trai đi vào tìm hiểu “hai cảnh
ngộ, một tâm tình của nhà thơ Nguyễn Trãi”. [143,tr.366]. Trương Chính khám phá
“những vần thơ nặng suy tư” [143,tr.378] trong Ức Trai thi tập và nhận thấy tấm lịng vì
dân vì nước của Nguyễn Trãi hơn là “chất lửa trong lị”. Lê Trí Viễn phát hiện ra “chất
Đại Việt trong Ức Trai thi tập” [143,tr.409] và khẳng định thiên tài Nguyễn Trãi quả
phong phú, đúng là “một tâm hồn rộng mở bốn phương nhưng quy về một hướng dân
chủ - hướng yêu nước thương dân, hướng Việt Nam truyền thống. Thiết tưởng đó là chỗ
vĩ đại của Nguyễn Trãi” [143,tr.424]. Nguyễn Huệ Chi xác định chiều sâu “niềm thao
thức lớn trong thơ Nguyễn Trãi” [143,tr.466]. Hồi Thanh cảm nhận tấm lịng vì dân vì
nước là điều quý giá nhất của Nguyễn Trãi qua thơ Nôm. Đặc biệt Tầm Vu khẳng định:
“Nguyễn Trãi, người đứng đầu một văn phái yêu nước, thân dân, có lí tưởng xã hội cao
cả” [143,tr.786], và cũng chỉ ra mấy điểm sau: Trong văn chương Nguyễn Trãi người
dân chiếm vị trí trọng yếu, Nguyễn Trãi chân thành thân dân và ln hướng tới xã hội lí
tưởng cao q,… Ngồi ra, Trần Thị Băng Thanh cịn tìm hiểu thơ chữ Hán của Ức Trai
trong mối quan hệ với thơ chữ Hán đời Trần. Nhà nghiên cứu cho rằng: “Nguyễn Trãi
đã tiếp thu nét ưu tư, thương dân, băn khoăn về trách nhiệm của kẻ sĩ của các nhà thơ
cuối Trần mà nổi bật là Trần Nguyên Đán và Nguyễn Phi Khanh” [143, tr.425]. Từ đó
xác định điểm mới trong tư tưởng thân dân ở Nguyễn Trãi so với các tác giả đời Trần
như Trần Minh Tông, Nguyễn Phi Khanh là “thương dân, lo nghĩ phương sách để trị
dân yên”, khẳng định vai trò của người dân.
Năm 2009, trong Về tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi nhà nghiên cứu Dỗn
Chính nhấn mạnh tư tưởng thân dân là điểm nổi bật trong tư tưởng nhân nghĩa của
24
24
Nguyễn Trãi. Tác giả viết: “Nguyễn Trãi nhắc đến dân rất nhiều lần trong các tác phẩm
của ông - 155 lần. Nguyễn Trãi là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nói đến “dân
đen con đỏ” một cách tha thiết, cảm động và chân thành” [20,tr.36].
Trần Nho Thìn trong bài viết Tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi đăng trên Tạp
chí Cửa Việt, Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Trị số 261, tháng 6/2016 đánh giá: “Nói
đến nhà văn hóa lớn Nguyễn Trãi, điều đầu tiên chúng ta nghĩ đến là một nhà tư tưởng
thân dân vĩ đại […]. Tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi về bản chất là tư tưởng được
phát biểu từ góc độ người dân. Nội dung lớn của văn hóa chính trị mà Nguyễn Trãi suốt
đời theo đuổi chính là nhân nghĩa. […] Khơng nói thân dân, nhân nghĩa chung chung,
sách vở, Nguyễn Trãi dựa vào thực tiễn để đấu tranh ngoại giao với kẻ thù tàn bạo, xảo
quyệt” [180, tr.42].
Có thể thấy, nghiên cứu về tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi, nhìn chung các
tác giả đều đánh giá cao vị trí và tầm ảnh hưởng lớn lao của Nguyễn Trãi trong nền văn
học dân tộc. Trên cơ sở tiếp thu nguồn tư liệu của những người đi trước, luận án tập
trung làm sáng tỏ hơn tư tưởng thân dân của đại thi hào Nguyễn Trãi kết tinh qua toàn
bộ sự nghiệp văn chính luận và thơ ca của ơng.
Bên cạnh Nguyễn Trãi, nhà tư tưởng - nhà văn kiệt xuất đầu thế kỷ XV, Lê
Thánh Tông cũng là một tác giả nổi bật của văn học nửa cuối thế kỷ XV. Các ý kiến của
các nhà nghiên cứu đều khẳng định Lê Thánh Tơng là một tác giả có tư tưởng thân dân
sâu sắc. Mai Xuân Hải (Chủ biên) trong cuốn Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông đánh giá:
“Tư tưởng tiến bộ ấy đã kế thừa được từ tư tưởng “thân dân”, “an dân” của những tác
giả tiến bộ lớp trước như Trần Hưng Đạo, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi,… và đã tiếp
thu được ở phần tư tưởng tích cực “dân là gốc nước, gốc vững thì nước mới bền” (dân
vi bang bản, bản cố bang ninh) trong Kinh Thư” [52,tr.22].
