Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

NGHIÊN CỨU CHUYỂN GEN GmDREB2 VÀO GIỐNG ĐẬU TƯƠNG ĐT12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.92 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<i><b>NGHIÊN CỨU CHUYỂN GEN GmDREB2 VÀO GIỐNG ĐẬU TƯƠNG ĐT12 </b></i>



<b>Phạm Thị Thanh Nhàn*<sub>, Phạm Minh Hảo, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Chu Hoàng Mậu </sub></b>


<i>Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên </i>


TÓM TẮT


<i>Đậu tương (Glycine max (L.) Merrill) là cây trồng có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, đây là cây mẫn </i>
cảm với điều kiện ngoại cảnh và chịu hạn kém. Đặc tính chịu hạn ở cây đậu tương là tính trạng đa
gen, sản phẩm của các gen này liên quan trực tiếp đến sự biểu hiện của đặc tính chịu hạn hoặc có
chức năng điều hịa nhóm gen chịu hạn. Gen mã hóa nhân tố phiên mã DREB ở cây đậu tương có
chức năng kích hoạt sự phiên mã của nhóm gen chịu hạn, lạnh và mặn. Bài báo này trình bày kết quả
<i>chuyển cấu trúc mang gen GmDREB2 vào giống đậu tương ĐT12 phục vụ tạo dòng cây đậu tương </i>
<i>chuyển gen chịu hạn. Cấu trúc pBI121-GmDREB2 đã được biến nạp thành công vào giống đậu </i>
<i>tương ĐT12 qua mô nách lá mầm thông qua chủng A. tumefaciens. Các mẫu biến nạp được tái sinh </i>
<i>in vitro, chọn lọc bằng kháng sinh và tạo cây đậu tương chuyển gen. Kết quả có 203/300 mẫu biến </i>
nạp tạo đa chồi, 197 chồi chọn lọc trong môi trường kéo dài chồi và số chồi được cho ra rễ là 60.
Số cây chuyển gen trồng trên giá thể là 20 cây và có 5 cây sống sót ở điều kiện nhà lưới, hiệu suất
chuyển gen ở giai đoạn này là 1,67% (5/300). Trong số 5 dòng cây chuyển gen ở thế hệ T0, 4 cây
chuyển gen dương tính với PCR, hiệu suất chuyển gen đạt 1,33% (4/300).


<i><b>Keywords: Hạn, Glycine max (L.) Merrill, GmDREB2, A. tumefaciens, hiệu suất chuyển gen</b></i>


ĐẶT VẤN ĐỀ*


<i>Đậu tương (Glycine max (L.) Merrill) là một </i>
cây trồng cạn ngắn ngày có giá trị kinh tế cao.
Ở Việt Nam, việc trồng đậu tương có ba mục
đích là giải quyết vấn đề thiếu protein cho con
người và gia súc, xuất khẩu và cải tạo đất.


Tuy nhiên, đây là cây mẫn cảm với điều kiện
ngoại cảnh và chịu hạn kém nên sản lượng
còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu
dùng. Đặc tính chịu hạn ở cây đậu tương là
tính trạng đa gen, sản phẩm của các gen này
liên quan trực tiếp đến sự biểu hiện của đặc
tính chịu hạn hoặc có chức năng điều hịa
nhóm gen chịu hạn. Để chống lại điều kiện
bất lợi của ngoại cảnh, đặc biệt là hạn hán, cơ
thể thực vật đã sản xuất ra nhiều loại protein,
trong đó có DREB (Dehydration- Responsive
Element Binding). DREB có vai trị kích hoạt
nhóm gen chịu hạn phiên mã. Họ protein này
có chứa vùng bảo thủ duy nhất để gắn với
trình tự DNA đặc hiệu là
APETALA2/Ethylene Responsive Factor
(AP2/ERF), cho phép chúng tương tác với
một loạt các gen phía sau theo hình thức
không phụ thuộc axit abscisic. Các miền
AP2/ERF có khoảng 60 amino acid [50], [6],



