Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

THAM LUẬN CTCN 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.68 KB, 8 trang )

CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ
Lý Văn Mao
HT. Trường THCS Nguyễn Trọng Kỷ, Cam Ranh
Thực hiện công văn số 443/SGD&ĐT ngày 10/09/2010 của Sở GD&ĐT Khánh
Hòa về “Hội thảo công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở cấp THCS và THPT”, trường
THCS Nguyễn Trọng Kỷ xin đóng góp những ý kiến tham luận có tính thực tiễn về
công tác chủ nhiệm lớp trong giai đoạn hiện nay :
1. Những thuận lợi, khó khăn của công tác giáo viên chủ nhiệm (GVCN)
lớp trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay .
1.1. Thuận lợi
- Nhiều phương tiện hỗ trợ : Phương tiện giao thông, phương tiện truyền thông
thông tin, ứng dụng công nghệ thông tin phát triển làm cho việc thông tin, liên lạc, quản
lý, học tập trở nên thuận tiện, nhanh chóng, nhẹ nhàng hơn.
- Kinh tế gia đình phát triển, phụ huynh quan tâm đến việc học tập, giáo dục con
em hơn .
- Tổ chức nhà trường có quy củ, nề nếp hơn khiến công việc quản lý, giảng dạy,
sinh hoạt,... trở nên nhẹ nhàng, thông suốt, hiệu quả hơn.
- Nhiều phong trào thi đua và các cuộc vận động trong nhà trường hỗ trợ tốt công
tác. Các phong trào “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”, “Học tập làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Hai tốt”, “Hai không”, “Xây dựng xã hội học tập”,
“Xây dựng văn hoá trường học”, ... thực hiện đồng bộ làm thay đổi về cơ bản nhận thức,
hành động, nề nếp; kích thích nỗ lực, phấn đấu vươn lên của học sinh để trở thành con
người có ích cho xã hội.
1.2. Khó khăn
a) Thiếu thời gian, công việc quá tải : Tiêu chuẩn 4 tiết/ tuần cho công tác chủ
nhiệm lớp là quá ít, trong khi GVCN lại có quá nhiều sự vụ phải giải quyết (truy bài,
hoạt động ngoài giờ, sinh hoạt Đội, thu tiền, hồ sơ chủ nhiệm, gặp gỡ phụ huynh, tập
luyện văn nghệ-TDTT, ...) không còn thời gian để quan tâm, tìm hiểu sâu sát từng học
sinh và thực hiện công việc chuyên môn của một giáo viên bộ môn. Phải nhìn nhận, xem
xét lại một cách công bằng để họ không phải hy sinh quá nhiều thời gian nghỉ ngơi,
chăm sóc gia đình, là một nhu cầu đúng đắn, hợp pháp.


