Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Góp bàn về văn hóa quan họ trong dân ca quan họ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (624.46 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Q



<b>GĨP BÀN VỀ VĂN HỐ QUAN HỌ </b>


<b>TRONG DÂN CA QUAN HỌ </b>



<b>HÀ CHÍ CƯỜNG </b>


<b>Tóm tắt </b>


<i>Bài viết trình bày khái lược quá trình hình thành khái niệm văn hố quan họ (VHQH) dưới góc nhìn </i>
<i>hệ thống mà Văn hóa học thường nhìn nhận như một hiện tượng văn hóa; góp bàn và đưa ra quan </i>
<i>niệm về VHQH như là một loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần ở địa phương đã sản sinh ra sinh hoạt </i>
<i>ca hát quan họ; nêu lên cơ cấu của VHQH gồm hệ thống ý niệm, triết lí sống của người Quan họ, hệ </i>
<i>thống giá trị và các chuẩn mực, hệ thống các hình thức biểu hiện, hệ thống các hoạt động mang tính </i>
<i>cộng đồng.</i>


<b>Từ khóa: Quan họ, văn hóa quan họ</b>


<b>Abstract </b>


<i>The article presents in summary the process which forms the concept of love duet culture under </i>
<i>the systematic perspective that culture studies often consider as a cultural phenomenon; discussing </i>
<i>and bring out the concept of love duet culture as a kind of cultural activities in the local area where </i>
<i>love duet singing created; mentioning the structure of love duet culture including system of concepts, </i>
<i>philosophies of love duet people, systems of value and standards, system of expressive forms, system of </i>
<i>community-based activities.</i>


<b>Keyword: Love duet, love duet culture</b>


uan họ hay dân ca Quan họ là một
trong những loại hình sinh hoạt


văn hóa độc đáo, là di sản văn hóa
phi vật thể có giá trị to lớn không những đối
với nhân dân vùng Kinh Bắc - vùng văn hóa đã
sản sinh và ni dưỡng Quan họ mà còn đối
với cộng đồng dân tộc Việt Nam. Năm 2009,
di sản văn hóa Quan họ đã được UNESCO đưa
vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể đại
diện của nhân loại.


Nghiên cứu để làm rõ hơn khái niệm “Văn
hóa Quan họ” (VHQH) là một việc cần thiết, góp
phần bảo tồn, phát huy các giá trị của di sản văn
hóa phi vật thể đặc biệt này.


<b>1. Từ “Hát Quan họ” đến“Văn hóa Quan họ” </b>


Khái niệm VHQH Bắc Ninh (được hiểu là
Kinh Bắc xưa) được hình thành cùng lịch sử


nghiên cứu Quan họ Bắc Ninh từ những thập
niên đầu thế kỷ XX đến nay. Các khái niệm
dùng để nghiên cứu hiện tượng văn hóa này
song hành cùng với những khám phá các đặc
<i>trưng, tính chất và giá trị vốn có của nó: từ Hát </i>


<i>Quan họ đến Chơi Quan họ rồi Sinh hoạt dân </i>
<i>ca Quan họ đến Sinh hoạt văn nghệ Quan họ và </i>
<i>Sinh hoạt VHQH. Tuy nhiên hiện nay khi nghiên </i>


cứu Quan họ Bắc Ninh dưới góc độ âm nhạc


<i>người ta vẫn dùng khái niệm Hát Quan họ hay </i>


<i>Dân ca Quan họ.</i>


Lịch sử nghiên cứu Quan họ Bắc Ninh ghi
nhận cơng trình đầu tiên là tài liệu của tác giả
<i>Chu Ngọc Chi (năm 1928) với tên gọi Hát Quan </i>


<i>họ (Phú Văn Hiệp xuất bản tại Sài Gịn). Cùng </i>


<i>thời tác giả Văn Sinh có bài Nghe hát Quan họ </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>Trúc có loạt bài phóng sự Hát Quan họ đăng </i>
<i>trong 7 số báo Trung Bắc Tân Văn (tháng 3 năm </i>
1937).