*


<i>Tel: 0989 516346; Email: </i>


<i>[7]. Phân họ gen DREB có 10 thành viên </i>
được xác định trong hệ gen cây đậu tương
<i>(GmDREBa, </i> <i>GmDREBb, </i> <i>GmDREBc, </i>



<i>GmDREB1, </i> <i>GmDREB2, </i> <i>GmDREB3, </i>


<i>GmDREB5, GmDREB6, GmDREB7) [10]. </i>


<i>Mỗi gen trong họ DREB có trình tự, độ dài </i>
khác nhau nhưng đều được biểu hiện nhiều
<i>khi cây gặp hạn. Nhóm DREB1 điều khiển </i>
tính chịu hạn, mặn và lạnh, trong khi nhóm


<i>DREB2 điều khiển tính chịu hạn. </i>


<i>Phân nhóm DREB2 gồm 8 thành viên trong cây </i>


<i>Arabidopsis [11] và 5 thành viên trong lúa gạo </i>


[8]. Chen và cộng sự (2007) [6] đã phân lập
<i>gen GmDREB2 từ đậu tương và dựa trên sự </i>
<i>giống nhau về miền AP2, gen GmDREB2 xếp </i>
<i>vào phân họ A-5 trong phân họ DREB. Sự biểu </i>
<i>hiện của GmDREB2 ở cây thuốc lá chuyển gen </i>
thể hiện ở sự tích lũy hàm lượng proline cao.
<i>Sản phẩm biểu hiện của gen GmDREB2 được </i>
tìm thấy khi cây đậu tương gặp hạn, lạnh và
mặn [6], [8]. Bài báo này trình bày kết quả
<i>chuyển cấu trúc mang gen GmDREB2 vào </i>
giống đậu tương ĐT12 phục vụ tạo dòng cây
đậu tương chuyển gen chịu hạn.


VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU



<b>Vật liệu và hóa chất </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i><b>Chủng A. tumefaciens chứa cấu trúc pBI121-GmDREB2 do Bộ môn Sinh học hiện đại & Giáo </b></i>
dục sinh học, Khoa Sinh học, trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên cung cấp. Cấu
trúc vector chuyển gen được trình bày ở hình 1.


<i><b>Hình 1. Sơ đồ cấu trúc vector chuyển gen pBI121 mang gen GmDREB2 (pBI121-GmDREB2). (LB: Bờ trái </b></i>
<i>của T-DNA; RB: Bờ phải của T-DNA; KanR: trình tự kháng kanamycin; 35S: Promoter 35S; GmDREB2: </i>
<i>Trình tự gen GmDREB2; Cmyc: Trình tự nucleotide mã hóa kháng nguyên Cmyc; NOS (Nos ter): Nopaline </i>


<i>synthase terminator (đoạn kết thúc)</i>


Các hóa chất được sản xuất bởi các hãng
Fermentas, Invitrogen, Merck, Sigma,
Amersham Pharmacia Biotech, như: Yeast
extract, trypton, tris HCl, EDTA, glycerol,
kanamycin, rifamicine, cefotaxime...


Các thiết bị chính dùng trong nghiên cứu gồm
có: Máy PCR System 9700 (Appied
Biosystem, Mỹ), máy điện di Powerpac300
(Bio-Rad, Mỹ), máy xung điện Gen Plulser...


<b>Phương pháp nghiên cứu </b>


<i><b>Phương pháp chuyển gen thông qua nách lá </b></i>
<i><b>mầm nhờ A.tumefaciens được tiến hành dựa </b></i>


trên nghiên cứu của Olhoft và cộng sự (2006)
[9] và Nguyễn Thị Thúy Hường (2011) [2].


Các thí nghiệm được thực hiện trong phòng
nuôi cấy với điều kiện chiếu sáng theo quang
chu kì 16 giờ sáng và 8 giờ tối, nhiệt độ phòng
25oC ± 2, cường độ chiếu sáng 2000 lux.


