Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (787.73 KB, 2 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
4/1/2016 Tạp chí Mơi trường > VN > TINTRANGCHU_Content
data:text/html;charset=utf-8,%3Ctable%20style%3D%22font-size%3A%2012px%3B%20font-family%3A%20Arial%3B%22%3E%3Ctbody%3E%3Ctr%20style%3… 1/2
Vai trị của di tích và những cảnh báo về môi trường
Việt Nam là một trong số không nhiều quốc gia trên thế giới có tiềm năng về du lịch. Theo thống kê chưa đầy đủ, tính đến
tháng 8/2010, Việt Nam có khoảng trên 40.000 di tích, trong đó có 3.000 di tích được xếp hạng quốc gia và khoảng hơn
5.000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Ngồi ra, Việt Nam cịn có nhiều di sản văn hóa thế giới như Cố đô Huế, phố cổ Hội
An, thánh địa Mỹ Sơn, vịnh Hạ Long, Phong Nha - Kẻ Bàng... mỗi năm thu hút hàng triệu lượt du khách. Bên cạnh đó, Việt
Nam có hàng nghìn các lễ hội với quy mơ và màu sắc đặc trưng khác nhau như Lễ hội Đền Hùng, Lễ hội Chùa Hương, Lễ
hội Đền Trần... Các lễ hội và di tích đã đóng góp quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như việc
giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống vốn có của dân tộc. Nói cách khác, các di tích, lễ hội đóng vai trò như là
một nguồn tài nguyên to lớn nhằm phát triển ngành cơng nghiệp khơng khói.
Trong những năm gần đây, nền văn hóa của Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc quảng bá, xác lập
hình ảnh một đất nước đang trên đà phát triển với những thành tựu đáng kể về kinh tế, xã hội và những đặc trưng văn hóa
đặc sắc, riêng biệt. Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị to lớn về kinh tế, xã hội, văn hóa, trong công tác quản lý, khai thác, phát
triển các di tích và lễ hội ở Việt Nam hiện nay cũng đang đặt ra rất nhiều các vấn đề đáng lo ngại. Ở khía cạnh quản lý nhà
nước, mặc dù đã có rất nhiều các chính sách quản lý liên quan tới di tích và lễ hội song những bất cập trong quản lý, khai
thác các di tích, lễ hội vẫn tiếp tục tồn tại hoặc mới nảy sinh, đòi hỏi cần phải có những nghiên cứu, đánh giá cụ thể để làm
căn cứ cho việc thực thi các chính sách quản lý. Việc phát huy các giá trị văn hóa, tâm linh cũng như khai thác phát triển các
dịch vụ du lịch của các di tích và lễ hội hiện nay đã và đang có nhiều bất cập đồng thời xuất hiện vấn đề mới địi hỏi cần có
những giải pháp quản lý phù hợp, trong đó vấn đề BVMT tại các điểm di tích và lễ hội là một ví dụ điển hình.
<i>Rác ngập tràn bên bến Yến tại Lễ hội chùa Hương</i>
4/1/2016 Tạp chí Mơi trường > VN > TINTRANGCHU_Content
data:text/html;charset=utf-8,%3Ctable%20style%3D%22font-size%3A%2012px%3B%20font-family%3A%20Arial%3B%22%3E%3Ctbody%3E%3Ctr%20style%3… 2/2
vịnh Hạ Long.
Thực tế, trong một vài năm trở lại đây, các địa phương đã có nhiều giải pháp về BVMT tại các điểm di tích và lễ hội, tuy
nhiên những giải pháp này mới mang tính chất tạm thời, phạm vi hẹp và thiếu sự tham gia của các bên có liên quan, nhất là
cộng đồng địa phương. Việc thực thi chính sách mới chỉ chú trọng tới việc phạt, cấm trong khi lại thiếu sự khuyến khích về ý
thức và trách nhiệm cộng đồng. Thậm chí nhiều quy định phạt, cấm còn vượt quá quy định của Nhà nước và thiếu các căn
cứ pháp lý cần thiết. Điều này rõ ràng đang đặt ra những đòi hỏi cần phải sớm có một hành lang pháp lý cụ thể cho việc
BVMT tại các điểm di tích, lễ hội nhằm vừa tận dụng được nguồn tài nguyên du lịch để phát triển đất nước, đồng thời cũng
cải thiện được hình ảnh của người Việt, văn hóa Việt trong con mắt bạn bè quốc tế và hơn hết, đó là sự thể hiện tinh thần
trách nhiệm của người Việt Nam với nhân loại văn minh trong việc gìn giữ hành tinh xanh.
Kinh nghiệm quản lý môi trường di tích tại một số nước
Khơng chỉ ở Việt Nam, tình trạng ơ nhiễm mơi trường tại các điểm di tích và lễ hội trên thế giới cũng diễn ra khá phổ biến,
tuy nhiên tùy thuộc vào nhận thức, sự quan tâm và mức độ, loại hình ơ nhiễm mà rất nhiều các quốc gia cũng đã đưa ra
được nhiều chính sách quan trọng nhằm BVMT tại các điểm di tích và lễ hội, đặc biệt là những khu vực gắn với hoạt động du
lịch. Trong đó nhiều nước đã áp dụng phí mơi trường trong các loại vé thăm quan, du lịch và sử dụng các dịch vụ tại các
điểm di tích và lễ hội như Nêpan, Malaixia... Phần phí này sẽ được đầu tư trở lại cho các hoạt động BVMT của các điểm
thăm quan, du lịch. Một số các quốc gia khác lại gắn trách nhiệm BVMT tại các điểm du lịch với chính sự tham gia và trách
nhiệm của mỗi du khách như tại Ơxtrâylia. Thơng thường các quốc gia đều áp dụng quy định, chính sách BVMT lên chính
các cộng đồng dân cư, chủ yếu là những người cung cấp các dịch vụ cho các di tích, lễ hội hay các khu du lịch cũng như các
công ty lữ hành, đây là một cách làm hiệu quả bởi nó liên quan tới quyền lợi trực tiếp của các bên có liên quan. Một số quốc
gia đã và đang áp dụng các chính sách giáo dục, nâng cao nhận thức cho cộng đồng địa phương và du khách về BVMT
song song với việc đẩy mạnh việc hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho việc khai thác các giá trị của các di tích và
lễ hội... Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực này cho thấy vai trò quan trọng của các công cụ quản lý và
định hướng của Nhà nước đối với hoạt động BVMT tại các điểm du lịch trong đó có các di tích và lễ hội.
Sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng đã ban hành chương trình hành
động của ngành Du lịch theo Quyết định số 564/QĐ-BVHTTDL ngày 21/9/2007 thực hiện chương trình hành động của Chính
Cho đến thời điểm hiện tại, hiệu lực của Quyết định số 564/QĐ-BVHTTDL xem như đã hết song vì nhiều lý do khác nhau,
một hành lang pháp lý mới nhằm hiện thực hóa các nội dung của Luật BVMT liên quan đến mơi trường du lịch cũng như
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong chiến lược khai thác tiềm năng du lịch phát triển đất nước gắn với
bảo vệ bền vững môi trường, cảnh quan, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể tại các điểm di tích, lễ hội vẫn cịn là
khoảng trống. Để bù lấp được khoảng trống này nhất thiết cần có sự vào cuộc quyết liệt của chính quyền ở các cấp Trung
ương và địa phương cùng cộng đồng nơi có các di tích, lễ hội cũng như các bên liên quan khác mới có thể cải thiện được
tình trạng thiếu hụt chính sách BVMT di tích.
ThS. Nguyễn Thị Hiền