Các tác giả trên đặc biệt chú ý đến lĩnh vực
âm nhạc của Quan họ khi họ đề cập đến các
lề lối hát Quan họ (hát canh, hát hội) với các
“giọng” như: giọng Bỉ, giọng Sổng, giọng Vặt
và giọng Trên...


Trong giai đoạn đầu thế kỷ XX, có cơng trình
nghiên cứu Quan họ dưới góc nhìn Dân tộc
học là luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Huyên
<i>(1934) với đề tài: Hát đối đáp nam nữ thanh </i>


<i>niên. Tác giả, ngoài việc đề cập đến cách hát </i>


đối đáp nam nữ của Quan họ Bắc Ninh còn giới


thiệu sinh hoạt Hội Lim - Một lễ hội lớn gắn với
lối hát Quan họ đặc trưng của vùng Bắc Ninh.
Như vậy, cơng trình đã có những khám phá
dân tộc học rộng hơn về Quan họ Bắc Ninh,
không chỉ là dân ca thuần túy mà là một loại
hình sinh hoạt tinh thần cộng đồng trong đó
diễn xướng dân ca chỉ là một bộ phận.


Giai đoạn nửa sau thế kỷ XX, từ khi miền Bắc
nước ta được giải phóng, nghiên cứu Quan họ
Bắc Ninh được đẩy mạnh. Hàng loạt cơng trình
nghiên cứu ra đời nhưng vẫn từ góc độ âm
<i>nhạc hay văn học dân gian như: Tìm hiểu Quan </i>


<i>họ Bắc Ninh (1956) của nhóm tác giả Nguyễn </i>


<i>Đình Tấn, Lưu Khâm, Nguyễn Viêm; Tìm hiểu </i>


<i>nguồn gốc Quan họ Bắc Ninh của Nguyễn Tiến </i>


<i>Chiêu (1959); Dân ca Quan họ Bắc Ninh (1962) </i>
của nhóm tác giả Nguyễn Văn Phú, Lưu Hữu
<i>Phước, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc; Một số vấn đề </i>


<i>dân ca Quan họ Bắc Ninh (1972) của Ty Văn hóa </i>


Hà Bắc...


<i>Có thể nói khái niệm Dân ca Quan họ vẫn là </i>
khái niệm được dùng nhiều nhất trong nghiên


cứu Quan họ Bắc Ninh và về cơ bản nó vẫn
nằm trong phạm vi nghiên cứu âm nhạc (âm
nhạc dân gian) mặc dù các nhà nghiên cứu đã
quan tâm đến các hình thức diễn xướng của
dân ca Quan họ trong đời sống xã hội.


Bắt đầu từ những thập niên cuối thế kỷ XX,
đặc biệt là những năm đầu thế kỷ XXI, sau


khi nước ta mở cửa, gia nhập Tổ chức Giáo dục,
khoa học, văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO),
vấn đề bảo tồn di sản văn hóa dân tộc được nhìn
nhận từ những lý thuyết mới. Quan họ Bắc Ninh
không chỉ được nghiên cứu như một hiện tượng
âm nhạc mà còn được nhìn nhận như một hiện
tượng sinh hoạt văn hóa đặc thù với chiều rộng
và chiều sâu trong đời sống tinh thần của một
cộng đồng cư dân.


Các khái niệm mới lần lượt xuất hiện nhằm
nhận thức hiện tượng văn hóa đặc sắc này:“Lối
chơi Quan họ”, “Sinh hoạt văn nghệ Quan họ”
và“Văn hóa Quan họ”. Đó là kết quả của sự hợp
tác nghiêncứu giữa các nhà văn hóa học với các
<i>nhà âm nhạc học trong các cơng trình: Quan </i>


<i>họ, nguồn gốc và q trình phát triển (1978) của </i>


<i>Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý; Một </i>



<i>số vấn đề Văn hóa Quan họ (2000) của nhiều tác </i>


<i>giả; Quan họ Bắc Ninh - Thực trạng và giải pháp </i>


<i>bảo tồn (2006) của nhiều tác giả; Khơng gian </i>
<i>vănhóa Quanhọ, bảo tồn và phát huy, cũng của </i>


nhiều tác giả.