<i><b>Phương pháp tách chiết DNA tổng số từ các </b></i>


mẫu lá non được thực hiện theo phương pháp
của Saghai Maroof và cộng sự (1984) [12].


<i><b>Phương pháp PCR xác định sự có mặt của </b></i>


<i>gen chuyển GmDREB2 bằng cặp mồi </i>


<i>GmDREB2-BamHI/Cmyc-SacI (sản phẩm dự </i>


<i>kiến có kích thước 543 bp), và vector </i>


<i>pBI121-GmDREB2 bằng cặp mồi 35S-F/35S-R (sản </i>


phẩm dự kiến có kích thước 314 bp) trong cây
đậu tương chuyển gen ở thế hệ T0. Trình tự
<i>nucleotide của cặp mồi </i>


<i>GmDREB2-BamHI/Cmyc-SacI và 35S-F/35S-R như sau: </i>


GmDREB2-BamHI: 5’ –


CGGATCCGATGGAAGAAGCGGGTTTA
GG – 3’



GmDREB2-Cmyc-SacI: 5’ –


CGAGCTCGTCAATTCAGATCCTCTTCTG


35S-F: 5’ –


CACGACACACTTGTCTAC – 3’


35S-R: 5’ –


TCACATCAATCCACTTGCT – 3’


Phản ứng PCR được thực hiện theo chu trình
nhiệt: 94oC trong 3 phút; (94oC trong 1 phút;
56oC trong 1 phút; 72oC trong 1 phút) lặp lại 30
chu kỳ; 72oC trong 10 phút; bảo quản ở 4oC.

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN



<b>Lây nhiễm và tái sinh cây đậu tương </b>
<b>chuyển gen </b>


Hạt đậu tương nảy mầm trên môi trường GM,
sau khoảng 5 ngày, kích thước mầm đạt
khoảng 5 cm và lá mầm xanh (Hình 2A). Các
mảnh lá mầm được thu, gây tổn thương ở
nách lá mầm để sử dụng làm mẫu biến nạp
(Hình 2B). Lá mầm đã gây tổn thương được
ngâm trong dịch huyền phù chứa



<i>A.tumefaciens mang cấu trúc chứa gen </i>


<i>GmDREB2 có OD</i>600 đạt 0,8 trong thời gian


30 phút (Hình 2C). Sau thời gian nhiễm
khuẩn, mẫu được chuyển sang môi trường
đồng ni cấy CCM ở 25o


C trong tối 5 ngày
(Hình 2D).


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>A</b> <b>B</b>


<b>C</b> <b>D</b>


<b>Nách lá mầm</b>


<i><b>Hình 2. Hình ảnh gây tổn thương nách lá mầm và </b></i>
<i>biến nạp. A: Hạt đậu tương ĐT12 nảy mầm trên </i>
<i>môi trường GM; B: Gây tổn thương nách lá mầm; </i>
<i>C: Mảnh lá mầm được nhiễm khuẩn; D: Mẫu biến </i>
<i><b>nạp chuyển sang mơi trường đồng ni cấy CCM</b></i>


<b>A</b> <b><sub>B</sub></b>


<b>C</b> <b>D</b>


<i><b>Hình 3. Hình ảnh đa chồi và kéo dài chồi. A: </b></i>
<i>Cảm ứng tạo đa chồi trên SIM bổ sung BAP 2 </i>
<i>mg/l và kanamycine trong 1 tuần; B: Cảm ứng </i>


<i>tạo đa chồi trên SIM bổ sung BAP 2 mg/l và </i>
<i>kanamycine trong 2 tuần; C: Kéo dài chồi SEM </i>


<i>(bổ sung GA3 0,5 mg/l + IAA 0,1 mg/l + </i>
<i>kanamycine 50 mg/l) trong 1 tuần; D: Kéo dài </i>
<i>chồi SEM (bổ sung GA3 0,5 mg/l + IAA 0,1 mg/l </i>


