Các phong tục lạ về Đám Cưới của người Trung Quốc
Trung Quốc là đất nước có lịch sử vô cùng lâu đời và 1 nền văn
hóa vô cùng đặc sắc. Phong tục tập quán ở Trung Quốc rất
phong phú, đa dạng, đôi khi cũng rất lạ lùng. Xin giới thiệu một
số phong tục lạ liên quan đến đám cưới, hôn nhân ở Trung
Quốc
1. Anh em chung vợ
Hôn nhân của dân tộc Tạng rất phức tạp. Nói chung, có 3 chế
độ: 1 vợ 1 chồng, 1 chồng nhiều vợ, 1 vợ nhiều chồng. Chế độ 1
chồng nhiều vợ thường xảy ra ở những gia đình giàu có và
những chủ nô. Thường là chị em lấy chung 1 chồng. Một vợ
nhiều chồng chỉ nhiều anh em lấy chung 1 vợ. Gia đình kiểu
này thường là mẫu hệ.Lại có chuyện nhiều bạn bè lấy chung 1
vợ. Có trường hợp 1 người bạn thân đến nhà bạn và nhà bạn
thiếu người làm cho nên ở lại nhà bạn và quan hệ luôn với vợ
bạn.
2. Cưới cô dâu “cao số”
Ở tỉnh Triết Giang, nếu trước ngày cưới đi xem bói, cô dâu nào
không may bị bà thầy phán là có số “phá gia chi nữ” thì cô ấy
sẽ không được đi kiệu về nhà chồng như các đám cưới bình
thường. Trước khi cưới chừng 2,3 ngày, cô dâu phải làm ra vẻ
trốn ra khỏi nhà, ra ở nhờ 1 miếu hay đền. Cô mang theo vài
bộ quần áo không lành lặn lắm, 1 cái ô cũ kỹ,1 cái làn cói có
bát, đĩa cũ và 1 đôi đũa. Hành trang của cô giống như 1 kẻ đi
ăn xin.
Đến ngày cưới, lúc chập choạng tối, bên nhà gái phải trốn
tránh, không ai xuất đầu lộ diện. Mọi việc do phía nhà trai
cáng đáng. Cô dâu thay quần áo mới, trang điểm, xách theo đồ
dùng đẹp đẽ, dưới sự giúp sức của 2 cô gái do nhà trai cử đến.
Cô cùng đi bộ với 2 cô bạn gái chừng 20 tuổi rồi mới bước lên
kiệu hoa và được rước về nhà trai bằng con đường tắt. Phải
126 ngày cô ở bên nhà chồng, rồi mới được thăm mẹ đẻ. Khi về
nhà mình rồi, bên nhà gái mới ăn mừng, con gái mới đi lấy
chồng trở về thăm mẹ. Nhà gái làm cỗ linh đình, mời bà con
thân thuộc đến dự.
3. Đốt đuốc đón cô dâu
Dân tộc Đồng ở huyện Tĩnh (tỉnh Hồ Nam) đón cô dâu vào
giữa đêm. Đi đón cô dâu, phía nhà trai có chừng 30 người. Mỗi
người cầm 1 bó đuốc nhựa thông ra khỏi nhà, vượt núi, vượt
suối đến nhà cô dâu. Họ vừa đi vừa đánh trống, thổi kèn và
chơi nhạc cụ, đầy nhiệt tình vui vẻ giữa mênh mông vắng
lặng.Đến nhà cô dâu, bên nhà gái rước dâu, cô dâu quàng khăn
lên đầu, cổ đeo kiềng, vai khoác vòng hoa, tay phải cầm chiếc ô
bằng giấy có phết dầu trẩu (trừ tà). Cô dâu đi theo nhà trai
cùng 2 cô gái phù dâu trong tiếng nhạc rộn ràng. Nếu trên
đường về nhà chồng gặp 1 đám cưới khác, cô dâu phải trao đổi
thắt lưng với cô dâu ở đám cưới kia để chúc mừng hạnh phúc
nhau.
