Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Đề thi thử văn thpt quốc gia 2019 - Thạc Sỹ Nguyễn Thành Huân - Đề 5 | Ngữ văn, Đề thi đại học - Ôn Luyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.85 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Ths. Nguyễn Thành Huân</b> <b>ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019 </b>


<b>CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 5</b>
<b>Môn thi: NGỮ VĂN</b>


<i>Thời gian làm bài: 120 phút, khơng kể thời gian phát đề</i>
<b>Họ, tên thí sinh:...</b>


<b>Số báo danh:...</b>


<b>I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)</b>


<b>Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:</b>


<i>Cải quỷ giá nhất trển đời mà mỗi người có thể góp phần mang lại cho chính mình và cho người khác đó</i>
<i><b>là ‘năng lực tạo ra hạnh phúc”, bao gồm năng lực làm người, năng lực làm việc và năng lực làm dân.</b></i>


<i>Năng lực làm người là có cái đầu phân biệt được thiện - ác, chân - giả, chính - tà, đủng - sai... biết</i>
<i>được mình là ai, biết sổng vì cái gì, có trái tim chan chứa tình u thương và giàu lịng trắc ẩn. Năng lực</i>
<i>làm việc là khả năng giải quyết được những vấn đề của cuộc Sống, của công việc, của chuyên môn, và thậm</i>
<i>chí là của xã hội. Năng lực làm dân là biết được làm chủ đất nước là làm cải gì và có khả năng để làm được</i>
<i>những điều đó. Khỉ con người có được những năng lực đặc biệt này thì sẽ thực hiện được những điều mình</i>
<i><b>muốn. Khi đó, mỗi người sẽ trở thành một “tế bào hạnh phúc”, một "</b><b>nhà máy hạnh phúc” và sẽ ngày ngày</b></i>
<i><b>'"</b><b>sản xuất hạnh phúc” cho mình và cho mọi người.</b></i>


<i>Hạnh phúc là một quyền mà bất cứ ai đều được hưởng. Nó khơng phân biệt với bất kì ai. Bạn chưa</i>
<i>được hạnh phúc chẳng qua là do bạn khơng làm gì để có được nó mà thơi. Hạnh phúc là đơn sơ nhưng nó</i>
<i>cũng khơng đến với những ai khơng xứng đáng.</i>


<i><b>Xã hội mở ngày nay làm cho khơng có ai là "</b><b>nhỏ bé” trên cuộc đời này, trừ khi tự mình muốn "</b><b>nhỏ bé”.</b></i>
<i><b>Ai cũng có thể trở thành những "</b><b>con người lớn” bằng hai cách, làm được những việc lớn hoặc làm những</b></i>


<i>việc nhỏ với một tình yêu cực lớn. Và khỉ biết chọn cho mình một lẽ sổng phù hợp roi song hết mình và cháy</i>
<i>hết mình với nó, mỗi người sẽ có được một hạnh phúc trọn vẹn. Khi đó, ta khơng chỉ có những khoảnh khắc</i>
<i>hạnh phúc, mà cịn có cả một cuộc đời hạnh phúc. Khi đó, tơi hạnh phúc, bạn hạnh phúc và chúng ta hạnh</i>
<i><b>phúc. Đó cũng là lúc ta thực sự “chạm” vào hạnh phúc!</b></i> <i>,</i>


<i>(Để chạm vào hạnh phúc, Giản Tư Trung, Thời báo</i>
<i>Kỉnh tế Sài Gòn Online, 21 - 9 - 2016)</i>


<b>Câu 1: Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản.</b>
<b>Câu 2: Nêu nội dung chính của văn bản.</b>


<b>Câu 3: Trong văn bản có nhiều cụm từ in đậm được để trong ngoặc kép, hãy nêu công dụng của việc sử</b>
dụng dấu ngoặc kép trong những trường hợp trên. Từ đó, hãy giải thích nghĩa hàm ý của hai cụm từ “nhỏ bé”
và “con người lớn”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>II. LÀM VĂN (7,0 điểm)</b>