Đặc biệt là sau năm 2009, khi Tổ chức
<i>UNESCO ra quyết định công nhận Quan họ Bắc </i>


<i>Ninh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của </i>
<i>nhân loại thì khái niệm Văn hóa Quan họ được </i>


sử dụng ngày càng phổ biến và rộng rãi hơn. Từ
<i>đây, khái niệm Vănhóa Quanhọ được khẳng </i>
định như một phạm trù chính thức để chỉ một
loại hình văn hóa đặc thù của cộng đồng dân cư
Bắc Ninh, mặc dù người ta vẫn dùng khái niệm
Dân ca Quan họ để nghiên cứu phương diện âm
nhạc của nó. Lý giải về tình hình trên, nhà
<i>nghiên cứu Nguyễn Tri Nguyên cho rằng: “Văn </i>


<i>hóa Quan họ và Dân ca Quan họ được xem xét và </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

âm nhạc dân gian trong bối cảnh liên văn hóa
trên thế giới hiện nay”(1, tr.24-25).


Sự giải thích của nhà nghiên cứu Nguyễn


Tri Nguyên đã chỉ ra cách nhìn “liên văn hóa”
trong nghiên cứu văn hóa trên thế giới hiện
nay, được áp dụng vào việc nghiên cứu VHQH.
Đây là một phương pháp nghiên cứu đúng
đắn và phù hợp đối với hiện tượng văn hóa
đặc thù này. Song, quan điểm của tác giả chưa
chỉ ra bản chất của khái niệm VHQH từ sự tồn
tại khách quan của nó. Do vậy, tìm hiểu nội
dung khái niệm VHQH từ góc nhìn của chun
ngành Văn hóa học là vấn đề cần bàn thảo.


<b>2. Văn hóa Quan họ là gì? </b>


Theo chúng tơi, khái niệm VHQH khơng chỉ
xuất hiện từ cách nhìn “liên văn hóa” mà cịn
xuất phát từ bản thân đối tượng nghiên cứu.
Văn hóa Quan họ, từ khi thành hình, đã là một
loại hình văn hóa mang tính tổng hợp hay tổng
thể (nguyên hợp) như khẳng định của các nhà
nghiên cứu Đặng Văn Lung, Nguyễn Đình Bưu,
Trần Linh Quý, Hồng Thao... Chính Nguyễn Tri
Ngun đã khẳng định:“Các cơng trình nghiên
cứu kể trên đã phân tích một cách sâu sắc và
minh chứng một cách khá đầy đủ về tính tổng
thể của Văn hóa Quan họ: đó là những giá trị về
phong tục, tập quán, về đức tin tín ngưỡng, về
thế ứng xử và lối ứng xử của người dân Quan
họ, về sự kế thừa và phát triển” (2, tr.32).


Quan niệm Văn hóa Quan họ là một hiện


tượng văn hóa tổng thể đã được nhiều nhà
nghiên cứu chấp nhận (nghĩa là tương đối
thống nhất). Tuy nhiên, những định nghĩa về
khái niệm này lại chưa thống nhất và khá phức
tạp. Theo hiểu biết của chúng tơi, hiện nay có
hàng chục định nghĩa VHQH và có thể xếp vào
4 loại sau đây:


- Thứ nhất, định nghĩa theo lối mô tả, thống
kê các yếu tố làm nên cái tổng thể VHQH.
Chẳng hạn “Quan họ là một hiện tượng sinh
hoạt văn hóa đặc biệt với một khơng gian rộng
lớn bao gồm sự hợp thành của 5 mặt hoạt
động: dân ca Quan họ, tục kết bạn Quan họ,


văn hóa hành vi Quan họ, lễ hội Quan họ và
tín ngưỡng Quan họ. Qua quá trình tồn tại và
phát triển, tự thân các mặt này hòa hợp thành
một thể thống nhất: Văn hóa Quan họ”(3, tr.5).
Quan niệm này gần giống với quan niệm của
nhóm tác giả Đặng Văn Lung, Nguyễn Đình
Bưu, Trần Linh Quý, Hồng Thao đã dẫn ở trên.