Khi đám rước dâu về tới cổng nhà, người ta đốt pháo mừng.
Một vị trưởng lão trên 50 tuổi đứng ra làm mọi nghi thức đón
cô dâu vào nhà. Sau khi làm lễ, cô dâu được mời vào phòng
trong, ăn với chú rể bữa cơm đêm. Ngày hôm sau, cô dâu được
mời 1 bữa thật ngon, gọi là “yến nhiều món” rồi cùng 2 cô phù
dâu trở về nhà mẹ đẻ. Từ đó, chú rể thường đi lại làm khách
của cô dâu. Đến khi cô dâu có mang, cô mới mang 1 chiếc xe
quay sợi về nhà trai định cư.
4. Mùa xuân ném cô dâu
Vùng núi Ô Long bên bờ sông Tân An thuộc Vân Nam có mấy
làng chài. Người dân ở đây biết bơi từ trong bụng mẹ. Các gia
đình thường lấy vợ cho con trước Tết Nguyên đán chừng 10
ngày để đón năm mới và cô dâu mới. Người dân ở đây có tục
“ném cô dâu” trong lễ cưới. Thuyền cưới nhà trai kết hoa xanh
đỏ, áp vào thuyền nhà gái, lá xanh và dây hoa rừng trắng. Ném
cô dâu là 1 động tác vui vẻ, mạo hiểm và thượng võ. Chỉ cần
không thận trọng là cô dâu và người ném có thể lăn xuống
nước. Đó là điềm gở cho 2 gia đình và làm cho ngày Tết mất
vui.
Khi cô dâu bị ném, 1 chàng trai là anh em hoặc có họ với cô sẽ
ôm ngang lưng cô, 1 tay giữ phần mông, dùng sức ném cô dâu
sang thuyền nhà trai trong tiếng hô “1,2,3…”. Người đỡ cô dâu
ở bên nhà trai có thể là chú rể hoặc là 1 người đứng tuổi.Trong
lễ ném cô dâu, thuyền nhà trai cho nổ 3 phát pháo, bên thuyền
nhà gái nổ 2 phát pháo. Sau lễ ném cô dâu, mọi người đều trở
về làng, đẩy ra cho cô dâu và chú rể 1 chiếc thuyền nhỏ, có đủ
thức ăn dùng trong mấy ngày, cô dâu và chú rể bơi thuyền đến
1 nơi khuất nẻo, sống với nhau mấy ngày. Họ phải trở về nhà
với bố mẹ vào ngày 23 tháng Chạp để chuẩn bị Tết.
5. Tạ hôn và cưới chịu
Phía Nam Trung Quốc gần Việt Nam, người Mán có phong tục
lạ là tạ hôn và cưới chịu. Các cô gái thường có 3,4 người tình.
Nhưng một khi cô đã chính thức đính hôn với ai, cô sẽ cắt bỏ
quan hệ với người khác. Điều lạ là đêm tân hôn, cô dâu không
làm lễ động phòng với chú rể mà đến với người tình cũ để tạ
ơn và hưởng đêm xuân với anh ta. Cô gái phải đi tạ ơn mỗi
người tình 1 đêm rồi trở về với chồng. Khi trai gái kết hôn, nhà
trai phải mang sang nhà gái nhiều của cải và vật phẩm, tổ chức
yến tiệc linh đình chiêu đãi cả bộ tộc. Nếu nhà trai không có
tiền thì nhà gái cho chịu, rồi sẽ phải trả. Do vậy, có đám cưới
đến khi con cái đầy đàn mới trả hết nợ.
6. Lễ cưới vào ban đêm
Các dân tộc người Trung Quốc thường tổ chức làm lễ cưới vào
ban ngày, riêng dân tộc Mãn làm đám cưới vào ban đêm. Ngày
cưới, nhà gái dùng xe mui đưa cô dâu về nhà chồng, nhà trai
dùng chiếc xe trang trí để rước dâu. Hai bên gặp nhau giữa
đường, anh ruột hoặc anh họ cô dâu bế cô dâu từ mui xe của
nhà gái lên xe hoa của nhà trai. Dù giữa mùa hè nóng nực, cô
dâu cũng phải mặc áo kép, chỗ vai và đầu gối còn phải độn ít
bông, mang ý nghĩa đầy đặn và trung hậu.