b) Gánh nặng kinh tế gia đình vẫn còn nặng. Thu nhập của giáo viên vẫn thuộc
loại thấp nhất, chưa theo kịp giá cả. Trên thực tế, nhà giáo vẫn chưa thực sự sống được
nhờ đồng lương.
c) Các tệ nạn xã hội xuất hiện, làm đảo lộn, vẩn đục môi trường giáo dục, không
ngừng ảnh hưởng đến đạo đức, nhân cách và lối sống của học sinh. Nạn bạo hành, văn
hoá ngoại lai, đồi trụy, sa đoạ,... ảnh hưởng không ít đến nhân cách, hành xử của học
sinh và ngay cả cung cách hành xử của nhà giáo cũng bị ảnh hưởng theo.
d) Các phương tiện giải trí phát triển chưa được kiểm soát và quản lý tốt. Các tụ
điểm ăn chơi, giải trí như quán bar, koraoké, quán internet, games online, ... phát triển ồ
ạt, nhanh chóng, dễ dãi, không được quản lý và kiểm soát tốt đang áp sát trường học lôi
kéo, dụ dỗ trẻ xa dần trường học và nguy cơ bỏ học, trở thành tội phạm không xa.
đ) Vai trò GVCN bị hiểu lầm, lệch lạc một cách tiêu cực cho rằng GVCN là chỉ
để thu tiền hoặc thông báo kế hoạch dạy thêm của nhà trường; ít nhận được sự hợp tác
của phụ huynh. GVCN phải giải quyết các vấn đề sự vụ hành chính của văn phòng, của
các bộ phận khác, không thực hiện đúng vai trò, chức năng chủ nhiệm lớp.
e) Công tác chủ nhiệm bị buông lỏng, thiếu quan tâm, chỉ đạo.
Trong thực tế có những quan niệm sai lầm về công tác chủ nhiệm lớp, chưa
tương xứng với tầm quan trọng của chức vụ này, chưa đúng với tinh thần các văn bản
quy định.
Coi nhẹ và lẫn lộn GVCN với các giáo viên bộ môn (GVBM) khác. Không thực
hiện thủ tục bổ nhiệm mà chỉ ghi ở thời khóa biểu như mọi GV bình thường khác.
Về mặt đánh giá xếp loại, chỉ coi trọng chuyên môn mà chưa coi trọng hiệu quả
công tác chủ nhiệm lớp. Thậm chí, không đánh giá đúng công sức và thành tích GVCN;
còn lẫn lộn giữa thành tích đoàn thể với thành tích chính quyền.
g) Công tác đào tạo chưa được quan tâm đúng mức.
Nội dung đào tạo về công tác chủ nhiệm lớp còn quá ít cả về lý thuyết lẫn thực
hành. Kiến thức được trang bị chưa sát với thực tiễn phổ thông; chưa được trang bị kỹ
thuật, kỹ năng chủ nhiệm lớp. Thiếu tài liệu hướng dẫn, tham khảo có liên quan…
Thiếu các kỹ năng cần thiết : sinh hoạt tập thể, kỹ năng tổ chức, ứng xử tình
huống, ... Cách thức tổ chức giờ sinh hoạt lớp còn đơn điệu, buồn tẻ học sinh không

hứng thú, hiệu quả thấp.
Càng lên cấp học cao hơn, sự quan tâm của GVCN đối với học trò càng có chiều
hướng giảm vì nghĩ rằng các em đã lớn, tính độc lập cao. Sự quan tâm, hợp tác của phụ
huynh học sinh cũng giảm dần hoặc biến tướng theo chiều hướng tiêu cực.
2. Các yêu cầu đối với giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp .
2.1. Nội dung công tác
Giáo viên chủ nhiệm, ngoài các nhiệm vụ quy định đối với giáo viên còn có
những nhiệm vụ sau :
1) Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ chức
giáo dục sát đối tượng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp;
2) Tổ chức hệ thống cán bộ lớp.
3) Tổ chức, chỉ đạo hoạt động tập thể lớp.
4) Giáo dục học sinh cá biệt. Trong hoàn cảnh hiện tại, giáo dục học sinh cá biệt
là một nội dung hầu như trở thành công tác chính và cũng là trách nhiệm nặng nề, “nỗi
khổ” của GVCN.
5) Tổ chức các hoạt động ngoài giờ.
6) Cộng tác chặt chẽ với gia đình học sinh, chủ động phối hợp với các giáo viên
bộ môn, Đoàn TNCS.Hồ Chí Minh, Đội TNTP.Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội có liên
quan trong hoạt động giảng dạy và giáo dục học sinh của lớp mình chủ nhiệm;
7) Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học, đề nghị khen
thưởng và kỷ luật học sinh, đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng, phải kiểm
tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp, hoàn chỉnh
việc ghi vào sổ điểm và học bạ học sinh;
8) Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng.
GVCN lớp là người chịu trách nhiệm thực hiện mọi quyết định quản lý của hiệu
trưởng đối với lớp và các thành viên trong lớp. Là người lãnh đạo, điều khiển, tổ chức,
giám sát, kiểm tra, quản lí lớp học thực hiện kế hoạch giáo dục đề ra, làm cho tập thể
ngày càng phát triển và hiệu quả.
Với tất cả các chức năng công việc trên, có thể khẳng định GVCN là một nhà
quản lý trong nhà trường phổ thông có sứ mệnh rất thiêng liêng. Đó là người thắp sáng