- Thứ hai, định nghĩa theo lối giải thích sự kết
hợp những tính chất của VHQH tạo nên một
“tổng hịa” đặc trưng của nó. Chẳng hạn, “Văn
hóa Quan họ là tổng hòa các mặt, các yếu tố
hiện hữu trong đời sống cộng đồng, đó là phong
thái lịch lãm, hài hòa, khiêm nhường, tế nhị từ
lời ăn tiếng nói, trong cử chỉ mời nước, mời trầu,


đến trang phục trau chuốt, vừa duyên dáng,
vừa thanh nhã”(1, tr.73) hay: “Văn hóa Quan họ
là một loại hình văn hóa tổng hợp, được hình
thành trên cơ sở kế thừa, sáng tạo và hội nhập
với các loại hình văn hóa truyền thống của cộng
đồng làng xã. Vậy có thể nói rằng, Văn hóa Quan
họ là tổng hòa các loại hình văn hóa truyền
thống làng xã Bắc Ninh”(4, tr.53). Định nghĩa này
cho rằng VHQH vừa mang tính “tổng hợp” các
loại hình văn hóa của cộng đồng, vừa mang tính
“tổng hịa” các tính chất “văn hóa truyền thống
làng xã”.


- Thứ ba, định nghĩa nhấn mạnh tính “giá trị”,
“giá trị nhiều mặt” của VHQH. Chẳng hạn “Giá
trị nhiều mặt của sinh hoạt văn hóa Quan họ
trước hết ở âm nhạc, lời ca nhưng không thể
tách những giá trị ấy khỏi những giá trị của con
người trong mối quan hệ giữa người và người
trong sinh hoạt Quan họ ở một hoàn cảnh lịch
sử nhất định” (5).


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

cận hệ thống, song chưa thật rõ ràng ở chính
sự phân loại hệ thống: hệ thống hoạt động
(sinh hoạt) hay hệ thống giá trị, hệ thống yếu
tố văn hóa? Theo chúng tơi cách định nghĩa
này ít nhiều đã làm rõ ngoại diên và nội hàm
khái niệm VHQH, nhưng cần phải khái quát
hơn, không nên miêu tả, thống kê các yếu tổ
hay tính chất của sự vật.



Do vậy, chúng tôi kế thừa các định nghĩa của
các tác giả trên và mạnh dạn đưa ra một quan
<i>niệm về VHQH như sau: VHQH là một loại hình </i>


<i>sinh hoạt văn hóa tinh thần đặc sắc dựa trên </i>
<i>hoạt động diễn xướng dân ca Quan họ, có quan </i>
<i>hệ hữu cơ với đời sống văn hóa của cộng đồng </i>
<i>cư dân Bắc Ninh (Kinh Bắc), thể hiện ra như một </i>
<i>kiểu, loại, nền (hay tiểu văn hóa) đặc thù trong </i>
<i>một khơng gian văn hóa nhất định.</i>


Phân tích định nghĩa VHQH trên ta thấy:
- Thứ nhất, về phương pháp, định nghĩa
được đưa ra phù hợp với quy tắc khoa học: đặt
sự vật cần được định nghĩa vào phạm trù rộng
hơn (bao hàm đặc trưng chung), sau đó chỉ ra
đặc trưng riêng của nó để khu biệt nội hàm
khái niệm.


- Thứ hai, chỉ rõ ngoại diên của VHQH thuộc
“loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần” có quan
hệ với các loại hình sinh hoạt khác trong đời
sống văn hóa của cộng đồng; chỉ ra nội hàm
của nó là hoạt động dựa trên diễn xướng dân
ca Quan họ.