<i>+ kanamycine 50 mg/l) trong 2 tuần</i>


<i><b>Hình 4. Giai đoạn ra rễ và trồng cây đậu tương </b></i>
<i>chuyển gen ĐT12 trên giá thể </i>


Khi các chồi phát triển đạt kích thước từ 3 - 5
cm sẽ được chuyển sang môi trường ra rễ
(RM) có bổ sung cefotaxim 250 mg/l để tạo
cây hồn chỉnh (Hình 4).


Thí nghiệm biến nạp cấu trúc chứa gen


<i>GmDREB2 </i> qua nách lá mầm nhờ


<i>A.tumefaciens được thực hiện lặp lại 3 lần. </i>


Kết quả thí nghiệm chuyển gen và đối chứng
được trình bày ở bảng 1. Trong 300 mẫu được
<i>biến nạp cấu trúc chứa gen GmDREB2, 203 </i>
mẫu tạo được đa chồi, trong đó có 393 chồi
sống sót, 197 chồi được kéo dài. Số chồi ra rễ
là 60, số cây được trồng trên giá thể là 20 cây
và có 5 cây sống sót. Đối với lơ đối chứng


ĐC0, với 30 mẫu biến nạp và kết quả khơng
có chồi nào được tạo thành, vì thế cũng khơng
có chồi được kéo dài, ra rễ và ra giá thể. Đối
với lô đối chứng ĐC1, 20 mẫu được tạo đa
chồi, 35 chồi sống sót, 20 chồi được kéo dài
và 15 chồi được chuyển vào môi trường ra rễ.
Số cây được đưa ra giá thể là 15 cây, trong đó
có 10 cây sống sót. Như vậy ở giai đoạn tái sinh
<i>và chọn lọc in vitro, chúng tôi thu được 5 cây </i>
đậu tương được chuyển gen ở thế hệ T0 (ký
hiệu là 01, 02, 03,
ĐT12-04, ĐT12-05). Hiệu suất chuyển gen ở giai đoạn
chọn lọc bằng kháng sinh là 1,67% (5/300).
<i>Cũng theo phương pháp chuyển gen này, Lò </i>
Thị Mai Thu (2014) [4] chuyển cấu trúc CPi
(SMV- BYMV) vào hai giống đậu tương
ĐT12 và DT2008 có hiệu suất lần lượt là
4,32% và 3,76%; Lò Thanh Sơn (2015) [3]
<i>chuyển cấu trúc mang gen GmEXP1 vào </i>
giống đậu tương DT84 với hiệu suất 2,37%;
<i>Nguyễn Thu Hiền (2011) [1] chuyển gen HA1 </i>
vào giống đậu tương ĐT12 với hiệu suất
2,37%; Nguyễn Thúy Hường (2011) [2] chuyển
gen vào giống đậu tương DT84 với hiệu suất là
2,22%. Như vậy, hiệu suất chuyển gen ở giai
đoạn này của chúng tôi thấp hơn hiệu suất
chuyển gen của các tác giả trước.


Lá non của cây đậu tương không chuyển gen
và 5 cây đậu tương chuyển gen sống sót trên


giá thể ở thế hệ T0 được thu nhận để tách
chiết DNA tổng số, kiểm tra sự có mặt của
cấu trúc mang gen chuyển


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i><b>Bảng 1. Kết quả biến nạp gen GmDREB2 vào giống đậu tương ĐT12 </b></i>
<b>Lơ đối chứng và </b>


<b>thí nghiệm </b> <b>biến nạp Số mẫu </b> <b>Số mẫu tạo đa chồi </b> <b>sống sót Số chồi </b> <b>Số chồi kéo dài </b>