<b>Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý</b>
<i>kiến: “Hạnh phúc chỉ đến với những ai biết cảm nhận và chẩp nhận chứ không đến với những kẻ truy</i>
<i>lùng hạnh phúc”.</i>


<b>Câu 2 (5,0 điểm): Đọc đoạn văn dưới đây:</b>


<i>Trong lúc chị Chiến xuống bếp nấu cơm, Việt đi câu ít con cả về làm bữa cúng má trước khi dời bàn</i>
<i>thờ sang nhà chủ, còn một mình ở nhà trên, chú Năm lại cất tiếng hị. Khơng phải giọng hị trong trẻo trong</i>
<i>đêm bay ra hai bên bờ sông, rồi dội lại trên cái ghe heo chèo mướn của chú. Câu hò nổi lên giữa ban ngày,</i>
<i>bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kẻo dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ,</i>
<i>tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội.</i>


<i>Cúng mẹ và cơm nước xong, mấy chị em, chú cháu thu xếp thu xếp đồ đạc dời nhà. Chị Chiến ra đứng</i>


<i>giữa sẩn, kéo cái khăn trên cố xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi</i>
<i>dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu.</i>
<i>Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc</i>
<i>lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt</i>
<i>thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lịng mình rõ như thế. Cịn mối thù thằng Mĩ thì có thế rờ</i>
<i>thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai.</i>


<i>Hai chị em khiêng má băng tẳt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam,</i>
<i>con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác.</i>


<i>(Trích Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi, SGK Ngữ</i>
<i>văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 63)</i>
Cảm nhận chi tiết hai chị em Chiến và Việt khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm trong đoạn văn trên.
<i>Từ đó, anh (chị) hãy liên hệ đến hình ảnh người chí sĩ u nước trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của</i>
<i>Phan Bội Châu (Ngữ văn 77, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) và hình ảnh người anh hùng trong bài</i>
<i>thơ Tỏ lịng (Thuật hồi) của Phạm Ngũ Lão (Ngữ văn 10, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) để</i>
nhận xét về lòng yêu nước và trách nhiệm của mỗi con người Việt Nam hiện nay.


<b> HẾT </b>


<b>---HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT</b>
<b>I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)</b>


<b>Câu 1: Phong cách ngôn ngữ của văn bản là phong cách ngơn ngữ báo chí.</b>
<b>Câu 2: Nội dung chính của văn bản trên:</b>


<i><b>-</b></i> Con người có năng lực tạo ra hạnh phúc, bao gồm: năng lực làm người, làm việc, làm dân.


<i><b>-</b></i> Để chạm đến hạnh phúc con người phải trở thành “con người lớn” bằng hai cách: làm việc lớn hoặc làm
việc nhỏ với tình yêu lớn.



=> Con người tự tạo ra hạnh phúc bằng những vệc làm đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của xã hội dù đó là
việc lớn hay nhỏ.


<b>Câu 3: </b>


<i><b>-</b></i> Công dụng của việc sử dụng dấu ngoặc kép: làm nổi bật, nhấn mạnh đến một ý nghĩa, một cách hiểu khác
có hàm ý.


<i><b>-</b></i> Nghĩa hàm ý của hai cụm từ “nhỏ bé”: tầm thường, thua kém, tẻ nhạt... và “con người lớn”: tự do thể
hiện mình, khẳng định giá trị bản thân, thực hiện những ước mơ, sống cao đẹp, có ích, có ý nghĩa...


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

thân.


<i><b>-</b></i> “Làm những việc lớn” gắn với ước mơ, lí tưởng hào hùng, lối sống năng động, nhiệt huyết, tràn đầy khát
vọng.