- Thứ ba, về phương diện cấu trúc, chỉ rõ
VHQH là một tiểu văn hóa, nếu trừu tượng hóa,
tách nó ra khỏi hệ thống lớn là đời sống văn


hóa của cộng đồng thì nó sẽ tồn tại như một
tiểu hệ thống (một chỉnh thể độc lập tương
đối) có cấu trúc nội tại với những vi hệ hay
phân hệ tác động lẫn nhau, tạo nên sự tồn tại
bền vững của chính nó.


<b>3. Nhận diện cấu trúc của Văn hóa Quan họ </b>


Để nhận thức khách quan và đầy đủ về
VHQH, cần phải phân tích các thành tố của
nó. Như trên đã đề cập, so với văn hóa dân tộc


thì VHQH chỉ là văn hóa của một nhóm nhỏ,
thuật ngữ văn hóa học gọi đó là tiểu văn hóa
(subcultrures).


Nhà nghiên cứu người Pháp Jean Ladrière
cho rằng, cơ cấu của một văn hóa phải được
xem xét như một tổng thể, gồm 4 bộ phận (4 hệ
thống).


- Một là, hệ thống ý niệm bao gồm một
tổng hợp những khái niệm, biểu tượng dựa
vào đó các nhóm xã hội khác nhau tìm cách lý
giải về mình và giải thích thế giới thơng qua tín
ngưỡng, tơn giáo, triết học, khoa học.


- Hai là, hệ thống giá trị, liên quan đến các
chuẩn mực cho phép phân biệt: thật/giả, tốt/
xấu (đánh giá), đúng/sai (nhận thức) về các sự


vật, hiện tượng trong các tình huống cụ thể.


- Ba là, hệ thống biểu hiện bao gồm thể
thức, hình thức trình bày, qua đó tình cảm, ý
niệm bộc lộ ra và có thể cảm nhận được một
cách cụ thể (hệ thống biểu hiện quan trọng
nhất là nghệ thuật).


- Bốn là, hệ thống hành động bao gồm các
kỹ năng, công nghệ, tri thức cho phép con
người làm chủ ở mức độ nào đó mơi trường tự
nhiên, xã hội, dựa vào đó cộng đồng tự tổ chức
và quản lý số phận của mình.


Có thể vận dụng quan điểm này xem VHQH
là một tiểu văn hóa mang tính tổng thể có đầy
đủ các yếu tố, các bộ phận của một văn hóa
cộng đồng đặc thù, tồn tại khách quan. Theo
quan điểm này, VHQH sẽ được nhìn nhận:


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

với nhau để thể hiện triết lý đó: “Anh cịn son,
em vẫn cịn son/Ước gì ta được làm con một
nhà” hay “Bèo dạt mây trôi, anh ơi em vẫn đợi
vẫn chờ... sao rơi, trăng tàn, gió la đà em vẫn
đợi... sao chẳng thấy anh” Tình yêu là tình cảm
nhân văn, nhân bản vĩnh hằng của cuộc sống
con người mà người Quan họ cho là cao quý.


- Hai là, hệ thống giá trị và các chuẩn mực,
đó là hệ thống các khái niệm, phạm trù đánh giá


phẩm chất con người, phẩm chất của cộng đồng
trong các mối quan hệ, trong đó quan hệ lứa
đôi, quan hệ bạn bè là quan trọng nhất. Giá trị
đạo đức (tình yêu chung thủy), giá trị thẩm mỹ
(cái đẹp tâm hồn và thể chất) hòa quyện với
nhau được biểu hiện ở các chuẩn mực như
<i>mười nhớ:“Một em nhớ đơi bạn chung tình, hai </i>
<i>em nhớ yểu điệu, ba em nhớ tiếng nói, bốn em </i>
<i>nhớ đôi người đồng tâm, năm em nhớ người </i>
<i>buông nụ cười, sáu em nhớ em gửi lời thăm, bảy </i>
<i>em nhớ đến người tri kỷ, tám em nhớ phong </i>