nhân cách toàn vẹn của thế hệ trẻ.
2.2. Phương pháp chủ nhiệm :
- Điều tra, tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt.
- Tổ chức lớp, bồi dưỡng năng lực công tác lãnh đạo cho cán bộ lớp. Xây dựng
kế hoạch chủ nhiệm, tổ chức phân công, phân nhiệm rõ ràng. Quy định nề nếp sinh hoạt
thống nhất, rõ ràng, khả thi. Xây dựng nề nếp tự quản hiệu quả.
- Cộng tác chặt chẽ với gia đình học sinh. Thiết lập mối quan hệ giữa gia đình và
nhà trường trong việc giáo dục học sinh là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. GVCN
thay mặt cho nhà trường để thực hiện sự phối hợp đó.
- Chủ động phối hợp với các giáo viên bộ môn, Đoàn TNCS.Hồ Chí Minh, Đội
TNTP.Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội có liên quan trong hoạt động giảng dạy và giáo
dục học sinh của lớp mình chủ nhiệm.
2.3. Kỹ năng
GVCN là cán bộ quản lý cho nên tố chất quan trọng của GVCN là tố chất của
một con người hành động. Vì đối tượng quản lý là con người phải giáo hoá do đó không
thể có một chương trình cài đặt sẵn. Cho nên, nhất thiết GVCN cần có những kỹ năng
sau để thành công, đó là :
- Kỹ năng lãnh đạo, thủ lĩnh
- Kỹ năng giao tiếp, thuyết phục
- Kỹ năng làm chủ, kềm chế
- Kỹ năng quan sát, phân tích tổng hợp.
- Kỹ năng hoạt động tập thể
2.4. Phẩm chất :
- Nhiệt tình, sâu sát, gần gũi, quan tâm, tận tình, vui vẻ, năng động, thân thiện,
nhẹ nhàng, chân tình.
- Kiên trì, nhẫn nại, tuyệt đối không được nóng vội, thành kiến dễ dẫn đến những
hậu quả đáng tiếc. Sự điềm tĩnh, khéo léo và tình thương yêu, trách nhiệm với học trò là
điều kiện quan trọng để xử lý thành công tình huống.
- Bao dung, yêu thương, cảm thông, chia sẻ. Không tìm sự an toàn cá nhân,
không vội vàng loại bỏ học sinh chỉ để bảo vệ thành tích của đơn vị, của cá nhân. Chính