<i><b>-</b></i> Cịn “tìm những việc nhỏ với một tình u cực lớn” lại chú trọng đến niềm dam mê, cội nguồn của sáng
tạo.


<b>II. LÀM VĂN (7,0 điểm):</b>
<i><b>Câu 1 (2 điểm)</b></i>


<b>A. Về kĩ năng</b>


<i><b>-</b></i> Biết viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định.


<i><b>-</b></i> Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân
tích, chứng minh, bình luận...; hành văn mạch lạc, trơi chảy, có cảm xúc; khơng mắc lỗi dùng từ, chính tả.



<b>B. Về kiến thức</b>


Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau:
<b>1.</b> <b>Giải thích</b>


<i><b>-</b></i> “Hạnh phúc” là cảm giác vui sướng, mãn nguyện khi ta đạt được những mong ươc tốt đẹp, lành mạnh của
chính mình. Ta chỉ có thể đạt được “hạnh phúc” khi ta biết “cảm nhận” mà thôi, nghĩa là phải biết lắng
nghe, đón nhận vẻ đẹp của cuộc sống. Điều này địi hỏi ta phải có một trái tim thật tinh tế và nhạy cảm.
<i><b>-</b></i> “Chấp nhận” là thái độ thỏa mãn, nâng niu, ưân trọng và vui vẻ với những gì mình đang có.


<i><b>-</b></i> “Những kẻ truy lùng” đó là những kẻ khao khát có được hạnh phúc đến điên đảo, sẵn sàng dùng mọi thủ
đoạn, mánh khóe để đạt được tham vọng.


=> Câu nói trên thực sự đã chỉ ra cho chúng ta một phương thức, một con đường tìm đến với niềm vui trong
cuộc sống: hạnh phúc luôn luôn tồn tại và chờ đợi những ai biết trân trọng giá trị mình đang có, tham
vọng quá đáng không bao giờ mang lại hạnh phúc thực sự.


<b>2.</b> <b>Chứng minh và bàn luận</b>


<i><b>-</b></i> Câu nói trên có lẽ chính là kim chỉ nam cho những ai đang loay hoay trên con đường kiếm tìm “hạnh
phúc” và có giá trị thức tỉnh những ai đang “than thân trách phận”.


<i><b>-</b></i> “Hạnh phúc” chỉ đến với những ai biết “cảm nhận và chấp nhận” mà thôi. Thượng Đế ban tặng hạnh phúc
cho trước hết là cho những ai biết cảm nhận. Vì họ chính là người có trái tim nhạy cảm, biết lắng nghe,
yêu thương, chia sẻ và biết đón nhận vẻ đẹp của cuộc đời. Nhờ đó mạ tâm hồn họ luôn luôn rộng mở, nhẹ
nhàng, thanh thản, thỏa mãn và vô cùng phong phú.


<i><b>-</b></i> “Chấp nhận” là những người biết cảm nhận là những người có trái tim thì những ai biết chấp nhận là
những người có một khối óc, một trí tuệ mẫn tiệp, nhìn sâu và xa hơn người khác. Không phải ai cũng
nhận ra được giá trị của những gì mình đang có và không phải ai cũng hiểu được thể nào là cuộc sống


đích thực, cuộc sống thì phải có cả chơng gai lẫn đỉnh vinh quang, cả những gam màu xám bên cạnh
những vì sao lấp lánh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Và liệu, đó có phải là hạnh phúc mà họ đang ráo riết “truy lùng”? Đáng thương thay những kẻ luôn “than
thân trách phận” hay “ôn nghèo kể khổ”, cả một đời luôn thấy mình bất hạnh và cuộc đời bất cơng với
mình.


<i><b>-</b></i> Đảng phê phán thay những kẻ tham ô công quỹ, làm “hạnh phúc” cho bản thân dựa trên sự hao hụt, suy
yếu dần của đất nước. Cũng thật đáng tiếc cho những ai không biết nâng niu quý trọng những gì mình
đang có, để rồi khi vĩnh viễn mất đi một thứ mới biết rằng mình đã từng có nó...