<b>Số chồi </b>


<b>ra rễ </b> <b>Số cây trồng trên giá thể </b> <b>sống sót Số cây </b>


ĐC0 30 0 0 0 0 0 0


ĐC1 30 20 35 20 15 15 10


1 100 68 136 67 20 7 1


2 100 55 109 45 15 5 2


3 100 80 148 85 25 8 2


<b>Tổng số (1+2+3) </b> <i><b>300 </b></i> <i><b>203 </b></i> <i><b>393 </b></i> <i><b>197 </b></i> <i><b>60 </b></i> <i><b>20 </b></i> <i><b>5 </b></i>


<i>Ghi chú: ĐC0*: Lá mầm đậu tương không chuyển gen được cấy trên mơi trường tái sinh có bổ sung kháng sinh; </i>
<i>ĐC1*: Lá mầm đậu tương không chuyển gen được cấy trên môi trường tái sinh không bổ sung kháng sinh. </i>


<i><b>Phân tích sự có mặt của gen chuyển GmDREB2 trong cây đậu tương chuyển gen thế hệ T0 </b></i>



PCR là phương pháp nhanh, chính xác để đánh giá cây chuyển gen. Do vậy, chúng tôi tiến hành
phản ứng PCR với cặp mồi 35S-F/35S-R để kiểm tra sự có mặt của promoter 35S trong cấu trúc
<i>vector pBI121- GmDREB2 ở cây đậu tương chuyển gen. Sản phẩm của phản ứng có kích thước </i>
theo dự tính 314 bp (Hình 5A).


(A) (B)


<i><b>Hình 5. Kết quả điện di sản phẩm PCR xác định sự có mặt của đoạn promoter 35S (A) và gen chuyển </b></i>
<i>GmDREB2 (B) trong các cây đậu tương chuyển gen ở thế hệ T0. M: Thang DNA 1kb; 1, 2, 3, 4, 5: Sản phẩm </i>


<i>PCR các cây chuyển gen ĐT12-01, ĐT12-02, ĐT12-03, ĐT12-04, ĐT12-05; (+): Sản phẩm PCR từ vector </i>
<i>pBI121-GmDREB2; (-): Sản phẩm PCR của cây khơng chuyển gen.</i>


Hình 5A cho thấy, băng DNA có kích thước
khoảng 0,3 kb xuất hiện ở đối chứng dương
(+) và bốn cây chuyển gen, trong khi đối
chứng âm (-) khơng có. Như vậy, cấu trúc
<i>pBI121-GmDREB2 đã có mặt ở 4 cây chuyển </i>
gen ĐT12-01, ĐT12-03, ĐT12-04, ĐT12-05
ở thế hệ T0.


Kết quả kiểm tra sản phẩm của phản ứng PCR
<i>nhân gen GmDREB2 ở hình 5B cho thấy đối </i>
chứng dương và các cây chuyển gen
ĐT12-01, ĐT12-03, ĐT12-04, ĐT12-05 tồn tại băng
DNA có kích thước khoảng 0,55 kb. Theo
<i>tính tốn lý thuyết, đoạn gen GmDREB2 được </i>
nhân bản dài 498 bp, đoạn Cmyc và KDEL
dài 45 bp và dự tính sản phẩm của PCR với



cặp mồi <i></i>


<i>GmDREB2-BamHI/GmDREB2-Cmyc-SacI sẽ nhân bản được đoạn DNA có </i>


kích thước là 543 bp. Như vậy, kết quả PCR
thu được đoạn DNA có kích thước phù hợp
với tính tốn lý thuyết, là cơ sở để nhận xét