sự thân thiện, gần gũi, thái độ ân cần của thầy cô sẽ là động lực lớn cho các em có lại
được niềm tin. Chú y hoàn cảnh gia đình học sinh, đặc biệt những gia đình bất hạnh, bất
lực. Giúp các em giải quyết những khó khăn này.
- Phải vừa là thầy vừa là bạn, là anh chị của học trò, thành người mà các em có
thể tin cậy, tâm sự, chia sẻ, là chỗ dựa tinh thần vững vàng cho các em trong cuộc sống.
“Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”.
- GVCN là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Hành xử, suy nghĩ của GV sẽ
ảnh hưởng rất nhiều đến học sinh..
- Phải tạo được uy tín về nhân cách và kiến thức. Ngoài việc phải tinh thông khoa
học bộ môn phụ trách, còn phải có một nền kiến thức rộng, cần phải tích lũy kinh
nghiệm làm nền tảng vững chắc cho những quyết định, xử lí phù hợp cho công tác chủ
nhiệm. Luôn học tập nâng cao trình độ mọi mặt.
- Ngoài năng lực chuyên môn, GVCN còn phải là một nhà tâm lý giỏi, hiểu thấu
đáo những suy nghĩ, tâm tư của học sinh lớp mình. Biết đặt mình vào vị trí của học sinh
để hiểu được hành vi và thái độ của các em. Việc xử lý học sinh phải mang tính giáo
dục, không được xúc phạm danh dự và phương hại sức khỏe của học sinh, dẫn đến tình
trạng các em bất mãn và phản ứng ngược, bất hợp tác với giáo viên.
- Có năng lực "thủ lĩnh", lôi cuốn học sinh nhiệt tình, tích cực thực hiện kế hoạch
công tác, tham gia phong trào,…
- Có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác.
- Nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, hiểu biết và vận dụng tốt các quy chế, quy định.
3. Phương hướng, giải pháp tăng cường năng lực làm công tác chủ nhiệm
lớp cho giáo viên ở trường phổ thông .
3.1. Quan tâm chỉ đạo
Lãnh đạo nhà trường cần quan tâm hơn nữa tới công tác chủ nhiệm lớp, tạo điều
kiện thuận lợi cho các chủ nhiệm lớp hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Tăng cường
trách nhiệm trong quản lý, theo dõi, giúp đỡ các GVCN trong hoạt động quản lý lớp.
Cần xác định trách nhiệm quản lý, theo dõi công tác chủ nhiệm lớp. Sự phân công phải
cụ thể và cần được thể chế hoá trong Quy chế làm việc.

Cần có hình thức lấy ý kiến đóng góp của học sinh đối với công tác quản lý lớp
của chủ nhiệm lớp. Ngoài ra, cũng cần phải chú ý công tác kiểm tra hồ sơ chủ nhiệm,
kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ
nhiệm lớp.
Tạo điều kiện cơ sở vật chất đầy đủ, khang trang, thoáng mát, vệ sinh sạch sẽ ...
Xác định rõ vai trò của GVCN. Xây dựng đội ngũ chủ nhiệm thạo việc, tận tâm.
Tích cực xây dựng trường học thân thiện, an toàn để học sinh an tâm đến trường.
3.2. Đào tạo, bồi dưỡng
Các cấp quản lý giáo dục thường xuyên tổ chức hội thảo, tập huấn chuyên đề
công tác chủ nhiệm
Duy trì họp chủ nhiệm đều đặn hàng tháng để kịp thời nắm bắt tình hình cụ thể
từng lớp, đánh giá, nhận xét về công tác chủ nhiệm và có biện pháp tháo gỡ những khó
khăn vướng mắc trong quá trình quản lý lớp của GVCN. Đây là một biện pháp đào tạo
bồi dưỡng GVCN.
Thư viện bổ sung tài liệu tham khảo chuyên về công tác chủ nhiệm lớp, các tư
liệu đào tạo các năng lực, kỹ năng cần thiết.
Cần phải tạo được những động lực thực tế mang tính cạnh tranh lành mạnh để
thúc đẩy không khí thi đua công tác.
3.3. Chế độ chính sách.
Ngành và những cơ quan chức năng liên quan cần quan tâm và có chế độ hợp lý
hơn đối với GVCN hiện nay để xứng đáng với công sức mà họ bỏ ra hàng ngày, để họ
luôn yên tâm với công việc dạy chữ - dạy người. Tăng thời gian quy đổi dành cho công
tác chủ nhiệm lớp để GVCN có thời giờ thực hiện công tác hiệu quả hơn.
Để GVCN có đủ thời gian thực hiện được vai trò người thầy chủ nhiệm, hiệu
trưởng cần xem xét và tổ chức phân công, phân nhiệm GVCN một cách hợp lý hơn.
Đừng để GVCN phải làm thay công việc các bộ phận khác trong nhà trường mà lại giảm
nhẹ trách nhiệm “trồng người” là giáo dục ý thức đạo đức và kỹ năng sống cho các em.
Ban hành những quy định, biện pháp chế tài cụ thể đối với những vi phạm quy
chế giảng dạy, học tập và điều kiện áp dụng để giúp chủ nhiệm lớp đảm bảo hiệu lực
của công tác quản lý lớp.