<i>thư nhận, chín em nhớ đến đơi người tri âm, </i>


<i>mười em nhớ chung tình”. Đó là các giá</i>


Trong hệ thống hoạt động có những yếu tố
trở thành biểu tượng của VHQH, nếu tách riêng
thành hệ thống thì đó là hệ thống ngoại hiện,
bao gồm: lối xưng hô: “liền anh”, “liền chị”;
trang phục:“nón thúng quai thao”, “áo mớ ba,
mớ bảy”, “khăn đóng, áo dài”; hành vi: “ngủ
bọn”, “mời trầu”; thiết chế vật chất: “nhà Chứa”,
“đền Vua”; phong tục: “kết chạ”, “hát đón, hát
mời”, “hát giã bạn”... Văn hoá Quan họ, trước hết
phải được bắt đầu từ gốc của nó-tức là cách
hiểu về Quan họ truyền thống.


Trên đây là cơ cấu của một hiện tượng
được gọi là VHQH dưới góc nhìn Văn hóa học.


Cách nhìn Văn hóa học cho ta một phương
pháp nghiên cứu tổng hợp về một sự vật, hiện
tượng vừa mang tính cụ thể, vừa mang tính
khái quát. Việc chỉ rõ nội hàm và ngoại diên
khái niệm VHQH sẽ khắc phục được cách nhìn
cảm tính, phiến diện và thiếu tính hệ thống.


H.C.C


<i>(Ths, Rạp xiếc Trung ương)</i>


trị, chuẩn mực làm người, định hướng nhân
cách, định hướng quan hệ và hành vi mà người
Quan họ mong muốn vươn tới.


- Ba là hệ thống các hình thức biểu hiện rất
phong phú và đa dạng của VHQH như diễn
xướng dân ca Quan họ, tục kết chạ Quan họ, lễ
hội Quan họ, tín ngưỡng (thờ Vua Bà), khơng
gian Quan họ..., trong đó, nổi bật nhất hay cái
“cốt lõi” của hệ thống biểu hiện là sinh hoạt
dân ca Quan họ. Trần Linh Quý khẳng định:
“Quan họ là hình thức sinh hoạt văn hóa, trong
đó sinh hoạt vui hát Quan họ nổi bật và trung
tâm” (5), bao gồm: hát Quan họ trùm đầu, hát
canh Quan họ, hát nghi lễ Quan họ, hát hội
Quan họ...


- Bốn là, hệ thống hoạt động trong VHQH
bao gồm các tri thức, kỹ năng, nghệ thuật,



<b>Tài liệu tham khảo </b>


<i>1. Nhiều tác giả (2006), Quanhọ Bắc Ninh Thực </i>


<i>trạng và giải pháp bảo tồn, Sở Văn hóa Thơng tin </i>


Bắc Ninh xuất bản.


<i>2. Nhiều tác giả (2006), Không gian Văn hóa </i>


<i>Quan họ Bắc Ninh, bảo tồn và phát huy, Viện Văn </i>


hóa Thơng tin và Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh
xuất bản.


3. Lê Danh Khiêm, Hoắc Công Huynh, Lê Thị
<i>Chung (2006), Không gian Văn hóa Quan họ, </i>
Trung tâm Văn hố Thơng tin tỉnh Bắc Ninh.


<i>4. Nhiều tác giả (2000), Một số vấn đề về văn </i>


<i>hóa Quan họ, Trung tâm Văn hóa Quan họ Bắc </i>


Ninh xuất bản.


<i>5. Trần Linh Quý (2012), Trên đường tìm về </i>


<i>Quan họ, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam và Nhà </i>



xuất bản Văn hóa Thơng tin, Hà Nội.
cơng nghệ thực hành: cách đặt giọng hay làn


điệu (giai điệu, nhịp điệu, tiết tấu), lời ca, lề lối
hát, lề lối kết bạn, lề lối giao tiếp... thể hiện ở cử


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Ngày nhận bài: 21 - 11 - 2015


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7></div>

<!--links-->

×