<i><b>-</b></i> Tuy nhiên, “cảm nhận” và “chấp nhận” khơng có nghĩa là ta cho phép mình tự mãn, thỏa hiệp, mặc cho số
phận an bài. “Cảm nhận và chấp nhận” thôi, chưa đủ, chúng ta còn phải hành động, cố gắng, nỗ lực khơng
ngừng thì mới có được “hạnh phúc” đích thực bởi trên đời này, khơng có thành q nào tự nhiên mà có
cả.


<b>3.</b> <b>Bài học nhận thức và hành động</b>


<i><b>-</b></i> Cần nhận thức sâu sắc về cách để dựng xây hậnh phúc cho chính mình, “hạnh phúc” là những gì đơn
giản, gần gũi nhất quanh ta, hãy mở lịng và đón nhận cuộc sống này.


<i><b>-</b></i> Đồng thời, ta cũng không quên hành động, nỗ lực không ngừng để “hạnh phúc” với ta càng thêm ý nghĩa.
<i><b>-</b></i> Hãy đặt ra các dự định cụ thể, liên tục nâng các mục tiêu của mình lên để cầu tiến chứ khơng cầu tồn,


khát vọng chứ khơng tham vọng.


<i><b>Câu 2 (5 điểm)</b></i>
<b>1.</b> <b>Mở bài</b>


<i><b>-</b></i> <i><b>Giới thiệu vấn đề nghị luận</b></i>


<i>Việt Nam ơi!</i>


<i>Đất nước của những người con gái, con trai </i>
<i>Đẹp như hoa hồng, cứng như sắt thép </i>
<i>Xa nhau không hể rơi nước mắt </i>
<i>Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt.</i>


<i>(Chúng con chiến đẩu cho người sổng mãi Việt Nam ơi!, Nam Hà)</i>


Cuộc kháng chiến chống Mĩ vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã lùi xa vào dĩ vãng, tiếng bom rơi đạn nố và
mùi cay sè của thuốc súng cũng đã nằm sâu trong lòng đất. Thế nhưng mỗi khi đọc lại những câu thơ này, ta
tưởng như thấy lại những năm tháng hào hùng của thời chống Mĩ, với những chàng trai, cô gái từ giã làng
<i>quê, mái trường, người thân ra trận với quyết tâm vì một ngày đồn viên. Những người lính ấy “sung sướng</i>
<i>được làm người con đất nước' (chữ dùng của Nam Hà), khi ra trận “băng tới trước quân thù như triều như</i>
<i>thác, trút hờn căm để làm nên những vinh quang bất diệt” (Nam Hà). Nét đẹp ấy, đã gợi cho chúng ta liên</i>
<i>tưởng đến truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi.</i>


<i><b>-</b></i> <i><b>Dẫn ra vấn đề nghị luận</b></i>


+ Là một nhà văn cầm súng đã ngã xuống giữa chiến trường như một chiến sĩ thực sự, Nguyễn Thi đã để
lại nhiều tác phẩm rất có giá trị, những tác phẩm mà mỗi trang sách còn khét mùi đạn bom, cháy đỏ lửa căm
thì quân xâm lược và xanh ngời một niềm lạc quan. Tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Nguyễn Thi ta phải
<i>kể đến tác phẩm Những đứa con trong gia đình. Nối bật trong tác phẩm là đoạn văn vẫn được nhiều người</i>
<i>cho là hay nhất truyện: đoạn tả hai chi em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má, sang nhà chú Năm: “Trong lúc</i>
<i>chị Chiến xuống bếp nấu cơm, Việt đi câu ít con cá về làm bữa cúng má trước khi dời bàn thờ sang nhà chủ,</i>
<i>cịn một mình ở nhà trên, chú Năm lại cất tiếng hò... Hai chị em khiêng má băng tẳt qua dãy đất cày trước</i>
<i>cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi đế lội hết đồng này sang</i>
<i>bưng khác”.</i>