3.4. Thay đổi cách đánh giá học sinh
Đổi mới cách đánh giá đạo đức học sinh hiện nay. Đánh giá cả một nhân cách
con người đang hình thành và phát triển mà chỉ qua mấy chữ hời hợt thì thật là bất công.
Với cách đánh giá hiện nay, học sinh phải thu mình, không dám bộc lộ cá tính,
suy nghĩ, không khuyến khích các em sống thật, sống hết mình, rèn luyện trở thành
những người có bản lĩnh, chủ động, sáng tạo. Những học sinh có cá tính, bộc lộ mạnh
mẽ hoặc thiếu rèn luyện, thiếu sự giáo dục tỉ mỉ thường bị cách xếp loại khô cứng theo
đuổi mãi.
Trong thực tế, không ít thầy cô khi đánh giá hạnh kiểm học trò tuỳ tiện, mang
tính chất đối phó, chưa thể hiện trách nhiệm, không phản ảnh hết tình trạng học sinh,
người đọc không hình dung được những nét lớn về tính cách và sở trường cùng sự khắc
phục, vươn lên của các em. Trong học bạ, mục nhận xét của GVCN phần lớn chỉ ghi
chung chung.
GVCN nên ghi lại trung thực những mặt cố gắng cũng như một số mặt rèn luyện
chưa tốt của học sinh theo các nội dung chủ yếu như : rèn luyện phẩm chất đạo đức; ý
thức phấn đấu rèn luyện trong học tập; ý thức tôn trọng nội quy kỷ luật của nhà
trường, pháp luật nhà nước; ý thức rèn luyện thân thể, bảo vệ môi trường; ý thức
tham gia hoạt động tập thể, xây dựng tập thể, … Làm việc này, GVCN có vất vả
hơn một chút nhưng chúng ta sẽ được cả những thế hệ học sinh sớm hoàn thiện nhân
cách, sống hồn nhiên, không bị ràng buộc, không trở thành những người “cơ hội”, thiếu
bản lĩnh, thiếu cá tính; mặt khác cũng khiến GVCN phải quan tâm đến công tác chủ
nhiệm hơn.
3.5. Các bộ phận hỗ trợ :
Muốn duy trì tốt thành quả giáo dục cần có sự phối hợp chặt chẽ với các phong
trào khác, những hoạt động khác, và đặc biệt cần phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường với
cha mẹ học sinh, được sự quan tâm lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể và
nhân dân địa phương để tạo sức mạnh đồng bộ, toàn xã hội cùng giáo dục thế hệ trẻ
đồng thời giữ vững được hướng đi đúng .
Cần xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các đơn vị hữu quan để có
những biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ, khắc phục kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong

công tác chủ nhiệm.
Các tổ chuyên môn cần có sự phối hợp chặt chẽ trong việc theo dõi, đánh giá mặt
công tác chủ nhiệm của các giáo viên thuộc quyền quản lý của mình. Phải tạo điều kiện
hỗ trợ, giúp đỡ các giáo viên của đơn vị hoàn thành tốt công tác chủ nhiệm.
Cần phối hợp tốt với tổ chức Đảng, các đoàn thể, ….trong việc giáo dục nâng
cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện của các chủ nhiệm lớp. Bản thân các giáo viên được
phân công làm công tác chủ nhiệm phải không ngừng phấn đấu, nỗ lực cố gắng hết sức
mình, vượt mọi khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
4. GVCN lớp với việc triển khai có hiệu quả phong trào thi đua “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Chúng ta đang có phong trào “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
hiệu quả, phù hợp, thiết thực. Chỉ có thể xây dựng phong trào này đạt tới kết quả đích
thực, nếu hình thành được một đội ngũ GVCN tận tâm.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×