thành công vào giống đậu tương ĐT12. Cả
hai thí nghiệm sử dụng kỹ thuật PCR nhân
<i>bản đoạn promoter 35S và gen GmDREB2 </i>
đều cho kết quả dương tính ở 4 cây đậu tương
chuyển gen ĐT12-01, ĐT12-03, ĐT12-04,
ĐT12-05 ở thế hệ T0. Như vậy, hiệu suất
chuyển gen ở giai đoạn kiểm tra gen chuyển
bằng PCR là 4/300 (hay 1,33%). Trong kết
quả nghiên cứu của Lò Thị Mai Thu (2014)
[4], hiệu suất chuyển gen đạt 1,35% (với
giống ĐT12), 2,24% (với giống DT2008);
của Lò Thanh Sơn (2015) [3], hiệu suất
chuyển gen đạt 0,27%; của Nguyễn Thu
Hiền (2011) [1], hiệu suất là 1,23%; của
Nguyễn Thị Thúy Hường (2011) [2], hiệu
suất chuyển gen đạt 0,23%.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

KẾT LUẬN



<i>Cấu trúc pBI121-GmDREB2 đã được biến </i>
nạp thành công vào giống đậu tương ĐT12 qua
<i>nách lá mầm thông qua chủng A. tumefaciens. </i>


<i>Các mẫu biến nạp được tái sinh in vitro, chọn </i>
lọc bằng kháng sinh và tạo cây đậu tương
chuyển gen. Kết quả có 203/300 mẫu biến
nạp tạo đa chồi, 393 chồi sống sót, có 197
chồi chọn lọc trong môi trường kéo dài chồi
và số chồi được cho ra rễ là 60. Số cây
chuyển gen trồng trên giá thể là 20 cây và có
5 cây sống sót ở điều kiện nhà lưới, hiệu suất
chuyển gen ở giai đoạn này là 1,67% (5/300).
Phân tích sự có mặt của gen chuyển


<i>GmDREB2 trong 5 dòng cây ở thế hệ T0</i> thu


được 4 cây chuyển gen dương tính với PCR,
hiệu suất chuyển gen đạt 1,33% (4/300).


<i>LỜI CẢM ƠN: Nghiên cứu này được hỗ trợ </i>
<i>và trong khuôn khổ của Đề tài cấp Bộ Giáo </i>
<i>dục & Đào tạo, mã số B2017-TNA-38 do </i>
<i>GS.TS Chu Hoàng Mậu làm chủ nhiệm. </i>


TÀI LIỆU THAM KHẢO


<i>1. Nguyễn Thu Hiền (2011), Nghiên cứu chuyển </i>
<i>gen mã hóa protein bề mặt của virus H5N1 vào </i>
<i>cây đậu tương phục vụ sản xuất vaccine thực vật, </i>
Luận án tiến sĩ Sinh học, Đại học Thái Nguyên.
<i>2. Nguyễn Thị Thuý Hường (2011), Phân lập, </i>
<i>tạo đột biến điểm ở gen P5CS liên quan đến tính </i>
<i>chịu hạn và thử nghiệm chuyển vào cây đậu </i>


<i>tương Việt Nam, Luận án tiến sĩ Sinh học, Đại </i>
học Thái Nguyên.


<i>3. Lò Thanh Sơn (2015), Nghiên cứu đặc điểm và </i>
<i>chuyển gen GmEXP1 liên quan đến sự phát triển </i>
<i>bộ rễ của cây đậu tương, Luận án tiến sĩ Sinh học, </i>
Đại học Thái Nguyên.


<i>4. Lò Thị Mai Thu (2014), Phân lập đoạn gen CP </i>
<i>từ Soybean mosaic virus và phát triển vector </i>
<i>chuyển gen mang cấu trúc RNAi phục vụ tạo cây </i>


<i>đậu tương chuyển gen kháng bệnh, Luận án tiến sĩ </i>
Sinh học, Đại học Thái Nguyên.