<b>2.</b> <b>Thân bài</b>



<i><b>2.1.</b><b>Giới thiệu tác giả và tác phẩm</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

với nhân dân Nam Bộ. Do đó, làm nên một Nguyễn Thi trong nền văn học dân tộc không phải là cảm hứng
về những gì lạ lẫm, xa vời, bay bổng, mà là mẹ, là đất, là quê hương, làng xóm, những cái gắn bó ruột rà,
thân thiết với đời sống thuần hậu và còn rất nhiều cực khổ của con người.


<i><b>-</b></i> Nguyễn Thi là cây bút có biệt tài phân tích tâm lí sắc sảo. Văn Nguyễn Thi giàu chất hiện thực, đầy
những chi tiết dữ dội, ác liệt của chiến tranh, vừa đàm thắm chất trữ tình với một ngơn ngữ phong phú, góc
<i>cạnh, đậm chất Nam Bộ. Những đứa con trong gia đình là một trong những truyện ngắn xuất sắc của</i>
<i>Nguyễn Thi, được viết ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt khi ông công tác ở tạp chí Văn nghệ Qn</i>
<i>giải phóng, truyện được in trong tập Truyện và kí, xuất bản năm 1978. Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của</i>
người dân Nam Bộ - những con người giàu lòng yêu nước, gắn bó với quê hương mà tiêu biểu nhất là Việt
và Chiến.


<i><b>2.2.</b><b>Chi tiết nghệ thuật và vị trí của đoạn trích trong tác phẩm</b></i>


<i><b>-</b></i> “Chi tiết nghệ thuật” trước hết là những yếu tố về ngôn ngữ, lời văn được dùng để diễn tả nội dung, tư
<i>tưởng của tác phẩm. Nếu trong thơ, chi tiết có thể là một từ như: “ngửi” (Tây Tiến, Qụang Dũng), một hình</i>
<i>ảnh tu từ như: “Nhìn nắng hàng cau nắng mời lên” (Đây thơn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Từ)... Thì trong tác phẩm tự</i>
sự chi tiết có thể là lời nói của nhân vật, điệu bộ, cử chỉ, nét mặt, đồ vật, cảnh tượng, hoặc có khi là một tình
tiết của cốt truyện.


<i><b>-</b></i> <i>Đọc Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, chúng ta mãi không thể quên được chi tiết hai chị</i>
em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm. Sau khi được chú Năm ủng hộ, xin anh cán bộ tuyển
quân ghi tên cho cả hai cùng đi tòng quân một đợt, chị em Chiến, Việt cắt đặt việc nhà gọn gàng chu đạo.
Buổi sáng ngày lên đường, hai chị em làm cơm cúng má. Chị Chiến vào bếp nấu cơm, Việt đi câu cá. Cúng
má, cơm nước xong, mấy chú cháu thu xếp đồ đạc dời nhà. Hai chị em mỗi người một đầu khiêng bàn thờ
má sang nhà chú Năm, băng tắt qua bãi đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, con
đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác.



<i><b>2.3.</b></i> <i><b>Cảm nhận đoạn văn</b></i>


<i><b>a. Tình thương mẹ sâu sắc, tình chị em cảm động</b></i>


<i><b>-</b></i>Chỉ trong gần một nửa trang giấy nhưng đoạn văn trên đã gây xúc động sâu sắc cho người đọc. Xúc
động bởi đoạn văn đã chạm tới một miền tâm tưởng thuộc thế giới tâm linh của người Việt. Trong đời sống
tinh thần, người Việt tin rằng có một thế giới khác, thế giới mà con người sẽ trú ngụ sau khi rời khỏi chốn
dương gian. Quan niệm như vậy cho nên họ luôn cho rằng ngưởi đã chết chỉ thác về thể xác cịn linh hồn thì
<b>vẫn tinh anh. Linh hồn vẫn có thể đi về giữa hai thế giởi ấy. Từ đó ngưới Việt lập ra bàn thờ để cúng người</b>
đã khuất. Bàn thờ trở thành nơi gặp gỡ của vong linh người đã khuất với những người thân trong gia đình.