Năm 2007, trong “Lê Thánh Tông về tác gia và tác phẩm” (Bùi Duy Tân, Lại
Văn Hùng tuyển chọn và giới thiệu), các tác giả đều đánh giá cao cuộc đời và sự nghiệp
vì nước vì dân của hồng đế Lê Thánh Tông, đồng thời đề cao tư tưởng thân dân trong
thơ văn chữ Nôm và chữ Hán của ông. Nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân trong bài Lê
Thánh Tông - Vị hồng đế anh minh, nhà văn hóa lỗi lạc, một văn hào dân tộc đánh giả
rất cao tư tưởng thân dân của Lê Thánh Tông: Thân dân không phải là đạo đức hoặc
tình cảm riêng tư của vua tơi Lê Thánh Tơng, mà là đường lối chính trị cơ bản của các
vương triều phong kiến, trước khi có những thể chế dân chủ hiện đại ra đời. Rút kinh
25
25
nghiệm lịch sử qua các triều đại, đặc biệt là của ông cha, Lê Thánh Tông cho rằng,
muốn thuận theo ý trời, giữ vững cơ nghiệp nhà Lê thì phải quan tâm đến lợi ích của
nhân dân, phải thi hành chính sách thân dân” [155, tr. 48].
Tác giả Nguyễn Duy Q trong bài “Lê Thánh Tơng - Nhà chính trị tài năng và
nhà văn hóa lớn” nhận định rằng Lê Thánh Tơng là một vị hồng đế có chính sách “an
dân” sâu sắc [155]. Nguyễn Tài Thư trong bài “Tư tưởng Lê Thánh Tông và triều đại
thịnh trị của ông” nhấn mạnh "Ý thức vì dân đã quán xuyến trong tư tưởng của ông”.
[155, tr.257].
Nghiên cứu về tác gia Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta chú ý đến những ý kiến của Đinh
Gia Khánh trong cơng trình nghiên cứu Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Là một tác giả
lớn của nền văn học nước ta, Nguyễn Bỉnh Khiêm giống như cây đại thụ tỏa bóng lên
cả thế kỉ thứ XVI. Tuy khơng có sự nghiệp kinh bang tế thế như Nguyễn Trãi, nhưng tấm
lòng son, lo trước thiên hạ của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã không bao giờ phai nhạt và
xứng đáng với truyền thống tốt đẹp mà bậc tiền bối vĩ đại ấy đã để lại” [75,tr.67].
Năm 2000, trong cơng trình nghiên cứu “Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia và tác
phẩm”, Trần Thị Băng Thanh - Vũ Thanh (Tuyển chọn và Giới thiệu), chúng tơi chú ý tới
các bài có đề cập đến tư tưởng thân dân của Nguyễn Bỉnh Khiêm: Sức sống của thơ ca và
tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm của tác giả Vũ Thanh và Trần Thị Băng Thanh [160];
Nguyễn Bỉnh Khiêm và tấm lịng tiên ưu đến già chưa thơi tác giả Bùi Duy Tân [160,
tr.313]; “Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm chống chiến tranh phong kiến” của tác giả Vũ Thanh
[160, tr.379]. Đáng nói tới học giả người nước ngồi là Thomas Engelbert nhân 400 năm
ngày mất của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết bài Giúp nước thương dân [160].
Ngoài ra, các bài viết của các tác giả khác như Nguyễn Đổng Chi, Lê Bảo, Lê Trí Viễn,
Lã Nhâm Thìn, N.I. Niculin, Đặng Thanh Lê,…dù bàn về khía cạnh khác nhau nhưng
điểm chung là đều khẳng định Nguyễn Bỉnh Khiêm và sự nghiệp thơ văn của ơng tốt lên
tấm lịng ưu quốc ái dân vằng vặc.
Một cơng trình nghiên cứu có giá trị nữa về Nguyễn Bỉnh Khiêm là Thơ văn
Nguyễn Bỉnh Khiêm (Tổng tập - 2014) do Trần Thị Băng Thanh và Phạm Ngọc Lan
chủ biên [164]. Trong cuốn sách này, các tác giả đều tôn vinh Nguyễn Bỉnh Khiêm là
một nhà thơ lớn của văn học Việt Nam thế kỉ XVI. Một trong những giá trị xuyên suốt
về tư tưởng và tác phẩm của ơng là tình cảm ưu quốc ái dân sâu sắc. Sống trong một
hoàn cảnh lịch sử “đầy đau thương và ly tán”, tư tưởng thân dân của Nguyễn Bỉnh