5. Chen F., Chen S. Y. and Liu Q. (2002),
“Isolation of a rice cDNA encoding a DREB-like
<i>protein induced by stresses”, GenBank, Accession </i>
<b>AY064403. </b>


6. Chen M., Wang Q. Y., Xu Z. S., Li L. C., Ye X.
G., Xia L. Q., Ma Y. Z. (2007), “GmDREB2, a
soybean DRE – binding transcription factor,
conferred droungt anh high – salt tolerance in
<i>transgenic plants”, Biochem. Biophys. Res. </i>
<i>Commun., 353(2), pp. 299 – 305. </i>


7. Huang B., Jin L. and Liu J. (2007), “Molecular
cloning and functional characterization of a
DREB1/CBF-like gene (GhDREB1L) from


<i>cotton”, Sci. China Life Sci., 50 (1), pp. 7-14. </i>
8. Matsukura S., Mizoi J., Yoshida T., Todaka D.,
Ito Y., Maruyama K., Shinozaki K.,
Yamaguchi-Shinozaki K. (2010), “Comprehensive analysis of
<i>rice DREB2-type genes that encode transcription </i>
factors involved in the expression of abiotic
<i>stress-responsive genes”, Mol. Genet. Genomics, 283, </i>
pp. 185–196.


9. Olhoft P. M., Somers D. A. (2001), “L-Cysteine
increases Agrobacteriummediated T-DNA
delivery into soybean cotyledonarynode cells”,
<i>Plant Cell Rep., 20, pp. 706-711. </i>


10. Ratcliffe O. J., Riechmann J. L. (2002),
“Arabidopsis transcription factors and the regulation
<i>of flowering time: a genomic perspective”, Curr. </i>
<i>Issues Mol. Biol., 4, pp. 77–91. </i>


11. Riechmann J. L., Heard J., Martin G., Reuber
L., Jiang C. Z., Keddie J., Adam L., Pineda O.,
Ratcliffe O. J., Samaha R. R., Crelman R., Pilgrim
M., Broun P., Zhang J. Z., Ghandehari D.,
<i>Sherman B. K., Yu G. L. (2000), “Arabidopsis </i>
transcription factors: Genome-wide comparative
<i>analysis among eukaryotes”, Science, 290, pp. </i>
2105–2110.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

SUMMARY



<b>STUDYING ON TRANSFERRING A CONSTRUCTION CONTAINING </b>
<i><b>GmDREB2 GENE INTO ĐT12 SOYBEAN CULTIVAR </b></i>


<b>Pham Thi Thanh Nhan*, Pham Minh Hao, </b>
<b>Nguyen Thi Ngoc Lan, Chu Hoang Mau</b>


<i>TNU - University of Education </i>


<i>Soybean (Glycine max (L.) Merrill) is one of the most important crop plants with a high economic </i>
value. However, this is also the plant sensitive to different stresses in the environment and has the
low drought ability. Their property is a multigene trait whose products directly involve in the drought
<i>tolerance or regulate the expression of resistant genes. The GmDREB2 gene in soybean plant is </i>
considered as a necessary factor to activate the transcription of resistant genes in drought, cold and
salt conditions. This paper presents the results of studying on transformation a construction
<i>containing GmDREB2 gene into ĐT12 soybean cultivar in order to produce transgenic soybean </i>
<i>plants with high drought resistant ability. The structure pBI121-GmDREB2 was successfully </i>
<i>transferred into ĐT12 soybean cultivar by Agrobacterium tumefaciens-mediated transformation via </i>
<i>cotyledonary axillary nodes. All infected samples were regenerated in vitro and selected by </i>
antibiotic to creat the transgenic soybean plants. Consequently, from 300 samples, 203 shoots were
induced on shoot elongation medium supplemented with kanamycin, in which 197 shoots were
prolonged and 60 elongated shoots were rooted. All 20 rooted plantlets were planted on the pots,
among which 5 plantlets survived in the greenhouse condition at the T0 generation, thus, the
transgenic efficiency at this stage was 1.67% (5/300). From them, there were four transgenic soybean
plantlets with the possitive PCR results, the transgenic efficiency at this stage was 1.33% (4/300).


<i><b>Keywords: Drought, Glycine max (L.) Merrill, GmDREB2, A. tumefaciens, transgenic efficiency </b></i>


</div>

<!--links-->

×