<i><b>-</b></i>Trong buổ`i sáng trước giờ lên đường tòng quân, hai chị em Chiến, Việt đã cho mượn hoặc đem cho
hết đồ đạc trong nhà, riêng bàn thờ má thì đem gửi. Điều đó chứng tỏ bàn thờ má là những gì thiêng liêng
nhất trong cuộc sống mà hai chị em đều trân trọng, giữ gìn, nâng niu. Quê hương, đất nước, Tổ quốc trước
hết thể hiện ở nơi bàn thờ. Phải chăng, đó cịn là lời nhắn nhủ: thế hệ trước đã hi sinh, nhưng họ sẽ sống mãi
trong lòng những đứa con, sẽ luôn là lời nhắc nhở thế hệ sau phải tiếp nối truyền thống? Sự gắn kết giữa q
khứ và hiện tại càng tơ đậm nét văn hóa truyền thống có từ ngàn đời của dân tộc. Thật đúng là:


<i>Nước chúng ta</i>


<i>Nước của những người chưa bao giờ khuất </i>
<i>Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất</i>


<i>Những buổi ngày xưa vọng nói về.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>và người đã khuất. Những đứa con đã thấy hình bóng mẹ trở về trong tâm tưởng, trong không gian “thoảng</i>
<i>mùi hoa cam". Và hình như cịn có cả bước chân lội đồng bì bõm của má trên con đường quen thuộc xưa má</i>
đi và nay hai chị em đang bước qua.



<i>=> Đoạn văn xúc động bởi tác giả cho chúng ta tin rằng đã có một cuộc gặp gỡ cảm động giữa hai chị</i>
em Chiến, Việt và người mẹ đã khuất. Còn cuộc gặp gỡ nào cảm động hơn cuộc gặp gỡ ẩy!


<i><b>b.Tình yêu nước gắn liền lòng căm thù giặc cướp nước</b></i>


<i><b>-</b></i> Đoạn văn miêu tả một trạng thái của cảm xúc rất khó diễn tả thành lời, đó là niềm căm thù. Chưa bao
<i>giờ Việt thấy rõ như thế - mối thù thàng Mĩ. Mối thù ấy có thể “rờ thấy được”, “vì nó đang đè nặng ở trên</i>
<i>vai", có thể cân đong được. Bàn thờ má đã “vật chất hóa” cái vốn vơ hình đó là mối thù đối với thằng giặc đã</i>
giết ba má Việt. Nếu khơng có bom đạn của kẻ thù thì giờ này Việt sẽ được má xoa đầu, lấy cơm cho ăn.
Nếu khơng có bom đạn của qn cưóp nước thì giờ này đâu có bàn thờ má nặng trên vai. Cảm nhận sức nặng
của bàn thờ chính là hiểu được gánh nặng của mối thù phải trả. Hai chị em Chiến, Việt đã đi qua những trận
đánh khốc liệt chính là từ những cảm nhận cụ thể này về mối thù sâu nặng của gia đình đối với kẻ thù xâm
lược.