Khi xe cô dâu về đến nhà trai, chú rể đứng đợi ở trước cổng và
giương cung đặt tên, nhằm xe cô dâu vờ bắn 3 phát. Sau đó,
chú rể dẫn cô dâu đến trước bàn thờ đặt giữa sân, 2 vợ chồng
cùng vái trời đất. Tiếp đó, chú rể dùng cán cân hoặc roi ngựa
nâng chiếc khăn trùm đầu của cô dâu, đặt trên nóc nhà bạt đã
cắm sẵn từ trước, có ý nghĩa là vừa lòng thuận ý. Lúc khều
khăn trùm đầu, chú rể dùng tay xoa đầu tóc của cô dâu, tượng
trưng cho đôi vợ chồng kết tóc xe tơ. Cô dâu bước qua 1 chậu
lửa, lại nhảy qua yên ngựa rồi vào nhà bạt, mặt hướng về nam,
làm lễ an tọa.
Làm lễ xong, cô dâu phải đi giày của mẹ chồng, tỏ ý sẽ đi theo
bước chân của mẹ chồng. Tục lệ đó nói lên nguyện vọng tốt đẹp
của lớp già mong con dâu mới cưới sẽ noi theo người trước ăn
ở thuận hòa với láng giềng, làng trên xóm dưới. Lễ tân hôn có
cỗ, cô dâu chú rể uống chén rượu tơ hồng, ăn bánh treo nửa
chín nửa sống, có ý nghĩa mong muốn con cháu đầy đàn.
Đêm tân hôn, trên bàn thờ có đôi nến thắp sáng suốt đêm.
Gian ngoài của nhà bạt có những người hát các khúc ca chúc
mừng. Một số bạn bè hoặc láng giềng vãi những hạt đậu nành,
đậu đen vào nhà, chúc vợ chồng mới làm ăn giàu có, dư dật,
con đàn cháu lũ. Lễ cưới kéo dài cho đến khuya.
7. Tục ném bùn trong đám cưới
Dân tộc Đồng ở Trung Quốc có tục ném bùn vào nhau đúng
ngày cô gái đi lấy chồng được 1 năm. Cô gái cùng 9 cô bạn chơi
ném bùn với chồng và các bạn của chồng trên mảnh ruộng đầy
bùn. Khi chơi đã mệt, họ nhảy ùm xuống sông, té nước vào
nhau. Trong số đó, có đôi nào để ý nhau thì bơi ra xa và anh
chàng trong đôi đó sẽ được mời tham gia hội ném bùn năm
sau.
8. Kính chó hơn người
Thanh niên Hà Nhì Trung Quốc rất tiết kiệm lời nói khi yêu
đương. Họ dùng cách tặng hoa cho nhau để nói về tình yêu.
Chàng trai tặng cho cô gái 2 bông hoa, 1 vàng 1 đỏ. Cô gái tặng
lại cho chàng trai 1 bông hoa đỏ hoặc vàng. Màu vàng chỉ sự
lưỡng lự, màu đỏ là yêu. Cô gái tặng bó hoa mà ở giữa có giò
hoa cánh đơn, tức là cô ấy còn đơn chiếc, chưa có bạn trai
chính thức. Nếu ở giữa có giò hoa cánh kép tức là cô gái đã có
người yêu rồi.Gia đình người Hà Nhì rất kén con dâu. Trong
gia đình cô dâu mới được cưới về, mẹ chồng được gọi là chó
nhà trời.Truyền thuyết kể rằng xưa kia người Hà Nhì không
biết trồng cây, cũng như dệt vải. Cô con út nhà trời đã lấy cắp
giống lúa của cha cho người Hà Nhì, dạy mọi người cách dệt
vải để may quần áo. Cô út bị gọi về trời, bị biến thành con chó