<i><b>-</b></i> Đoạn văn của Nguyễn Thi đã nói lên một cách cơ đọng nhất, hình ảnh nhất về cuộc chiến đấu của
dân tộc: có u thương thì có căm thù, người đã mất nhưng mối thù ở lại đang lên tiếng đòi phải trả. Dân tộc
Việt Nam bước đến ngày khải hồn chính từ những nỗi yêu thương, những niềm căm thù cụ thể đó. Chị em
Chiến, Việt dáng vóc khỏe, to, dang cả thân người lên nhấc bổng bàn thờ má. Nghĩa là thế hệ sau đã cứng
cáp, trưởng thành. Những đứa con trong gia đình đã đủ sức để bay xa, xa hơn cha mẹ. Để họ đưa truyền
thống ấy hòa vào biển lớn của dân tộc:


<i>Ơi Đất Nước sau bổn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy </i>
<i>Những cuộc đời này đã hỏa núi sông ta.</i>


<i>(Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm)</i>
<i><b>2.4.</b></i> <i><b>Nhận xét và đánh giá</b></i>


<i><b>-</b></i> Lối kể chuyện lơi cuốn, có sự đan xen giữa hiện tại và quá khứ qua hình ánh hai chị em khiêng bàn thờ
<i>má trên “con đường hồi trước má vẫn đi". Đó là con đường thân quen "men theo chân vườn thoảng mùi hoa</i>
<i>cam", gợi hình ảnh người má đã tần tảo ‘lội hết đồng này sang bưng khác".</i>



<i><b>-</b></i> Chất sử thi hiện lên ngay trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Ngôn ngữ giàu chất hiện thực, đậm màu
sắc Nam Bộ, gọn gàng, giản dị, thiên về mơ tả hành động, thể hiện tính cách phóng khống, mạnh mẽ.
<i><b>2.5.</b></i> <i><b>Liên hệ</b></i>


<i><b>a. Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương</b></i>


<i><b>-</b></i>Bài thơ nói về chí làm trai là phải dám đối diện với cả trời đất để khẳng định mình trước cuộc đời,
trước vũ trụ bao la. Phan Bội Châu đã vượt qua những giới hạn của tầng lớp nho sĩ mà ý thức sâu sắc về hồi
bão và sứ mệnh của mình. Con người dám đổi mặt với cả trời đất, vũ trụ để khẳng định mình, vượt lên mộng
cơng danh thường gắn liền với hai chữ trung hiếu để vươn tới lí tưởng nhân quần, xã hội rộng lớn.


<i><b>-</b></i>Chí nam nhi thơi thúc Phan Bội Châu phải có một hành động xứng đáng, phi thường: Xuất dương. Và
lời từ biệt đầy hào khí trước khi xuất dương đã thể hiện một khát vọng, tư thế lên đưởng mang vẻ đẹp lãng
mạn.


<i><b>-</b></i>Khát khao lớn lao của cái tơi trữ tình đang cuộn trong những lớp sóng bạc, gió lớn, khuấy động những
đợt sóng lịng dào dạt sục sôi của một thế hệ thanh niên ưu tú nặng lịng với non sơng đất nước, gạt bỏ tất cả
để “xuất dương” cầu học tập, tiến bộ.


b. Bài thơ Tỏ lịng


<i>- Bài thơ Tỏ lịng đã gợi ra hình ảnh người anh hùng thời Trần với vẻ đẹp đầy hùng tâm, tráng chí. Tác</i>
giả đã khắc họa hình ảnh kì vĩ của người anh hùng cứu nước trên nền hào hùng của thời đại. Người anh hùng
ấy thật mạnh mẽ, bền gan vững chí trong hành trình chiến đẩu bảo vệ đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

cao cả. Đó là con người ơm ấp hồi bão, lí tưởng thật cao đẹp. Với Phạm Ngũ Lão, lí tưởng sống mà Ơng
hướng tới là đánh giặc lập công để đền ơn vua, báo nợ nước. Lí tưởng cao đẹp ấy được thê hiện qua món nợ
cơng danh và nỗi thẹn với vĩ nhân. Hùng tâm tráng chí của người anh hùng được thể hiện ở ngay nỗi “thẹn”
– thẹn chưa có tài mưu lược lớn như Vũ hầu (Gia Cát Lượng) đời Thục Hán để trừ giặc cứu nước. Đây là


cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão được đem hết tài trí để cống hiến cho đất nước.


<i><b>2.6.</b><b>Nhận xét về lịng yêu nước và trách nhiệm của mỗi con người Việt Nam hiện nay</b></i>


<i><b>-</b></i> Dù ở bất kì thời đại nào thì tình u q hương đất ln ln là nguồn mạch chảy trong trái tim của
mỗi người con Việt.


<i><b>-</b></i> Trong cuộc sổng hiện nay, mỗi người cần sống có lí tưởng, hồi bão có mục đích cao đẹp, bởi:
<i>“Những khát vọng tốt đẹp chính là cơn gió đẩy con thuyền cuộc đời mặc dù nó vẫn thường gây nên những</i>
<i>cơn giơng tố” (Sontaine), và “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường, khơng có lỉ tưởng thì khơng cỏ phương</i>
<i>hướng kiên định mà khơng có phương hướng thì khơng có cuộc sống'” (L. Tơn-xtơi). Chính vì vậy, mỗi</i>
người hãy hướng tới lí tưởng sống cao đẹp ngày nay là cống hiến cuộc đời cho sự nghiệp: “Dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Hãy luôn rèn luyện, phấn đấu làm việc tận tụy và cống hiến
hết mình.


<i><b>-</b></i> Là thế hệ mùa xuân của đất nước, tuổi trẻ chúng ta càng phải xác định được lí tưởng sống của mình:
<i>“Sống là cho chết cũng là cho” (Tạm biệt, Tố Hữu). Tuổi trẻ cần cảnh giác với tâm lí, hoặc là tự thỏa mãn</i>
với chút cơng trạng của mình hoặc địi hỏi đất nước phải “trả cơng” cho mình. Hãy xác định đóng góp cơng
sức để xây dựng đất nước là nghĩa vụ thiêng liêng,và “đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta, mà hãy hỏi ta đã
làm gì cho Tổ quốc...” . Đặc biệt giờ đây khi đất nước đang cịn nhiều khó khăn, đang phải “neo mình đầu
sóng cả”, mỗi người hãy nhận thức được đúng đắn vai trị của mình.


<i><b>-</b></i> Bên cạnh đó, cũng cần phải phê phán nhũng con người có lối sống vị kỉ, khơng có lí tưởng, mục đích
sống. Bởi như vậy là họ đang tự hủy hoại chính bản thân, cuộc sống cửa họ “đang rỉ đi, đang mòn ra, đang
nổi váng”.


<i><b>-</b></i> Mỗi người chúng ta hãy ln sống có lí tưởng, khát vọng, nhân cách cao đẹp. Và hình ảnh hai chị em
Chiến, Việt; nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu; người anh hùng thời Trần với vẻ đẹp kì vĩ, lẫm liệt, với lí
tưởng sống cống hỉến sẽ luôn cháy sáng trong mỗi tâm hồn Việt Nam. Đó cũng là hành trang quý giá nâng
bước cho mỗi chúng ta trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.



<b>3.</b> <b>Kết bài</b>


<i><b>-</b></i> Đoạn văn đã khắc họa được vẻ đẹp trong tâm hồn, tình cảm của Chiến và Việt - những con người
giàu lòng yêu quê hương, đất nước. Chính sự hịa quyện giữa tình cảm gia đình và đất nước đã tạo nên sức
mạnh tinh thần to lớn cho con người Việt Nam. Trong tâm hồn Chiến và Việt, tình cảm đối với gia đình và
quê hương là động lực để họ ra đi chiến đấu. Hiện thực cách mạng gay gắt cho thấy vận mệnh dân tộc, giai
cấp trở thành vấn đề của mỗi gia đình, mỗi cuộc đời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Hóa thân cho dáng hình xứ sở </i>
<i>Làm nên Đất Nước muôn đời.</i>


</div>

<!--links-->

×